Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
--------------------------------------------------------------------------------------------
Trờng đại học Vinh
Khoa Lịch sử
--------------------------
Bớc đầu tìm hiểu quá trình công nghiệp hoá ở ấn độ
Khoá luận tốt nghiệp
(Khoá: 2001 2005)
Giáo viên hớng dẫn:Th.S Lê Tiến Giáp
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Quý
Lớp: K42 B2
Vinh - 2005
Mục lục
Phần I. Dẫn Luận
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Phơng pháp nghiên cứu
4. Đối tợng nghiên cứu
5. Bố cục đề tài
Trang
3
4
6
6
7
--------------------------------------------------------------------------------------------1
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Phần II. Nội dung
Chơng I. ấn Độ trớc khi công nghiệp hoá
1. ấn Độ trớc khi thực dân phơng tây xâm lợc
2. ấn Độ dới sự thống trị của thực dân Anh và cuộc đấu tranh giành
độc lập của nhân dân ấn Độ
3. ấn Độ sau khi giành chính quyền
Chơng II. Quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ
1. Những tác động đến quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ
2. Quá trình công nghiệp hoá
2.1. Mô hình công nghiệp hoá
2.2. Công nghiệp hoá nông nghiệp
2.3. Công nghiệp hoá công nghiệp
3. Các mặt khác
Chơng III. Hệ quả của cuộc công nghiệp hoá ở ấn Độ
1. Kinh tế
2. ấn Độ trong tơng lai
Phần III. Kết luận
Tài liệu tham khảo
8
8
8
15
28
32
32
35
36
41
51
62
67
67
76
79
81
Lời cảm ơn
Để luận văn đợc hoàn thành tôi đã nhận đợc sự giúp đỡ, hớng dẩn tận
tình của thầy giáo Lê Tiến Giáp giảng viên khoa Lịch Sử cùng các thầy cô
giáo trong khoa. Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ngời thầy
nghiêm khắc và mẫu mực đã dành cho tôi sự chỉ bảo ân cần đầy lòng nhân ái.
Tôi xin gữi lời cảm ơn đến th viện Quốc gia Hà Nội, Viện nghiên cứu
Đông Nam á, th viện trờng Đại Học Vinh, kho t liệu khoa lịch sử.
Vì thời gian và nguồn t liệu có hạn, bản thân còn chập chững trên con
đờng nghiên cứu khoa học nên luận văn còn có thể thiếu sót. Kính mong sự
chỉ bảo của quý thầy cô và bạn bè.
Tác giả: Lê Thị Quý
*******************************************
Dẫn luận
1. Lý do chọn đề tài:
--------------------------------------------------------------------------------------------2
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------ấn Độ là một trong những quốc gia lớn có nguồn tài nguyên thiên
nhiên phong phú và đa dạng. ấn Độ có nền văn hoá lâu đời, một trong những
cái nôi của nền văn minh nhân loại. ấn Độ có một nền văn hoá phong phú và
trong sự giao tiếp đa dạng hàng bao thế kỷ nay, ấn Độ vẫn giữ đợc bản sắc
riêng của mình. Thời cổ Trung đại ấn Độ đã có những thành tựu rực rỡ trên
các lĩnh vực y học, khoa học tự nhiên, khoa học nghệ thuật và những thành
tựu đó đã đến các nớc xung quanh. Đạo Hindu và Đạo Phật ra đời từ ấn Độ
và đã trở thành cơ sở cho nhiều thuyết lý tởng triết học tôn giáo của nhiều dân
tộc phơng đông và trên thế giới.
Lịch sử ấn Độ luôn tạo nên sự cuốn hút mạnh mẽ sự khát khao khám
phá của nhiều học giả, bởi sự độc đoán trong tiếp cận, đấu tranh và phát triển
của quốc gia này. Cho nên luôn tạo đợc sự cuốn hút của độc giả. Vấn đề lịch
sử phát triển của ấn Độ là minh chứng cho điều đó.
Sau cách mạng giải phóng dân tộc năm 1950 ấn Độ đã tiến mạnh mẽ
trên con đờng công nghịêp hoá. Chỉ trong vòng 50 năm bộ mặt ấn Độ đã thay
đổi hẳn từ một đất nớc có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đang đứng trớc
nguy cơ nạn đói kéo dài tràn lan. ấn Độ đã phấn đấu trở thành một nớc có
nền kinh tế độc lập tự cờng, không những khắc phục đợc những khó khăn của
mình mà còn trở thành một cờng quốc có nền kinh tế phát triển mạnh ở châu
á. Có đợc thành công đó là nhờ vào đờng lối phát triển qua trình công nghiệp
hoá ở ấn Độ trên nhiều lĩnh vực nh kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục. Nhờ
chính sách đó đã giúp ấn Độ thành công trên lĩnh vực công nghiệp hoá, hiện
đai hoá của mình.
Trong tiến trình phát triển của lịch sử, cho thấy Việt Nam và ấn Độ có
không ít những điểm tơng đồng về con ngời, văn hoá, thiên nhiên, đặc biệt về
lịch sử văn hoá. Sự phát triển của văn hoá Vệt Nam có ảnh hởng lớn đến văn
hóa ấn Độ. Khi có sự tiếp cận ảnh hởng đô hộ của phơng tây cả ấn Độ và
Việt Nam đều bị các nớc này tiến hành xâm lợc. Tuy quá trình đấu tranh của
Việt Nam và ấn Độ diễn ra không giống nhau về con đờng nhng đều cùng
chung mục đích là giải phóng dân tộc.
Sau khi hai nớc Việt Nam và ấn Độ hoàn thành cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ thì tình cảnh của hai nớc là tơng đối giống nhau là đều xuất phát
từ một nớc nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn.
Nh vậy tìm hiểu nghiên cứu về quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ thời
kỳ này không chỉ cho phép chúng ta biết thêm một cách ứng xử khôn khéo
trong việc tháo gở tình thế, mà còn cho phép chúng ta nhìn nhận lại lịch sử
--------------------------------------------------------------------------------------------3
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------dân tộc. Từ đó đúc rút những bài học, những kinh nghiệm bổ ích cho hiện tại.
Nhất là khi Việt Nam đến thời điểm này vẫn là một nớc nông nghiệp mặc dù
ta đã trải qua 30 năm hoà bình. Cho nên chúng ta phải tiến hành thay đổi học
hỏi nhiều ở các nớc phát triển. Con đờng của ấn Độ cũng là một trong những
điều mà chúng ta cần phải tìm hiểu, học hỏi để rút kinh nghiệm cho nền kinh
tế nớc nhà.
Từ thực tế trên tôi quyết định chọn vấn đề Bớc đầu tìm hiểu quá trình
công nghiệp hoá ở ấn Độ làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của
mình. Hy vọng sẽ làm rõ vấn đề trên, có thể trao đổi thêm tri thức lịch sử cho
bản thân.
2. Lịch sử vấn đề:
Trên thực tế trong thời gian qua những công trình nghiên cứu về vấn
đề ấn Độ đợc công bố qua các ấn phẩm ở nớc ta, còn rất ít. Nhiều vấn đề
quan trọng, nhiều tác phẩm có giá trị, nhiều danh nhân tân cổ quốc tế trong
các lĩnh vực quân sự, nghệ thuật, kinh tế của ấn Độ, còn cha đợc tổ chức
nghiên cứu giới thiệu dịch thuật một cách đầy đủ. Hơn nữa đội ngũ nghiên
cứu chuyên sâu về ấn Độ ở nớc ta đã ít lại phân tán. Số ngời gọi là chuyên gia
ấn Độ học, nhà nghiên cứu ấn Độ cũng chỉ có thể đếm đợc trên đầu ngón tay.
Trớc hết ở nớc ngoài có các tác giả.
R.P. Dutt với tác phẩm ấn Độ hôm qua và ngày mai đây là công
trình có gía trị về ấn Độ thuộc Anh.
Will Duvant với tác phẩm lịch sử văn minh của ấn Độ.
Rpanmôdôt ấn Độ hôm nay và ngày mai.
Jawahavlal: Nêhru phát hiện ấn Độ.
Còn ở trong nớc có:
Đinh Trung Kiên ấn Độ hôm nay và hôm qua.
Vũ Dơng Ninh lịch sử ấn Độ.
Nguyễn Anh Thái lịch sử thế giới hịên đại.
Minh Tranh ấn Độ cách mạng trung tâm khoa học và nghiên cứu
Đông Nam á 1987.
Nớc cộng hoà ấn Độ nhà xuất bản sự thật Hà Nội 1983.
Ngoài ra còn một số tác giả khác. ở trờng Đại Học Vinh cũng đã có
một số công trình nghiên cứu nh Nguyễn Công Khanh với Indra Gandrhi.
Một bản lĩnh chính trị lớn. Lịch sử ấn Độ của Nguyễn Công Khanh, Vũ Dơng
Ninh, Phạm Văn Ban. Phong trào giải phóng dân tộc của thầy Văn ngọc
Thành.
--------------------------------------------------------------------------------------------4
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Nhng hầu hết các công trình trên đều nghiên cứu các tính chất thông
sử về quá trình hình thành và phát triển của ấn Độ thông qua từng thời kỳ,
từng giai đoạn. Trong đó có một số công trình đi sâu vào quá trình giải phóng
dân tộc ở ấn Độ. Đáng chú ý có một số công trình đi sâu vào nghiên cứu sự
phát triển của quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ nhng mới chỉ dừng lại dạng
khái quát.
Nói chung, bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau các nhà nghiên cứu đã
đi sâu vào trình bày các lĩnh vực của cải cách kinh tế. Tuy nhiên, tính đến thời
điểm này vẫn cha có một chuyên khảo nào tập trung đi sâu vào đề cập một
cách đầy đủ, có hệ thống về quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ. Vì vậy, dựa
trên cơ sở hệ thống tổng hợp và xử lý t liệu, tôi hy vọng rằng sẽ trình bày đầy
đủ hơn.
3. Phơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở nguồn tài liệu thu đợc, bằng phơng pháp luận Mác Lê
Nin và các phơng pháp nghiên cứu lịch sử, chúng tôi cố gắng tái hiện khách
quan chân thực một cách tổng quát về ấn Độ trong quá trình công nghiệp
hoá. Trong đó đề tài chủ yếu sử dụng phơng pháp lịch sử kết hợp với phơng
pháp lôgíc và phơng pháp bộ môn nhằm giải quyết bớc đi những vấn đề mà
tiểu luận đặt ra.
Bên cạnh đó, đứng trên quan điểm của đảng về các vấn đề quốc tế, đờng
lối đối ngoại cũng đợc quán triệt trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra đề tài
còn sử dụng các phơng pháp chuyên ngành, liên ngành, nh tổng hợp, thống
kê, phân tích, đối chiếu, so sánh và song luận lôgíc để giải quyết các vấn đề
mà đề tài đặt ra.
4. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu:
Nh tên đề tài đã chỉ rõ, đối tợng nghiên cứu của luận văn là bớc đầu
tìm hiểu quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ. Tuy nhiên để đảm bảo tính liên
tục, hệ thống để hiểu đợc giá trị của lĩnh vực này, không thể không khái quát
về ấn Độ trớc khi thực hiện quá trình công nhiệp hoá. Song do hạn chế về
mặt tài liệu và quy mô của luận văn, chúng tôi không đề cập đến tất cả các
khía cạnh, mà chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất là những vấn đề thách
thức đối với lịch sử ấn Độ trớc khi thực hiện quá trình công nghiệp hoá.
Nghiên cứu về vấn đề bớc đầu tìm hiểu quá trình công nghiệp hoá của
ấn Độ. ở đây nó bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, rất rộng lớn và phức tạp.
--------------------------------------------------------------------------------------------5
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Trong luận văn này chúng tôi mới chỉ tập trung nghiên cứu tìm hiểu cách đi
và biện pháp thực hiện quá trình này. Chứ cha có đủ điều kiện nghiên cứu một
cách sâu sắc hơn một quá trình công nghiệp hoá.
5. Bố cục đề tài.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn này gồm có 3
chơng.
Chơng I. ấn Độ trớc khi công nghiệp hoá.
Chơng II. Quá trình công nghiệp hoá của ấn Độ.
Chơng III. Hệ quả của cuộc công nghiệp hóa ở ấn Độ
Nội dung
Chơng I . ấn Độ trớc khi công nghiệp hoá
1. ấn Độ trớc khi thực dân phơng tây xâm lợc.
ấn Độ là một quốc gia rộng lớn ở miền Nam châu á. Có diện tích lớn
thứ bảy trên thế giới, với diện tích của mình 3.280.483 Km 2 và có dân số
đông thứ hai của trái đất sau Trung Quốc, khoảng gần 900 triệu ngời. Nhìn
trên bản đồ ấn Độ, kéo dài từ 806 đến 3706 vĩ độ Bắc và trải rộng từ 6807 đến
97023 kinh đông. Phía Đông Bắc giáp Mianma và Băng la đét, phía Tây và
--------------------------------------------------------------------------------------------6
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------phía Nam của ấn Độ đợc biển cả và đại dơng bao bọc. Biển ả Rập ở phía
Tây, Vịnh Ben gan ở phía Đông và ấn Độ dơng ở phía Nam. Bờ biển của ấn
Độ dài tới 6100 km. ấn Độ hiện tại là một trong những nớc lớn trên thế giới,
tuy nhiên xa kia ấn Độ còn lớn hơn ấn Độ bây giờ và ấn Độ xa còn là một
trong nhng quốc gia có nên văn minh sớm của nhân loại.
1.1 Đất nớc.
ấn Độ là một đất nớc rộng lớn và giàu đẹp, có một vị trí thuận lợi có
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng. ấn Độ
nằm ở trung tâm khu vực Nam á. Lãnh thổ ấn Độ trải dài suốt từ dãy núi Hyma-lai- a ở phía Bắc đến ấn Độ Dơng ở phía Nam. Địa hình ấn Độ rất đa
dạng, có thể chia thành 3 miền rõ rệt.
Phía Bắc ấn Độ có hệ thống núi Hy-ma-lai-a, là biên giới tự nhiên giữa
ấn Độ và Trung Quốc. Hệ thống núi Hy-ma-lai-a gồm 3 dãy núi lớn, trùng
điệp, ngăn cách bởi các thung lũng rộng, dài chạy song song với nhau. Nổi
tiếng là thung lũng Ca-sơ-mia thơ mộng, một trung tâm du lịch, từ thời cổ đã
đợc mang tên Thiên đàng của hạ giới [4, 6]. Hệ thống núi Hy-ma-lai-a chạy
theo hình vòng cung dài hơn 2000 km trong đó có hơn 40 ngọn núi có ngọn
cao hơn 7000 km quanh năm tuyết phủ. Hy-ma-lai-a nh một bức tờng thiên
nhiên ngăn chặn các luồng gió lạnh ở phía Bắc xuống và các luồng khí ẩm ở
phía Nam lên. Bởi vậy, về mùa Đông ấn Độ có nhiệt độ cao hơn các nớc khác
ở cùng vĩ tuyến và cùng mùa hè thì ma rất nhiều.
Từ phía Nam chân núi Hy-ma-lai-a đến phía Bắc của cao nguyên Đề
can là đồng bằng sông Hằng. Đây là đồng bằng rộng nhất lục địa á- Âu.
Ngoài một số vùng đất gan gà, đất sét pha cát còn lại thì đại bộ phận đồng
bằng đợc bồi dắp bằng phù sa mầu mỡ của sông Hằng, có nơi đất dày. Khí
hậu nhiệt đới nóng ẩm, đồng bằng sông Hằng là địa bàn trồng các loại cây lơng thực nhiệt đới lớn nhất của ấn Độ.
Vùng tam giác phía Nam ấn Độ là bán đảo Đề-can, mà đại bộ phận là
cao nguyên Đề- can. Cao nguyên Đề- can giống nh lòng chảo, ở giữa thấp,
hai bên cao, tạo thành hai dãy núi lớn. Hai dãy núi này thấp dần về biển, tạo
thành nhiều bậc gọi là Gát Đông và Gát Tây. Đất đai của cao nguyên Đề
Can không màu mỡ, khí hậu lại khô nóng, nên thực vật ít phát triển, ngoài
rừng cỏ tranh lá rừng tre, nứa. Riêng ở phía tây Bắc, có đất đỏ ba-zan là vùng
chuyên canh bông. Bán đảo này không có giá trị lớn về nông nghiệp, nhng có
nhiều mỏ khoáng sản với trữ lợng cao, nh các mỏ sắt, man-gan, than đá.
Thuận tiện cho việc phát triển cho các ngành công nghiệp.
--------------------------------------------------------------------------------------------7
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------ấn Độ có khí hậu nhiệt đới và gió mùa. Do đất đai rộng lớn và địa hình
đa dạng, khí hậu các miền của ấn Độ khác nhau rõ rệt. Phía Bắc chịu ảnh hởng của khí hậu ôn đới, phía Nam thuộc miền nhiệt đới, phía đông và tây chịu
ảnh hởng khí hậu Đại Dơng. Thời tiết của ấn Độ chia làm bốn mùa: mùa
đông từ tháng 12- tháng3, mùa hè từ tháng 4 tháng 5, mùa ma từ tháng 6 đến
tháng 9, và mùa gió mùa tây nam trong các tháng 10 đến tháng 11. Nhiệt độ
trung bình mùa đông khoảng trên 200C. Tuy nhiên, miền đồng bằng sông
Hằng chịu ảnh hởng của gió tây bắc từ cao nguyên I-ran thổi xuống mang
theo không khí lục địa khô và lạnh. Nhìn chung, mùa đông ở ấn Độ hanh
khô, nhất là ở phía Bắc và tây Bắc. Mùa hè gió đông nam từ Vịnh Bengan và
gió tây nam từ ấn Độ Dơng thổi vào mang theo không khí nóng ẩm, nên gây
ra ma nhiều. Lợng ma trung bình hàng năm ở đây gần 12.000 mi-li-mét. Ma
nhiều là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là ngành
trồng chè. Tuy nhiên, mùa hè ma nhiều cũng gây ra lũ lụt và mùa đông lại
khô hạn. ấn Độ đã cố gắng khắc phục tình trạng đó bằng cách xây dựng
những công trình thuỷ lợi và mạng lới sông thuỷ nông tơng đối phát triển.
Sông ngòi của ấn Độ gồm có bốn hệ thống sông lớn: hệ thống sông
vùng núi Hy-ma-lai-a, hệ thống sông vùng bán đảo Đề-can, hệ thống sông
ven biển và hệ thống sông thuỷ nông. Trong hệ thống sông vùng Hy-ma-lai-a
có sông Hằng là con sông lớn nhất của ấn Độ. Lu lợng nớc của sông Hằng
khá lớn, nên về mùa ma hay gây ra ngập lụt. Vì vậy, trên lu vực sông Hằng
ngời ta đã xây dựng nhiều công trình trị thuỷ.
Hệ thống sông trên bán đảo Đề-can có các sông lớn nh sông Đề-can,
Na-na-đi, Gô-đô-va-li, Cơ-lít-na. Đa số các con sông đều bắt nguồn từ dãy
Gát tây, chảy về phía đông và đổ vào vịnh Ben-gan. Do những đặc điểm trên,
các sông này chủ yếu chỉ phục vụ việc tới ruộng, còn giá trị về giao thuỷ và
thuỷ điện không đáng kể.
Hệ thống sông ven biển không dài lắm, lòng sông không sâu. nhiều
khúc sông bị nghẹn vì đá ngầm.
Trên hệ thống núi Hy-ma-lai-a, bốn phần năm là rừng, có nhiều khu
rừng nguyên thuỷ và nhiều khu rừng già có giá trị kinh tế cao. Rừng ở miền
Nam ấn Độ có nhiều cây cổ thụ. Ngoài ra, ở vùng đồng bằng còn tồn tại một
số dãy rừng tha. Rừng ở ấn Độ có nhiều tiềm năng lớn. Ngoài khối lợng lớn
các loại gỗ, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế cao đợc dùng trong xây
dựng giao thông, rừng ấn Độ còn có hàng vạn loại cây thuốc, cây công
nghiệp, cây ăn quả, mỗi năm xuất khẩu hàng trăm triệu đô-la. Rừng ấn Độ
--------------------------------------------------------------------------------------------8
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------còn có một quần thể động vật rất phong phú gồm: S tử, hổ, ngựa rừng, hơu,
nai, rắn, voiHầu hết các loại động vật, thực vật nhiệt đới đều có mặt ở ấn
Độ.
ấn Độ có nhiều loại nông sản nh lúa nớc, lúa mì, kê, cao lơng, các loại
màu, các lọai cây ăn quả, cây công nghiệp nh bông, chè
Nguồn khoáng sản của ấn Độ khá phong phú có trữ lợng lớn và chất lợng tốt, nằm rải rác khắp đất nớc. Vùng than lớn nhất ở ấn Độ là Gôn-oa-na
và Tốc-ti-na-ry, có nơi mỏ than hầu nh lộ thiên, trữ lợng khoảng 121.360 triệu
tấn. Từ thập kỉ 40 của thế kỉ này, ấn Độ đã bắt đầu phát hiện ra dầu mỏ tại
các vùng At-sam, Tri-pu-ra, Tây Ben-gan, Pun-giát, Hy-ma-lai-a. Trữ lợng
dầu mỏ ở ấn Độ khá lớn, nhng cha đợc thăm giò và xác định đầy đủ. Quặng
sắt của ấn Độ ớc tính chiếm tới 1/4 trữ lợng củathế giới. ấn Độ có các mỏ sắt
ở các bang Bi-ha, Ô-rít-xa, Ma-đi-a với trữ lợng ớc tính 180 triệu tấn, đứng
thứ 3 trên thế giới. Phần lớn mỏ Crôm của ấn Độ nằm tại các bang Bi-ha, Ôrít-sa. ấn Độ đã phát hiện đợc thêm nhiều lợng mỏ Crôm trữ lợng khoảng 58
triệu tấn. Vàng cũng là nguồn của cải lớn của ấn Độ. ở đây mỏ đồng cũng có
trữ lợng lớn với 36 triệu tấn, ấn Độ có hai vành đai mỏ đồng. Mỏ kẻm lớn
nhất ở ấn Độ là ở bang Ra-ját-than có trữ lợng 10 triệu tấn.
Ngoài những khoáng sản trên, hiện nay ấn Độ đang tiếp tục thăm giò
khai thác các khoáng sản khac nh: A-pa-tít, A-be-tốt, Ba-rai, Bồ tạt, ngọc
thạch, nham thạch anh, muối diêm, đá vôi, phốt phát,
Nớc cộng hoà ấn Độ là một nớc liên bang gồm 22 bang và 9 lãnh địa
liên bang. Mỗi bang ở ấn Độ có một thủ lĩnh riêng. Thủ phủ của các bang có
tầm cở nh một thành phố lớn, với hàng triệu dân. Các thành phố ở ấn Độ có
nhiều công trình kiến trúc mang dáng dấp nền văn minh sông ấn, nền văn hoá
Hindu hoà hợp với kiến trúc hiện đại.
Thành phố Đê- Li nay gọi là Neu Đê- Li - thủ đô của nớc cộng hoà ấn
Độ có hơn 5 triệu dân, đợc xây dựng từ hơn một nghìn năm trớc đây, với
những công trình kiến trúc hiện đại nh dinh tổng thông, nhà Quốc hội, các cơ
quan nhà nớc, những khách sạn du lịch, các khu nhà ở nhiều tầng, những trờng đại học, viện nghiên cứu khoa họcThành phố Đê- Li với những cơ sở
kinh tế và văn hoá, những di tích lịch sử và mạng lới giao thông hiện đại của
nó, là trung tâm công nghiệp và du lịch nổi tiếng của ấn Độ.
Nh vậy ngời dân ấn Độ từ lâu đã thừa hởng trên đất nớc mình một tiềm
năng kinh tế hết sức dồi dào. Đây là điều kiện thuận lợi cho ấn Độ phát triển
nền kinh tế công nghiệp.
--------------------------------------------------------------------------------------------9
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------1.2. Con ngời.
Lịch sử ấn Độ đã trải qua khoảng năm nghìn năm xây dựng và đấu
tranh giữ nớc. Con ngời ấn Độ có tinh thần lao động cần cù sáng tạo và bất
khuất kiên cờng. Ngay từ thời Sử thi nổi lên rạng rỡ với hai thiên anh hùng
ca Ra-ma-y-a-na và Ma-ha-cha-ra-ta ngợi ca những chiến công chống ngoại
xâm trong một xã hội bắt đầu phân chia đẳng cấp. Hai tác phẩm này đã nhanh
chóng gây tiếng vang lớn trong nền văn học của các nớc láng giềng, và ảnh hởng sâu sắc đến tinh thần, tính cộng đồng dân tộc ở ấn Độ.
Cộng đồng các dân tộc ấn Độ xuất hiện từ các giống ngời A-ri-an ấn
Độ, Đra-vi-đen và Mông-gôn. Theo những kết quả khai quật của ngành khảo
cổ học, và nghiên cứu dân tộc học, ngay từ thời cổ đại trên tiểu lục địa ấn độ
đã có những bộ tộc ngời A-ri-an ấn Độ và ngời Đra-vi-đen tổ tiên của ngời
ấn Độ ngày nay- sinh sống. Cùng với sự phát triển và lịch sử, sự tan rã của
chế độ chiếm hữu nô lệ, sự ra đời của chế độ phong kiến và sự xâm nhập của
các chủng tộc ngoại lai, cộng đồng dân tộc ấn Độ ngày càng thêm đông đảo.
Sau khi đế quốc Mô-ri-a tan rã, ấn Độ chia thành nhiều quốc gia nhỏ,
mầm mống của chế độ phong kiến cát cứ. Vùng tây bắc liên tiếp bị xâm lăng.
Ngời Hy - Lạp kéo quân vào đánh chiếm ấn Độ. Không khuất phục đợc các
dân tộc ấn Độ, quân viễn chinh phần lớn phải rút về nhng một số ngời HyLạp đã ở lại ấn Độ và dần dần, họ bị đồng hoá thành ngời ấn Độ.
Giữa thế kỷ 5 sau công nguyên, ngời Han-đơ, ép-thát và đế quốc Hácxa ở Trung á xâm nhập ấn Độ. Cuối thế kỷ VI đế quốc này bị quân Thổ-nhikì, đánh bại phải rút chạy khỏi ấn Độ. Còn đế quốc Hác-xa tiếp tục chinh
phục vùng phía Bắc ấn Độ. Chiếm cứ Năm xứ ở ấn Độ. Theo thời gian ngời Hác- xa cũng dần đồng hoá với các bộ tộc ngời ấn. Nh vậy mỗi quốc gia đợc hình thành trên nền tảng một hình thành bộ tộc và các thị tộc. Cùng với
các bộ tộc miền Bắc, các bộ tộc ở miền Nam đã góp phần làm cho cộng đồng
các dân tộc ở ấn Độ ngày càng thêm đông đảo. Ngoài ra ở ấn Độ còn có
những ngời du mục, di c tới miền Nam châu Âu, Tây á, Trung á đến và
những ngời gốc Cu-san, Mông Cổ, Hy Lạp, Ba t.
Do tính chất đa dạng về mặt dân tộc, nên ở ấn Độ có tới 1652 thổ ngữ
khác nhau, nhng trong thực tế hai ngôn ngữ đợc sử dụng rộng rãi là tiếng
Hindu và tiếng Anh.
ở ấn Độ, chế độ đẳng cấp đợc hình thành từ lâu đời, chế độ đẳng cấp
ở ấn Độ đã thay đổi tuỳ theo thời gian, và ngày nay về mặt pháp lý nó không
đợc tồn tại ở ấn Độ. Tuy nhiên nó đã thâm nhậm khá sâu trong tình cảm và ý
--------------------------------------------------------------------------------------------10
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------trí của các lớp ngời trong xã hội. Từ thời vơng triều A-sô-ca, xã hội ấn Độ đã
có hai đẳng cấp cơ bản lãnh chúa và nông nô. Ngoài ra còn có các tầng lớp:
Tăng lữ, quý tộc, võ sĩ, thơng nhân, chúa đất, những ngời cho vay nặng lãi.
Các tầng lớp này hình thành gắn liền với những hành động bạo lực nh cớp
ruộng đất để chiếm không và tập trung ruộng đất vào các tiểu quốc. Ruộng
đất ở nông thôn xa kinh thành, xa các thành thị lớn cũng bị lãnh chúa địa chủ
phong kiến chiếm đoạt và kìm kẹp bóc lột.
Tới đầu thế kỷ XIX, cùng với sự xâm nhập của t bản phơng tây, giai
cấp t sản ấn Độ đã dần dần hình thành trong đó phần lớn là các tầng lớp
phong kiến đã t sản hoá. Trong một xã hội nữa thuộc địa nữa phong kiến, giai
cấp t sản ấn Độ cũng bị đế quốc, thực dân chèn ép. Họ mâu thuẫn quyền lợi
với bọn thực dân, nên có tinh thần dân tộc chống đế quốc, muốn phát triển
nền kinh tế độc lập và kết quả là mặc dù bị chèn ép, giai cấp t sản ấn Độ
cũng đã phát triển khá. Một mặt, họ cũng có phối hợp trong phong trào giải
phóng dân tộc với giai cấp công nhân ở mức đọ nhất định; nhng mặt khác, do
lợi ích giai cấp họ không sẳn sàng đáp ứng các yêu sách của công nhân đòi
quyền dân sinh dân chủ.
Gia cấp công nhân ấn Độ ra đời từ khoảng giửa thế kỷ XIX. Những
năm 50 của thế kỷ XIX, các xí nghiệp dệt đợc bắt đầu đợc thành lập ở Bombay, sau đó lan ra khắp ấn Độ. Công nghiệp nhẹ là ngành chủ yếu dới thời
thực dân và hơn 80% công nhân ấn Độ làm việc trong các ngành ấy. Theo dà
phát triển của chủ nghĩa t bản ở ấn Độ, số lợng công nhân ấn Độ ngày càng
tăng. Nhng trớc ngày giải phóng, ấn Độ vẫn là nớc nông nghiệp, nông dân
chiếm tới 90% dân số. Đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ. Họ phải chịu
đựng ba tầng lớp áp bức bóc lột của thực dân, t sản, phong kiến. Trong hoàn
cảnh đó họ đã không ngừng nổi dậy đấu tranh, chống bọn thực dân và tay sai
ý thức giác ngộ ngày càng cao, và tới năm 1925 đã thành lập đợc chính đảng
của mình- đảng cộng sản ấn Độ. Từ đây đã mở ra con đờng đấu tranh giải
phóng dân tộc ở ấn Độ. Đó chính là sự tiếp nối, truyền thống anh hùng của
ngời dân ấn Độ.
1.3 Xã hội.
Trong đời sống xã hội ấn Độ thời cổ Trung Đại, ngoài sự phân biệt
đẳng cấp, tình trạng bất bình đẳng giữa nam và nữ cũng rất nặng nề và dai
đẳng. Địa vị phụ nữ hết sức thấp kém luôn bị phụ thuộc vào cha, chồng và
con trai. Ngay cả trong sinh hoạt đời thờng, phụ nữ cũng bị bạc đãi bởi những
tập tục nặng nề. Ra đờng vợ phải đi sau chồng một quãng. ở nhà vợ phải
--------------------------------------------------------------------------------------------11
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------phục vụ chồng trong bữa ăn và phải ăn sau chồng. Một thời gian dài ở ấn Độ
còn duy trì tục lệ thiêu theo chồng khi chồng chết ( Tới năm 1829 thủ tục này
mới đợc bải bỏ) [6;72].
Những khác biệt về tôn giáo, chủng tộc ở ấn Độ cùng với những tập
quán, phong tục bảo tồn và thần thánh hoá đã làm cho xã hội truyền thống
vừa có nét riêng biệt vừa bảo thủ trì trệ.
Đến thời đại Mu-xlim của vơng triều Mô- gôn từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XVIII. Các vua đầu triều Mô-gôn nh Ba-bơA-cơ-ba, SaRa-han đã thi hành
một số chính sách cải cách nh giảm nhẹ luật hình, thuế má nhằm tranh thủ
lòng dân và dựa vào tầng lớp quý tộc theo Đạo Hồi và Đạo Hindu. Các triều
đại Mô-Gôn, tuy không cai trị đợc lâu, nhng đã cố gắng khôi phục, phát triển
kinh tế, tranh thủ lòng dân vốn còn ngỡng mộ các dòng dõi Hindu bằng
những chính sách cải lơng. Nhờ đó, nền kinh tế và hàng hoá có bớc phát triển
nhất định. Một số công trình kiến trúc nổi tiếng thế giới, nh lăng mộ Ta-mahan xây toàn bằng đá cẩm thạch trắng hồi thế kỷ XVI. Trong kinh tế, điều
đáng chú ý là kinh tế tiền tệ lúc này đã bắt đầu thâm nhập nông thôn, làm suy
yếu các công xã nông thôn.
Đến thời Ô-ran-giép, nhà vua và tầng lớp thống trị boc lột nhân dân
làm cho các tầng lớp nhân dân vô cùng căm phẫn. Nhiều cuộc khởi nghĩa
chống chính quyền trung ơng đã nổ ra, tiêu biểu là cuộc nổi dậy của ngời Mara-tháp. Triều đình Mô-gôn lại dựa vào t bản nớc ngoài để đàn áp nhân dân.
Hành động này đã tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa thực dân xâm nhập
ấn Độ và dẫn tới hậu quả sự sụp đổ của chế độ phong kiến.
Từ đây xã hội ấn Độ chìm trong sự xâm lợc tranh dành của các nớc phơng tây. Nhằm biến nớc này thành thuộc địa của mình. Nh vậy xã hội ấn Độ
bớc vào thời kỳ đấu tranh giải quyết các mâu thuẫn xã hội, không những là
mâu thuẫn giai cấp mà lúc này vấn đề cấp thiết là giải quyết mâu thuẫn dân
tộc. Để đa đất nớc ấn Độ tiến tới độc lập tự chủ.
2. ấn Độ dới sự thốngtrị của thức dân Anh và cuộc đấu tranh dành độc
lập của nhân dân ấn Độ.
2.1. Sự xâm lợc của thực dân.
Vào cuối thời đai phong kiến ở châu Âu, kinh tế hàng hoá phát triển, t
bản phơng tây nhiều lần tìm đờng buôn bán với các nớc phơng đông, trong đó
có ấn Độ.
Châu á nói chung và ấn Độ nói riêng đợc coi là miền đất lý tởng, hấp
dẫn với những nguồn nguyên liệu giàu có, hơng liệu dồi dào (Nhất là hồ
--------------------------------------------------------------------------------------------12
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------tiêu). Trên tuyến đờng buôn bán Đông Tây, bán đảo Hindux tam có vị trí
quan trọng. Trong khi đó, nội tình xứ này lại rối ren, nằm trong tình trạng
phân liệt, cát cứ giữa các tiểu vơng quốc. Vơng triều Mô-gôn chỉ cai trị ở
vùng Bắc ấn và chế độ phong kiến ở đây đang trên đờng khủng hoảng. Từ
cuối thế kỷ XV, lợi dụng tình hình đó các nớc phơng Tây đã tìm cách xâm
nhập ấn Độ.
Giữ vai trò to lớn trong cuộc xâm nhập xứ này là những công ty Đông
ấn của các nớc Hà Lan, Pháp, Anh Trên con đờng nô dịch hoá ấn Độ, t bản
phơng Tây đã trải qua các bớc: Đặt thơng điếm (thế kỷ XVI), lập các vùng đất
thực dân (thế kỷ XVII) tiến hành chinh phục xứ sở (Thế kỷ XVIII) và thiết
lập nền thống trị đế quốc ( từ giữa thế kỷ XVIII trở đi). Bồ Đào Nha là n ớc
đầu tiên đến ấn Độ. Năm 1498 Vaxcô đơ Gama, sau khi đi vòng quanh ven
biển châu Phi đã đặt chân lên Calicút miền tây ấn Độ theo chân Vaxcô đơ
Gama, các thơng nhân Bồ Đào Nha đã đến đây buôn bán. Trong quá trình
buôn bán của ngời Hà Lan ở ấn Độ. Đến năm 1510 ngời Bồ Đào Nha đã
chiếm đóng và lập thơng điếm ở Điu, Đaman ven bờ biển phía Tây ấn Độ.
Sau Bồ Đào Nha là ngời Hà Lan. Công ty đông ấn Hà Lan thành lập
năm 1602. Mặc dù địa bàn hoạt động chính của công ty là Inđônêxia, song từ
năm 1663, Hà Lan vẫn chiếm Cô chin (Một thơng điếm của ngời Bồ ở Tây
Nam ấn) và đứng chân đợc hơn một thế kỷ (đến năm 1765). Cả ngời Bồ Đào
Nha lẫn ngời Hà Lan đều không phát huy đợc thế lực vì gặp hai địch thủ lớn
hơn và Anh và Pháp.
Dới hình thức các công ty Đông ấn. Cuộc tranh chấp ấn Độ về hình
thức là giữa các công ty Đông ấn với nhau, song thực chất là giửa chính phủ
các nớc có công ty đó với nhau. Các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đến ấn Độ
đều do nha vua phái đi và tài trợ, còn ngời Hà Lan, ngời Anh khi lập công ty
đều có sự phê chuẩn của nớc mình. Năm 1600, chính nử hoàng Anh Êlidabét
thành lập công ty đông ấn của Anh. Tiếp đó, công ty luôn đợc trao thêm đặc
quyền mới. Các đạo luật năm 1657, năm 1661 cho phép công ty có quyền
tuyên chiến và ký hoà ớc, năm1686 công ty đợc quyền đúc tiền, đóng tàu
chiến, lập hàm đội, tổ chức bộ binh. Năm 1708 theo quy định của nghị viện
Anh, công ty Đông ấn thống nhất ( gồm công ty cũ và công ty t nhân thành
lập năm 1698 sát nhập ) chính thức có địa vị pháp lý và phát triển nhanh hơn.
Các vua Đại Mô-gôn cuối cùng nuôi hy vọng dùng ngời Anh để chống lại ngời Bồ Đào Nha, cho nên đã cho thơng nhân Anh quyền buôn bán tự do trên
đất nớc rộng lớn của mình. Nhng khi ngời Anh sắp đứng vững ở vùng duyên
--------------------------------------------------------------------------------------------13
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------hải, chính quyền phong kiến nhiều lần có ý đồ và hành động tống khứ họ đi,
song không thành công.
Lúc này trên đất ấn Độ đã diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa ba thế lực
thực dân trong suốt mấy chục năm. Thực dân Anh và Hà lan đã ra sức khoét
sâu các mâu thuẫn trong xã hội ấn Độ, nh mâu thuẫn giữa các tiểu vơng quốc
với triều đình trung ơng, giữa các tiểu vơng theo Đạo Hồi với các tiểu vơng
theo Đạo Hindu, và đã sử dụng sức mạnh quân sự buộc Bồ Đào Nha phải từ
bỏ thuộc địa ấn Độ. Trớc áp lực của thực dân Anh, triều đình Mô-gôn đã
buộc phải để cho chúng lập một số thơng điếm. Đó là những bàn bạc, nhng
căn cứ chuẩn bị cho việc đánh chiếm toàn bộ ấn Độ. Ngoài ra Anh còn buộc
thực dân Bồ Đào Nha phải ngừng cho chúng độc quyền buôn bán ở Vịnh Pécxich, chuyển nhợng cảng Bom bay cho chúng. Sau khi lấn át đợc Bồ Đào
Nha. Cuối cùng do yếu hơn, Hà Lan phải rời bỏ ấn Độ sang chiếm giữ
Inđônêxia. Lúc này công ty Đông ấn Anh tronh thế kỷ XVIII là công ty giàu
nhất ở ấn Độ.
Trong khi đó nớc pháp kẻ đang tranh giành thuộc địa với Anh cũng mở
rộng hoạt động nhằm chiếm thuộc địa ở miền Viễn Đông. Nhờ liên kết với
các tiểu vơng quốc theo Đạo Hồi và dới danh nghiã truyền đạo, thực dân Pháp
đã đặt đợc một số cơ sở ở phía đông ấn Độ. Nhân lúc Anh bận chinh phục vơng quốc vùng đông Bắc, Tây Bắc và trung tâm ấn Độ, đợc sự thoả thuận của
một số tiểu vơng, thực dân Pháp chiếm một số lãnh địa quan trọng của ấn Độ
và tiến hành thành lập công ty Đông ấn của Pháp thành lập vào năm 1644
điều khiển công ty là Cônbe- đại thần của Luy XIV. Công ty Pháp có quyền
hành rất rộng. Họ đợc quyền sử dụng toàn bộ đất đai chiếm đợc, có quyền xét
xử và trừng trị dân chúng trong khu vực, có quyền tuyên chiến hay kí hoà ớc;
nếu bị tấn công thì công ty sẽ đợc chính phủ bảo vệ. Một bộ trởng của Luy
XV từng nói: Chúng ta có những thuộc địa mà nếu tôi là vua Pháp, tôi sẽ đổi
đi để lấy chiếc trâm cài đầu [6;75]. Thêm vào đó, công ty Pháp đợc trang bị
hàm đội mạnh, quân lính ô hợp, chất lợng sỹ quan không cao. Đó là lý do giải
thích sự thất bại của họ trong cuộc chiến sắp tới với ngời Anh.
Công ty Đông ấn của Pháp và của Anh đều có âm mu thành lập một
thuộc địa lớn ở ấn Độ. từ năm 1740 đã bắt đầu tổ chức một đội quân ngời ấn,
dới sự chỉ huy của các sỹ quan pháp gọi là các đơn vị Xipay những đội quân
này đợc huấn luyện kĩ càng, có sức chiến đấu tốt , lai đợc trang bị vũ khí hiện
đại. Trớc tình hình đó đến năm 1746 ngời Anh cũng bắt đầu tổ chức các đơn
vị Xipay.
--------------------------------------------------------------------------------------------14
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Việc Anh và Pháp đều nuôi hy vọng độc chiếm ấn Độ đẫ dẫn đến mâu
thuẩn và xung đột. Duyên cớ của cuộc xung đột kéo dài gần 20 năm giữa 2 nớc là cuộc tranh giành quyền thừa kế ngôi vua ở áo năm 1744. Cuộc chiến
của hai nớc này lan sang cả ấn Độ. Năm 1746, tàu chiến Pháp tiến đến bao
vây, đánh chiếm Mađrát. Sau đó, do bất hoà xẩy ra trong các cấp chỉ huy, thế
lực Pháp bị giảm và quân Pháp phải rút. Mặc dù hoà bình đợc lặp lại ở châu
Âu, cuộc chiến tranh giữa các công ty Đông ấn của Anh và Pháp vẫn tiếp
diễn.
Cả hai bên đều nhúng tay vào cuộc tranh chấp ngai vàng giữa hai
hoàng tử ấn Độ sau cái chết của vua cha năm 1748. Anh ủng hộ Naxia Jang
còn Pháp đứng về phía Muđapha Jang. Ban đầu Pháp chiếm u thế, đa
Muđapha lên ngôi, ngời Pháp đợc làm chủ cả vùng Đông Nam cao nguyên
Đề- Can.
Ngời Anh hiểu rằng địa vị của họ bị đe doạ, nên đã giúp đở Naxia.
Muđâph bị giết. Ngời Pháp buộc phải từ bỏ các tỉnh phía Bắc, Đuyplêx bị
triệu hồi về nớc. Nh vậy đến năm 1756 cuộc chiến tranh 7 năm giửa Pháp và
Anh bắt đầu. Thế lực của Anh ngày càng mạnh. Ngời Anh không những cũng
cố đợc miền duyên hải mà con chiếm đợc gần hết Bengan. Ngày 26/3/1757,
trong trận Plat xây, Anh đã đánh bại đội quân của lãnh vơng Bengan đợc pháp
ủng hộ. Sự kiện này đợc coi nh mốc đánh dấu việc ngời Anh chính thức đặt
ách đô hộ ở ấn Độ. Năm 1759, một đoàn tàu chiến Anh đến Mađrat đẩy lùi
lực lợng quân Pháp. Năm 1761, quân Anh tấn công Pôngđisêri của Pháp. Sau
một năm cầm cự, rồi kiệt quệ vì đói khát, quân Pháp phải đầu hàng. Thành
phố bị quân Anh san bằng.
Theo Hoà ớc Pari năm 1763, Pháp chỉ còn làm chủ những miền đất
thuộc Pháp trớc đây với năm thành phố nhỏ ven biển, Pháp đợc khôi phục
việc buôn bán ở ấn Độ nhng vùng đất đai rộng lớn của Nam ấn vĩnh viễn tuột
khỏi tay Pháp. Những đơn vị quân Pháp vốn dùng để phục vụ các lãnh vơng
ấn đã bị đánh tan, tuy cố tiếp tục kháng cự nhng rất yếu ớt cho đến cuối thế
kỷ XVIII. Sở dĩ ngời Anh thắng Pháp trong cuộc tranh đoạt ấn Độ là do họ có
nền kinh tế hơn hẳn, có hàm đội mạnh trên biển, có sự quan tâm của chính
phủ đối với việc xâp chiếm thuộc địa Châu á.
Nh vây sau khi loại bỏ cac đối thủ, thực dân Anh đã khẩn trơng hoạt
đọng xâm lợc Ân Độ trong suốt một thế kỷ, cho đến thế kỷ XIX thực dân Anh
đã hoàn thành xâm lợc ấn Độ. Ngay sau khi đặt chân lên ấn Độ, công ty
Đông ấn đã tiến hành việc bóc lột xứ sở này. Suốt hai thế kỷ hoạt động của
--------------------------------------------------------------------------------------------15
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------công ty nằm trong tay nhóm độc quyền, đợc sự ủng hộ và kiểm soát của chính
phủ Anh. Công ty thi hành mọi thủ đoạn bóc lột, cỡng bức trực tiếp hay sử
dụng tầng lớp bản xứ trung gian. Mặt khác, chính sánh thực dân cũng tạo nên
một số tác động khách quan có ý nghĩa tích cực đối với ấn Độ nh những điều
đó lại góp phần vào việc khai thác thuộc địa và buôn bán sản phẩm công
nghiệp với chính quốc. Trớc nguy cơ đất nớc rơi dần vào tay thực dân Anh
xâm lợc trên khắp ấn Độ đều có các cuộc khởi nghĩa chống lại chúng. Lịch
sử ấn Độ nữa đầu thế kỷ XIX không ngừng chứng kiến các cuộc đấu tranh
của nhân dân ấn Độ chống chủ nghĩa thực dân.
2.2. Sự ra đời của Đảng Quốc Đại năm 1885.
Trong nă cuối thế kỷ XIX, nhiều phong trào đấu tranh theo hình thức
bạo động vũ trang do các lực lợng cũ tiến hành vẫn nổ ra ở một số khu vực.
Các cuộc khởi nghĩa đó thu hút nhiều lực lợng tham gia nhằm chống thực dân
Anh và tầng lớp phong kiến tay sai.
Mở đầu là cuộc nổi dậy ở Bengan, ngay sau khi tiếng súngkhởi nghĩa
1857 1859 vừa ngừng, và kéo dài đến năm 1862. Những ngời khởi nghĩa
chống lại việc thực dân Anh cớp đất trồng chàm. Năm 1872 tại Pengiáp, có
phong trào mang màu sắc tôn giáo cho RamSing lảnh đạo. Ông hô hào tín đồ
của mình không dùng hàng Anh, không làm việc trong bộ máy thống trị thực
dân. Đạo quân của RamSing, đã giành đợc những thắng lợi ban đầu. Nhng về
sau, do thực dân Anh cấu kết với tầng lớp phong kiến đầu hàng đã điên cuồng
đàn áp nên cuộc khởi nghĩa thất bại.
Các cuộc nổi dậy tiếp sau khởi nghĩa 1857-1859 đều mang tính chất tự
phát, không có cơng lĩnh rõ ràng, tổ chức thiếu chặt chẽ, cha có đờng lối đấu
tranh mới, cho nên trớc sau đều thất bại. Đất nớc ấn Độ trông chờ các lực lợng mới và phơng pháp đấu tranh mới hữu hiệu hơn.
Chính sự thu nhập chủ nghĩa t bản Anh vào ấn Độ đã gây tác hại
nghiêm trọng tới đất nớc này. Mặt khác, thực dân Anh đã làm một việc ngoài
ý muốn là chuản bị đất deo mầm cho hạt giống cách mạng ấn Độ. Từ cách
bóc lột và thu thuế cớp đoạt, ngay trong giai đoạn trớc, đã có bộ phận ngời ấn
kinh doanh công thơng nghiệp. Từ đó hai lực lợng xã hội mới ra đời là công
nhân và t sản ấn Độ. Năm 1853, nhà máy bông sợi đầu tiên đợc khánh thành
ở Bombay. Trong vòng 20 năm kể từ năm 1880, ấn Độ từ chổ chỉ có 156 nhà
máy với 44 nghìn công nhân, đã lên tới 193 nhà máy với 161 nghìn công
nhân.
--------------------------------------------------------------------------------------------16
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Giai cấp t sản ấn Độ ra đời và phát triển trong tình hình không mấy
thuận lợi. Tầng lớp đại t sản công nghiệp hình thành từ những ngời cho vay
lãi và mại bản có liên quan với Anh. Một bộ phận t sản khác bỏ vốn kinh
doanh ruộng đất nên có quan hệ chặt chẽ với tầng lớp địa chủ Daminđa. Giai
cấp t sản ấn Độ nói chung luôn bị t sản Anh chèn ép. Muốn phát triển kinh
doanh, phải đấu tranh chống lại sự ép buộc bất bình đẳng của chính quyền
thực dân.
Để đào tạo đội ngũ phục vụ cho nền cai trị, chế độ thực dân Anh không
thể không mở một số trờng học, sản sinh ra tầng lớp trí thức mới. Các nhà luật
học, thầy thuốc, thầy giáovừa tiếp thu văn hoá thực dân, và hấp thụ các trào
lu t tởng tiến bộ, khao khát quyền tự do, dân chủ. Các cuộc vận động dân chủ
khởi đầu từ nửa đầu thế kỷ XIX với R.M.Roy, đã phát triển mạnh mẽ trong bộ
phận trí thức tiến bộ nửa sau thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn mở đầu phong trào
dân tộc ấn Độ theo xu hớng mới giai đoạn này là một trào lu văn hoá và tôn
giáo mới với các đại diện tiêu biểu là Rama Krishna (1836-1880). Nếu nh
Rama Krishna là một nhân vật mang hình ảnh ngời đạo sĩ ấn Độ truyền
thống và lãnh tụ của phong trào tôn giáo yêu nớc thần bí,thì đồ đệ xuất sắc
của ông là Vivekananda, với trí thức, học vấn uyên bác, đi diễn thuyết nhiều
nơi ở Âu-Mỹ để giới thiệu nền văn hoá truyền thống ấn Độ và cổ vũ cho t tởng duy tâm. Vivekananda chủ trơng khôi phục tinh thần đạo Hindu, cho đó
là sức mạnh tinh thần để tạo dựng một xã hội ấn Độ tơng lai.
Sự ra đời của giai cấp t sản ấn Độ, đợc sự cổ vũ của phong trào phục hng văn hoá, tôn giáo đã đa đến việc xuất hiện phong trào t sản dân tộc ấn Độ.
Trong qua trình hình thành giap cấp t sản về mặt chính trị, các cuộc nổi dậy
của nhân dân chống thực dân, đế quốc có ảnh hởng lớn. Phong trào t sản dân
tộc ấn Độ trải qua hai thời kỳ: thời kỳ ra đời các tổ chức chính trị xã hội
của t sản- địa chủ và thời kỳ phong trào đợc thống nhất tren phạm vi toàn ấn
(từ những năm 80 trở đi).
Kết tinh phong trào dân tộc ấn Độ về chính trị và tổ chức là sự ra đời
của đảng quốc dân đại hội ấn Độ (gọi tắt là Đảng Quốc Đại). 28/12/1885 ở
Bombay. Đại hội thành lập đảng đợc tiến hành. Đây là tổ chức chính trị thống
nhất toàn ấn đầu tiên. Lúc đầu đảng này là một tổ chức cải lơng do thực dân
Anh lập ra để đánh lạc hớng cuộc đấu tranh dân tộc. Trớ trêu thay, Tổng bí th
đầu tiên của đảng là O.Hume- một ngời đợc phó vơng Anh giao nhiệm vụ.
Đảng Quốc Đại đại diện cho quyền lợi lớp trên của giai cấp t sản và địa chủ
ấn Độ có tinh thần yêu nớc: 50 đại biểu của 6 kỳ họp đầu tiên là trí thức - địa
--------------------------------------------------------------------------------------------17
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------chủ, 25% xuất thân từ tầng lớp thơng nhân, cho vay lãi 25% là địa chủ. Nh
vậy, hoạt đầu, nh chính phủ Hume nói Đảng Quốc Đại chỉ là Một cái nắp an
toàn [6;94] cần thiết cho chính quyền thực dân Anh.
Dần dần, trái với ý muốn của ngời Anh, Đảng Quốc Đại chuyển sang
lập trờng chủ quyền dân tộc, tiến hành những hoạt động yêu nớc thực sự, đòi
quyền tự trị về chính trị cho ấn Độ. Phản ánh nguyện vọng của quần chúng,
đại diện cho quyền lợi của họ, Đảng Quốc Đại đã nắm đợc ngọn cờ lãnh đạo
giải phóng dân tộc ở ấn Độ. Từ đây, không chỉ có giai cấp t sản, địa chủ mà
còn có những ngời đại diện nhiều tầng lớp xã hội gia nhập tổ chức này.
Những năm đầu của thế kỷ XIX, nội bộ Đảng Quốc Đại diễn ra sự bất
đồng sâu sắc; phái cực đoan tách khỏi phái ôn hoà hoạt động theo xu hớng của những ngời cấp tiến. Họ cho rằng chỉ có phong trào đấu tranh cứu
quốc mới có thể đánh đuổi đợc thực dân Anh và chỉ có đấu tranh vũ trang mới
có thể giải phóng đợc ấn Độ đây là chủ trơng của nhóm cực đoan. Nhng chủ
trơng này đã không thu đợc kết quả dẫn đến sự phân hoá trong bộ phận Đảng
Quốc Đại ngày càng sâu sắc hơn.
Đảng Quốc Đại dần dần đã đợc hoàn thiện và phát triển với sự xuất
hiên của M.Gangđi cùng với đờng lối của mình, ông đã tạo ra bớc ngoắt cho
cách mạng ấn Độ để rồi kéo ấn Độ ra khỏi vũng lầy bần cùng và thất bại
chủ nghĩa đang hút họ xuống ( JNêru). JNêru đánh gía sự xuất hiện của
M.Gangđi nh sau Gangđi tới không khác gì một luồng gió trời mát mẽ,
khiến chúng ta tự phơi mình ra và thở hít thật sâu. Ông nh một chùm ánh sáng
chọc thủng màn đêm và lật đổ những gì che mắt chúng taông không đi từ
trên đỉnh cao xuống, hình nh ông nổi lên từ trong hàng triệu đó, đoàn kết
xung quanh Đảng Quốc Đại, đa cách mạng đi lên thắng lợi hoàn toàn
[30;104]
2.3. Cuộc đấu tranh của nhân dân ấn Độ giành độc lập
Cuối thế kỷ XV, những thơng nhân châu Âu đã bắt đầu tiếp xúc với ấn
Độ. Vát xcô đa Ga-ma đã đặt chân lên đất ấn Độ sau một chuyến đi thám
hiểm vợt qua Đại tây dơng, Thái bình dơng và đến ấn Độ dơng. Tiếp sau Vát
xcô đa Ga-ma nhiều thơng nhân Bồ Đào Nha đến ấn Độ buôn bán hơng
liệu và nô lệ. Vào thời kỳ này, Bồ Đào Nha đã chinh phục Goa và biến Goa,
một bộ phận lãnh thổ của ấn Độ thành thực dân địa.
Từ năm 1746 đến 1763, ấn Độ đã thành nơi tranh chấp giữa Pháp và
Anh, bọn chúng đã chia cắt ấn Độ thành nhiều vùng đặt dới quền thống trị
của chúng. Nhng đến năm 1763, trớc thế lực của Anh ngày càng bành trớng ở
--------------------------------------------------------------------------------------------18
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Viễn Đông, Pháp đã buộc phải ký hiệp ớc Pa-ri để Anh nắm quyền bá chủ ấn
Độ.
Lúc đầu, Công ty Đông ấn Độ của Anh đợc quyền thao túng bóc lột,
vơ vét tài nguyên của ấn Độ, nhng sau đó sự độc quyền của công ty này
không có lợi cho giai cấp t sản công nghịêp Anh khi mà giai cấp này ngày
càng mạnh mẽ lên. Vì vậy năm 1813, sự độc quyền này bị thủ tiêu, hàng hoá
của t bản Anh tràn vào ấn Độ và việc xuất khẩu nguyên liệu đợc tăng cờng.
Năm 1857, để phục vụ cho quyền lợi của mình, Anh đặt đờng xe lửa đầu tiên
ở ấn Độ.
Từ nửa cuối thế kỷ XIX, thực dân Anh mở rộng thuộc địa đến những
vùng rộng lớn ở miền Trung và miền Bắc ấn Độ thuộc quyền của các chúa
phong kiến. Dới sức ép bằng vũ lực và mua chuộc, các chúa phong kiến, quý
tộc đã phải chấp nhận sự thống trị của thực dân Anh. Nh vậy là Anh đã thôn
tính xong toàn bộ lảnh thổ ấn Độ.
Năm 1857, một cuộc khởi nghĩa của binh lính ngời bản xứ đã nổ ra ở
khu vực Đe-li, thủ đô cổ kính của ấn Độ. Cuộc khởi nghĩa của 5 vạn binh lính
ngời bản xứ đã đợc nông dân và thợ thủ công ủng hộ, lan dần hầu hết khắp
miền Bắc ấn Độ và một phần các vùng miền Trung. Thực dân Anh đứng trớc
một nguy cơ lớn: quân khởi nghĩa đông gấp nhiều lần quân Anh, đồng thời
một số chúa phong kiến vừa mới bị Anh cớp đoạt đất đai cũng tham gia cuộc
khởi nghĩa.
Mãi hai năm sau, thực dân Anh mới dẹp tan cuộc khởi nghĩa bằng thủ
đoạn tàn sát và khủng bố đẫm máu đi đôi với việc mua chuộc các chúa phong
kiến tiểu vơng.
Sau đó thực dân Anh dùng chính sách chia để trị, về mặt hành chính
chia ấn Độ làm hai phần: ấn Độ trực thuộc Anh, còn các công quốc ch hầu đợc gọi là quốc gia bản xứ thì đặt dới sự bảo hộ của Anh.
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX những quan hệ t bản chủ nghĩa ở
ấn Độ đã đạt tới mức phát triển khá cao. ấn Độ thuộc vào loại những thuộc
địa tơng đối phát triển và có giai cấp vô sản tơng đối đông đảo. Kinh tế t bản
chủ nghĩa ở ấn Độ gồm có hai thành phần: thành phần t bản của thực dân
Anh, và thành phần t bản dân tộc. Giữa hai thành phần này có những mâu
thuẫn về quyền lợi với nhau.
T bản Anh làm chủ các đờng sắt, các xí nghiệp khai thác nh mỏ sắt, mỏ
vàng, Mang gan và nắm một trong những ngành lớn nhất của công nghiệp dệt
--------------------------------------------------------------------------------------------19
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------ấn Độ là ngành công nghiệp làm đay. Các đồn điền lớn nhất trồng cafê, chè
và các công trình thuỷ lợi lớn cũng đều thuộc t bản Anh.
T bản Anh còn nắm những ngân hàng và chi nhánh chủ yếu, nắm các
mạch máu quan trọng nhất của đời sống kinh tế ấn Độ. Sự phát triển của nền
công nghiệp dân tộc ấn Độ phụ thuộc vào t bản Anh về máy móc và vốn đầu
t. Các nhà máy của t bản dân tộc phải mua máy móc của Anh mới có thể sản
xuất đợc và trong những ngành then chốt họ cũng phải dựa vào t bản Anh về
mặt kỹ thuật và vốn. Trong khi đó chính sách của thực dân Anh lại tìm cách
hạn chế nền công nghiệp dân tộc, đồng thời duy trì những tàn tích của chế độ
phong kiến ở nông thôn, làm cho nền công nghiệp dân tộc của ấn Độ phát
triển chậm chạp.
Về mặt chính trị, ấn Độ cũng là một thuộc địa điển hình, đứng đầu là
một viên toàn quyền Anh gọi là phó vơng, trực thuộc chính phủ Anh. Phó vơng cai trị các công quốc gọi là các quốc gia bản xứ thông qua các công xứ
ngời Anh. Những viên công xứ này có toàn quyền quyết định mọi công việc
của các công quốc.
Do bị hai tầng áp bức, bóc lột của thực dân đế quốc và bọn địa chủ
phong kiến, nhân dân ấn Độ đã nhiều lần đứng lên đấu tranh chống lại chế độ
thống trị của thực dân Anh.
Từ cuối thế kỷ XIX vai trò lãnh đạo cách mạng ấn Độ đã nằm trong
tay giai cấp t sản ấn Độ, bởi vì lúc này giai cấp phong kiến ấn Độ không còn
có uy tín và khả năng lãnh đạo cách mạng, trái lại đã thúc thủ đầu hàng, dần
dần biến thành chỗ dựa của bọn thực dân, hơn nữa giai cấp t sản ấn Độ cũng
đã trởng thành và bị thực dân Anh chèn ép, hạn chế và cạnh tranh kịch liệt.
Năm 1885, Quốc dân đại hội (tức Đảng Quốc Đại) ra đời, lảnh đạo
nhân dân ấn Độ tiến hành, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc dới khẩu hiệu
đấu tranh cho nền tự trị ấn Độ. Cơng lĩnh của Đảng Quốc Đại gồm có mấy
điểm sau đây:
- Đòi ấn Độ đợc hởng nền tự trị, nằm trong khối liên hiệp Anh;
- Hô hào nhân dân bài trừ hàng hoá của nớc ngoài;
- Khuyến khích phát triển nền công nghiệp dân tộc;
- Xây dựng, phát triển một nền giáo dục dân tộc.
Tuy nhiên phong trào chống thực dân Anh chỉ bắt đầu sôi nổi từ sau khi
cách mang tháng Mời Nga thành công với những cuộc đình công to lớn của
thợ thuyền ấn Độ năm 1917-1918 ở xởng dệt thuộc Bom-bay, của công nhân
--------------------------------------------------------------------------------------------20
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------xe lữa ở Gút-gia-rát và những cuộc bạo động tiếp theo của quần chúng ở Cancút-ta và vùng Pen-giáp
Năm 1918, tổ chức công hội đầu tiên của ấn Độ ra đời tại thành phố
Ma-đrát do Oa-đi-ay một lãnh tụ quốc gia cải lơng sáng lập sau đó là công
hội ngành dệt do Gan-đi và các đồng chí của ông sáng lập ở át-mê-đa-bát.
Đến năm 1920, Tổng công hội toàn quốc ấn Độ ra đời.
Sự ra đời của tổng công hội quốc cũng nh các công hội trên tuy có
phản ánh đợc phong trào đấu tranh ngày càng quyết liệt, mạnh mẽ của công
nhân và nhân dân lao động ấn Độ, song nó cũng còn có những hạn chế, vì
trong ban lãnh đạo các tổ chức này còn có một số lãnh tụ cải lơng.
Mặc dù Đảng Quốc Đại, đảng của giai cấp t sản lãnh đạo cách mạng
ấn Độ lúc bấy giờ có những đóng góp và có vị trí nhất định trong lịch sử đấu
tranh giải phóng của nhân dân ấn Độ, nhng do quyền lợi giai cấp hạn chế, đờng lối của nó không tránh khỏi có lúc thoả hiệp hoặc thiên về những biện
pháp đấu tranh tiêu cực.
Năm 1924, các nhóm cộng sản ở ấn Độ bí mật đợc thành lập, tiến hành
việc truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê Nin sâu rộng trong quần chúng nhân dân
và tổ chức đấu tranh chống bọn t bản, thực dân Anh ở thành phố công nghiệp.
Năm 1925, trên cơ sở thống nhất các nhóm cộng sản trong nớc, Đảng
Cộng sản ấn Độ đợc thành lập. Ngay trong năm đó dới ảnh hởng của Đảng,
riêng ở tỉnh Bom-bay đã nổ ra nhiều cuộc bãi công, chiếm tới 51% tổng số
các vụ bải công trong cả nớc, trong đó có 65% tổng số thợ thuyền tham gia.
Có những vụ bãi công kéo dài tới ba tháng đòi tăng lơng, giảm giờ làm, đòi
thi hành các luật bảo hộ lao động; Năm 1926 lại có vụ đình công rất lớn của
công nhân đờng sắt trên tuyến đờng Ben-gan-Nát-pua đến mức thực dân Anh
phải huy động đến đối phó.
Đến chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào phản đế, đòi độc lập của
nhân dân ấn Độ diễn ra hết sức sôi động. Bọn thực dân đã thẳng tay đàn áp và
bắt giam những nhà yêu nớc Găng-đi, Nê-gu, Ka-lan A-da-đa cùng với hàng
vạn công nhân, nông dân, t sản dân tộc có tinh thần yêu nớc bị quản thúc
hoặc bị giam giữ.
Mặc dù bị khũng bố và đàn áp, những lực lợng dân chủ và tiến bộ ở
trong nớc vẫn phát triển và hoạt động mạnh mẽ. Hội liên hiệp sinh viên và
học sinh toàn quốc, Hội nhà văn tiến bộ, Hội nghệ sỹ sân khấu, nhiều tổ chức
công hội, nông hội ra đời.
--------------------------------------------------------------------------------------------21
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Năm 1942, Đảng cộng sản ấn Độ lợi dụng những hình thức hoạt động
hợp pháp đã tổ chức, vận động công nhân, nông dân và quần chúng nhân dân
đấu tranh chống bọn thống trị.
Trớc cao trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ấn Độ sau khi chiến
tranh thế giới thứ hai kết thúc, thực dân Anh tìm mọi thủ đoạn xảo quyệt, mị
dân nhằm xoa dịu phong trào. Tháng 8 năm 1946, Anh đồng ý để cho một
chính phủ lâm thời của ấn Độ đợc thành lập với những quyền hành hết sức
hạn chế. Chính phủ này gồm đa số là đại biểu của Đảng Quốc đại, đứng đầu
là Gia-ao-hát-lan-Nê-ru.
Dã tâm thực dân Anh trở nên quá rõ rệt, trong khi nhả ra cho ngời ấn
Độ một chút quyền hành tợng trng, thì chúng lại tìm cách xúi giục, chia rẽ và
gây nên những cuộc xung đột đổ máu về chủng tộc và tôn giáo. Chúng hy
vọng bằng cách đó làm suy yếu khối đoàn kết dân tộc, và đáng lẽ vấn đề nổi
bật là mâu thuẫn giữa dân tộc và bọn đế quốc thì chúng lại làm nổi bật những
mâu thuẫn về tôn giáo và chủng tộc. Chính ngay lúc này, thực dân Anh đã có
dự kiến chia ấn Độ làm hai nớc: nớc Pa-ki-xtan của ngời hồi giáo và nớc ấn
Độ của ngời ấn Độ giáo.
Nhng mu toan xấu xa của bọn thực dân Anh lại nh đổ thêm dầu vào
lửa, làm cho ngọn lửa đấu tranh càng bùng cháy dữ dội. Năm 1946 chỉ có
chừng 1.000 vụ đấu tranh của công nhân, đến năm 1947 tăng lên 1.800 vụ với
gần 2 triệu lợt ngời tham gia. Trong khi đó nông dân tá điền ở Ben-gan cũng
nổi dậy đòi địa chủ phải giảm mức tô và tiến hành tịch thu các kho thóc của
địa chủ chia cho dân nghèo. Tại Hai-đơ-ra-bát, công nhân và nông dân nổi
lên, lôi cuốn số ngời tham gia phong trào tới hơn một nửa số dân của công
quốc này và biến thành một cuộc khởi nghĩa vào cuối năm 1946. Bá tớc Ixmay, tổng tham mu trởng quân đội Anh tại ấn Độ lúc đó, báo cáo về Chính
phủ Anh đã phải thừa nhận: ấn Độ nh một chiếc tàu đang đi ở giữa đại dơng,
chở đầy thuốc súng, sẵn sàng bùng nổ lúc nào cha biết. Phải kịp thời đối phó
trớc khi ngòi lửa châm vào chất nổ, chúng ta không thể làm cách nào khác .
Nhng Chính phủ Anh hiểu rõ rằng, nó không có biện pháp nào có thể
duy trì đợc sự thống trị của mình trên đất nớc ấn Độ trớc cơn bão táp mạnh
mẽ của toàn dân ấn Độ đòi độc lập, tự do. Vì thế ngày 14 tháng 8 năm 1947,
Chính phủ Anh đã công bố một sắc lệnh công nhận nền độc lập của ấn Độ
nhng chúng lại chia ấn Độ ra làm hai nớc: Pa-ki-xtan và ấn Độ, bất chấp sự
phản đối của nhân dân. Việc phân chia này hoàn toàn dựa trên cơ sở tôn giáo,
tín ngỡng mà không hề chú ý tới thành phần dân tộc và những mối quan hệ
--------------------------------------------------------------------------------------------22
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------kinh tế giữa các vùng. Rõ ràng sự phân chia này chẳng những là một âm mu
xấu xa của thực dân Anh nhằm gây nên sự hiềm khích và xung đột giữa ấn
Độ giáo và hồi giáo mà còn cố tình gây những khó khăn sau này về lãnh thổ,
kinh tế, dân tộc cho cả hai nớc.
Ngày 26 tháng 1 năm 1950, Quốc hội ấn Độ nhóm họp trịnh trọng
tuyên bố ấn Độ là một nớc cộng hoà độc lập, gia nhập khối liên hiệp Anh.
Chính phủ độc lập đầu tiên của ấn Độ do Gia-oa-hác-lan Nê-ru làm thủ tớng.
Việc thắng lợi này đã mở ra một bớc ngoặt lớn cho lịch sử ấn Độ.
3. ấn Độ sau khi dành chính quyền.
3.1). Khó khăn.
ấn Độ là một nớc lớn, đông dân. Tài nguyên dồi dào nhng cha đợc khai
thác nhiều. ấn Độ còn là nớc có mật độ dân số cao, trung bình 221 ngời trên
một ki-lô-mét vuông, tỷ lệ tăng dân số hàng năm trung bình 2,2%. Trong
vòng 30 năm qua, dân số ấn Độ tăng gấp hơn 2 lần. Dân số tăng nhiều cũng
gây khó khăn lớn về nhiều mặt nhất là về lơng thực, về mặc, nhà ở Ngoài ra,
khi bắt tay vào xây dựng đất nớc. ấn Độ gặp những khó khăn ghê gớm do bọn
thực dân để lại và do thiên tai gây ra. Về kinh tế, gần 90% số dân làm nông
nghiệp mà vẫn không đủ ăn. Hàng triệu ngời chết đói, hàng chục triệu ngời
khác bị thiếu ăn. Vấn đề lơng thực đợc đặt ra nh một vất đề cực kỳ to lớn. Thu
nhập quốc dân tính theo đầu ngời cha đến 60 đô-la, 90% số dân còn mù chữ.
Sản xuất công nghiệp vẫn còn t bản Anh khống chế.
Về chính trị, xu hớng cát cứ, xu hớng li khai gây trở ngại cho sự thống
nhất và ổn định của đất nớc. Gần 600 tiểu vơng quốc với những đặc quyền
đặc lợi vẫn tồn tại. Xung đột về tôn giáo khá gay gắt. Quân đội ấn Độ lúc đầu
vẫn còn do sĩ quan Anh chỉ huy. Những bộ phận lãnh thổ ấn Độ thuộc Pháp
và Bồ Đào Nha vẫn cha đợc thu hồi.
Sự chia cắt với Pa-ki-xtan đã làm cho ấn Độ không dựa đợc vào những
vùng lúa mì có sản lợng cao, khu công nghiệp quan trọng và hải cảng lớn Gara-si. Khi đất nớc bị chia cắt, gần 10 triệu ngời di c vào ấn Độ. Chính phủ ấn
Độ phải chi hàng trăm triệu đô- la để cứu tế, ổn định đời sống cho họ. Kho lơng thực dự trữ của nhà nớc lúc đó không đủ để cứu tế.
Thiên tai vào những năm 50 đã tàn phá một cách ghê gớm đất nớc vừa
ra khỏi tình trạng chiến tranh và ách thống trị thực dân lâu dài. Hệ thống đê
đập, thuỷ lợi phục vụ đồn điền của thực dân, điền trang của lãnh chúa phong
kiến, không chặn đứng đợc lũ lụt. Thiệt hại do thiên tai gay ra trong những
--------------------------------------------------------------------------------------------23
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------năm ấn Độ mới dành đợc độc lập là rất lớn, có năm lên tới hàng trăm triệu
đô-la.
Về mặt xã hội, do không đủ ăn nên sức khoẻ nhân dân giảm sút, những
ngành y tế lại yếu kém, dịch bệnh xẩy ra luôn. Trong thập kỷ 50, ở ấn Độ có
hơn 100 triệu ngời bị sốt rét, hơn 1 nửa triệu ngời bị bênh đậu mùa, hàng chuc
triệu ngời bị bệnh lao, 9 triệu ngời mù, 3,2 triệu ngời hủi Tỷ lệ tử vong ở trẻ
em cao có nơi lên tới 114/1000 trẻ sơ sinh.
Những khó khăn đó càng nặng nề thêm vì hành vi thù địch của các thế
lực đế quốc và phản động. Chúng không ngừng tìm mọi cách gây khó khăn,
cản trở công cuộc xây dựng đất nớc của nhân dân ấn Độ. Bên cạnh đó đế
quốc Mỹ và các nớc t bản phát triển khác đều không tán thành việc ấn Độ
xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Chúng đặt các điều kiện cho vay tín dụng
nhng không đợc tiến hành quốc hữu hoá cho các công ty nhiều quốc gia đợc tự do hoạt động ấn Độ Những khó khăn trên làm cho ấn Độ gặp không
ít trở ngại trên con đờng phát triển kinh tế. Nhng bên cạnh những khó khăn
lớn lao và chồng chất đó, đất nớc và nhân dân ấn Độ lại có những thuận lợi
và thế mạnh cơ bản.
3.2 Thuận lợi.
Việc thoát khỏi ách thống trị và bon thực dân là một thuận lợi cơ bản
và là một điều kiện rất quan trọng để nhân dân ấn Độ bắt tay vào công cuộc
xây dựng đất nớc mình. Bên cạnh đó ấn Độ có một lực lợng lao động lớn của
hàng trăm triệu ngời thoát khỏi ách nô lệ thực dân. ấn Độ lại có nhiều tài
nguyên quý, có trữ lợng lớn, cha đợc khai thác, đặc biệt là vùng Hy-ma-lai-a
chua đợc thăm dò và đánh giá đầy đủ. Tiềm năng thuỷ điện của ấn Độ cũng
rất dồi dào. Ba hớng Tây, Nam, Đông đều giáp biển, có nhiều hải cảng, quần
cảng, thuận tiện cho giao thông quốc tế hàng hoá bằng đờng biển. Cho nên
hàng năm riêng các khoản thuế tàu qua lại cũng đã khá lớn.
Ngoài ra, ấn Độ bắt tay xây dựng đất nớc trong hoàn cảnh ba dòng
thác cách mạng của thời đại hình thành và phát triển mạnh mẽ, đang tiến
công từ nhiều phía vào chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến, cho nên khả năng bảo
vệ hoà bình thế giới xuất hiện và ngày càng tỏ rõ là một khả năng thực tế; hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới, nhân tố quyết định phơng hớng phát triển
thời đại đã hình thành và ngày càng lớn mạnh, luôn luôn ủng hộ, giúp đở các
nớc mới giành đợc độc lập trong đó có ấn Độ. Chính sự giúp đở đó, nhất là
của Liên Xô, đã góp phần quan trọng giúp ấn Độ nhanh chóng xây dựng đợc
nền công nghiệp của mình.
--------------------------------------------------------------------------------------------24
Khoá luận tốt nghiệp
Lê Thị Quý
-------------------------------------------------------------------------------------------Khai thác những thuận lợi đó trong hơn 30 năm qua, 700 triệu nhân
dân ấn Độ đã phát huy truyền thống lao động sáng tạo, theo đờng lối độc lập,
tự chủ, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nớc. Hình ảnh nớc ấn Độ nghèo
đói, khổ nhục, trong đó ngời nông dân sống nh nông nô mới ngời công
nhân, nhân dân lao động sống vất vỡng bằng nớc máy, bánh Xa-pa-li trộn với
Ca-ry hình ảnh một nớc ấn Độ mà chỉ khi nào thiên tai gây chết chóc đến
hàng vạn ngời trở lên thì báo chí mới đăng tin. Hình ảnh của hàng triệu thây
ngời đói nằm ngoài đờng đợi quả, kền kền đến rỉa xác hình ảnh đó đã phai
mờ dần trong tâm trí ngời ấn Độ ngày nay.
Chơng II.
Quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ
1. Những tác động đến quá trình công nghiệp hoá ở ấn Độ
1.1 Tác động khách quan:
--------------------------------------------------------------------------------------------25