Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Bước đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ phong kiến trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.9 KB, 70 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

A - phần mở đầu
i. lý do chọn đề tài.

Trung Quốc không chỉ là một nớc lớn trong khu vực mà trên toàn thế
giới và có lịch sử lâu đời. Nói đến Trung Quốc hiện nay là nói đến quốc gia
rộng lớn về lãnh thổ (Hơn 9 triệu km2), đông đúc về dân c (hơn 1 tỷ ngời).
Lịch sử văn minh Trung Quốc rực rỡ, phong phú, đa dạng và có nhiều đóng
góp to lớn cho văn minh nhân loại. Trung Quốc xứng đáng là một trong
những cái nôi của lịch sử văn minh thế giới. Trải qua hàng nghìn năm xây
dựng và phát triển, nền văn hoá Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao trên nhiều
lĩnh vực nh: Triết học, Văn học nghệ thuật, âm nhạc, hội hoạ, y học, t tởng...
Đợc cả nhân loại biết đến và khâm phục.
Nho học là trờng phái t tởng lớn và là một trong những tinh hoa văn hoá
của Trung Quốc cổ trung đại. Lịch sử hng suy của Nho học và lịch sử phát
triển xã hội phong kiến Trung Quốc có quan hệ biện chứng với nhau.
Một học phái học thuật đã chi phối và ảnh hởng đến t tởng một quốc gia
với hơn hai ngàn năm thì không chỉ là độc nhất vô nhị ở Trung Quốc mà còn
tuyệt nhiên vô song trên thế giới. Vì vậy chúng ta không thể không thừa
nhận địa vị của t tởng này trong văn hoá truyền thống Trung Quốc.
Nho học ra đời từ thời Xuân Thu do Khổng Tử sáng lập có tôn chỉ rõ
ràng, có hệ thống phân minh, nhng ở thời đó Nho học chỉ là một trờng phái
trong nhiều trờng phái t tởng khác. Đến thời Hán, Nho học dần dần khẳng
định đợc những u thế của mình. Đến thời Hán Vũ Đế (148 - 87 TCN) qua
"Thiên nhân tam sách" và những kiến nghị của Đổng Trọng Th, Nho học
độc tôn và trở thành hệ t tởng thống trị trong xã hội phong kiến Trung Quốc,
góp phần đặc biệt quan trọng trong việc củng cố chính trị, ổn định xã hội,
phát triển văn hoá nớc này.


Đến những triều đại sau đó, đặc biệt là vơng triều Tống, Nho đạt đến
cực thịnh. Có ảnh hởng sâu rộng đến không chỉ thể chế chính trị phong kiến
Trung Quốc mà có ảnh hởng ra nhiều nớc khác. Đến tận triều Minh, Thanh
khi chế độ phong kiến Trung Quốc đi vào con đờng suy tàn thì Nho học
đồng thời cũng đi vào giai đoạn suy thoái.
Tìm hiểu về quá trình hình thành, xác lập của Nho học chính là những
vấn đề đợc đi sâu ở đề tài này.
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

1


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Tìm hiểu về nho học có ý nghĩa khoa học lớn bởi lẽ giúp chúng tôi hiểu
đợc những vấn đề đã nêu trên, mặt khác đó là cơ sở để hiểu sâu sắc hơn về
đờng lối trị nớc của các vơng triều phong kiến Trung Quốc.
Nho học chi phối đến văn hoá Trung Quốc nói chung, tới những quan
niệm về đạo đức, luân lý của ngời Trung Quốc nói riêng. Vì thế tìm hiểu về
Nho học không chỉ giúp chúng ta hiểu đợc những cốt lõi tinh hoa văn hoá
Trung Quốc mà còn giúp chúng ta hiểu rõ những quan niệm về đạo đức,
luân lý của ngời Trung Quốc.
Mặt khác, Nho học có ảnh hởng đến nhiều nớc châu á, trong đó có Việt
Nam. T tởng của các nhà Nho học đã từng trở thành hệ t tởng chính thống
của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Vì vậy tìm hiểu về Nho học giúp
chúng ta có cơ sở để hiểu thêm về lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.

Với tất cả những lý do trên, và đợc sự hớng dẫn của thầy giáo Hoàng
Đăng Long tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: " Bớc đầu tìm hiểu về quá trình
hình thành, xác lập ý thức hệ phong kiến Trung Quốc" để làm khoá luận tốt
nghiệp.
ii. lịch sử vấn đề.
ý thức hệ phong kiến Trung Quốc mà cụ thể là Nho học không chỉ là

đối tợng nghiên cứu của lịch sử t tởng, triết học mà còn của nhiều bộ môn
khoa học, của nhiều ngành, nhiều giới. Cho đến nay có hàng loạt công trình
viết về Nho giáo ở Trung Quốc cũng nh ở Việt Nam. Những công trình
nghiên cứu đó hoặc là chuyên khảo, hoặc là đăng trong các tạp chí khác
nhau. Các giáo trình lịch sử thế giới cổ đại của các trờng đại học đã đề cập
đến khía cạnh này hay khía cạnh khác của đề tài. Bên cạnh đó còn một số
tài liệu quý khác nh:
- Cuốn " Nho giáo" của Trần trọng Kim - Nhà xuất bản thành phố Hồ
Chí Minh - năm 1992. Trong đó đề cập khá rõ đến quá trình hình thành và
phát triển của Nho giáo qua các triều đại.
- Cuốn " Kinh điển văn hoá 5.000 năm Trung Hoa" - Tập bốn của Dơng
Lực - Nhà xuất bản Văn hoá thông tin. Chơng 109 viết về lịch sử phát triển
của Nho học và ảnh hởng của nó.
- Cuốn " Nho giáo xa và nay" của Quang Đạm - Nhà xuất bản Khoa học
xã hội - Nhân văn - 1991. Đề cập đến bối cảnh lịch sử của Nho giáo Trung
Quốc, đặc biệt tác giả phân tích rất sâu Nho giáo ở Việt Nam.
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

2



Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

- Cuốn " Khổng Tử" của Nguyễn Hiến Lê - Nhà xuất bản Văn hoá thông
tin - Năm 2001. Viết về đời sống, con ngời, t tởng và đạo làm ngời của
Khổng Tử.
- Cuốn " Đại cơng lịch sử văn hoá Trung Quốc" gồm nhiều nội dung của
giáo s Ngô Vinh Chính và giáo s Vơng Miện Quý chủ biên. Trong đó chơng
đầu tiên nói khá rõ nét về sự hình thành, diễn biến của t tởng triết học Trung
Quốc mà chủ yếu là sáu nhà: Nho, Mặc, Đạo, Danh, Pháp, Âm dơng.
- Cuốn " Mạnh Tử - Linh hồn của nhà Nho", do Phùng Quý Sơn dịch Nhà xuất bản Đồng Nai phát hành năm 1995. Trong đó đã phân tích khá kỹ
về t tởng của Mạnh Tử.
- Cuốn " Hàn Phi Tử" do Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi biên soạn - Nhà
xuất bản Văn hoá thông tin Hà Nội năm -1994. Cuốn sách đã phân tích khá
sâu về đời sống, tác phẩm và t tởng của Hàn Phi Tử.
- Cuốn " Nho gia với Trung Quốc ngày nay" của Vi Chính Thông - Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia Hà nội - xuất bản năm 1996. Giúp tìm hiểu
thêm về Nho gia Trung Quốc và vai trò của Nho gia trong truyền thống
cũng nh trong xã hội hiện đại.
- Cuốn "Đại học và Trung Dung Nho giáo" của Nhà xuất bản Khoa học
xã hội - 1991. Trong đó đề cập đến tiểu sử Khổng Tử, hai bộ Đại học và
Trung Dung của Nho giáo.
- Cuốn " Trang Tử và Nam hoa kinh" của Nguyễn Hiến Lê - Nhà xuất
bản Văn hoá thông tin Hà nội - 1944. Đề cập đến con ngời, tác phẩm và t tởng của Ông.
Ngoài những tài liệu giới thiệu trên đây, liên quan đến Nho học còn có
hàng loạt các tác phẩm khác. Cộng với các bài viết trên các tạp chí nghiên
cứu lịch sử, đặc biệt là các công trình nghiên cứu của chính các nhà khoa
học Trung Quốc. Nhng do năng lực hạn chế của bản thân, chúng tôi cha su
tầm, tập hợp đợc. Đề tài của chúng tôi không phải là một vấn đề mới, mà chỉ

là công việc bớc đầu tiếp xúc, làm quen, xác định về một vấn đề đợc nhiều
nhà nghiên cứu trong nớc, nớc ngoài quan tâm.
iii. giới hạn của đề tài và phơng pháp nghiên cứu.

3.1. Khóa luận nh đúng với tên gọi của nó, không đặt ra nhiệm vụ đi sâu
nghiên cứu toàn bộ quá trình hình thành, hng suy của Nho học trong suốt
các triều đại phong kiến Trung Quốc, cũng nh những thành tựu, đóng góp và
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

3


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

hạn chế của nó, mà chỉ là bớc đầu tìm hiểu một cách khái quát về quá trình
hình thành và xác lập. Vì vậy giới hạn của đề tài này chỉ là bớc đầu tìm hiểu
về quá trình hình thành và xác lập của đạo Nho từ thời Khổng Tử đến cuối
đời Thanh.
3.2. Để hoàn thành khoá luận này tôi sử dụng các phơng pháp nghiên
cứu: Phơng pháp lịch sử, phơng pháp lô gíc, phơng pháp so sánh, tổng hợp
và nhiều phơng pháp khác dựa trên những t liệu đáng tin cậy để làm sáng tỏ
mục đích và nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
Mặc dù bản thân rất cố gắng để thực hiện tốt đề tài, cộng với sự giúp đỡ
nhiệt tình, khoa học của thầy Hoàng Đăng Long - Giáo viên hớng dẫn và
các thầy trong tổ lịch sử thế giới cổ - trung đại. Song do thời gian và trình độ
có hạn, do mới làm quen với công việc nghiên cứu, do đó khoá luận sẽ

không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Kính mong nhận đợc sự góp ý
kiến chân thành của các thầy, các cô.
iv. bố cục của khoá luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài đợc chia làm 3 chơng:
Chơng I: Bối cảnh lịch sử và sự xuất hiện một số trào lu t tởng cuối thời
kỳ Xuân Thu đầu thời kỳ Kiến Quốc.
Chơng II: Quá trình hình thành ý thức hệ phong kiến Trung Quốc.
Chơng III: Quá trình xác lập ý thức hệ phong kiến Trung Quốc.

B - phần nội dung .
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

4


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Nho gia ở Trung Quốc là học phái t tởng lấy luân lý chính trị làm cốt
lõi, một bộ lịch sử phát triển Nho gia tơng đơng với một bộ lịch sử phát triển
chính trị, xã hội của Trung Quốc. Vì vậy t tởng của đạo Nho trở thành hệ t tởng thống trị xã hội phong kiến Trung Quốc. Một ông vua triều Nguyên đã
phải thừa nhận: "Cai trị thiên hạ tất phải dùng Nho gia".
Lá rụng về cội, dù cuộc sống có khiến ngời ta phải bôn ba, lặn lội đến
đâu rốt cục cũng phải quay về với quê hơng, tổ quốc. Đây chính là lý do để
Nho gia mấy nghìn năm nay với sức mạnh hớng tâm và gắn kết riêng của
mình đã để lại dấu ấn cha truyền con nối cho dân tộc Trung Hoa, cũng là

sức sống cho hệ t tởng này.
Trên thế giới bốn quốc gia có nền văn minh vỹ đại là Trung Quốc, Ai
Cập, ấn Độ, Hy Lạp. ở đó tồn tại nền văn hoá truyền thống rạng rỡ góp
phần lớn vào nền văn hoá chung của nhân loại. Hiện tại văn hoá Ai Cập, văn
hoá Lỡng Hà, Văn hoá Phật giáo ở ấn Độ đều đang còn tiếp diễn, toả sáng
rực rỡ không phai mờ. Vậy nên văn hoá Nho giáo đại diện cho văn hoá
truyền thống Trung Quốc cần đợc kế thừa và phát huy có chọn lọc.
Trong sự phát triển toàn diện của Trung Quốc có sự đóng góp lớn của
Nho học suốt chiều dài lịch sử của chế độ phong kiến. Trải qua các giai
đoạn: Từ Xuân Thu - Chiến Quốc do Khổng Tử khai sáng, đến Mạnh Tử
trung hng, thời Hán độc tôn, Tống Minh cực thịnh và cuối Thanh suy tàn.
Phản ánh trạng thái phát sinh, phát triển, hng thịnh và suy tàn hơn hai nghìn
năm của Nho học.
T tởng đạo Nho do chổ đã có t tởng nhất thống phong kiến, lại có u thế
duy trì đợc kiểu gia đình phong kiến nên rất thích hợp với quan hệ sản xuất
của xã hội phong kiến. Vì vậy sau khi ra đời nó liền lọt ngay vào mắt xanh
của các nhà thống trị trung Quốc từ đời này sang đời khác. T tởng Nho gia
vì thế có tính song trùng, tức vừa có tính giai cấp, vừa có tính đại chúng nhất
định. Đây là nguyên cớ để t tởng Nho gia trờng tồn cùng lịch sử.
Với sức mạnh cố kết của mình, Nho gia đa gốc rễ văn hoá Trung Quốc
ngày càng bám sâu hơn vào mảnh đất phơng Đông, đặt cơ sở cho việc đa
văn hoá Trung Hoa trở thành nền văn hoá căn bản của phơng Đông. Trong
lịch sử suốt hơn 2.000 năm đại biểu của văn hoá phơng Đông - Trung Quốc
luôn đứng sừng sững ở phía đông bán cầu cùng văn hoá phơng Tây đấu
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

5



Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

tranh. Và cùng đóng góp lớn cho sự phát triển chung của văn minh nhân
loại, điều này có quan hệ mật thiết với Nho học.
Nh vậy, giai cấp phong kiến Trung Quốc qua các triều đại do nhu cầu
cai trị và xây dựng cơng thờng xã hội đã lấy Nho gia làm hệ t tởng cho giai
cấp mình. Và t tởng của Nho gia từ khi ra đời, trải qua những bớc thăng
trầm của nó luôn tỷ lệ thuận với sự thịnh suy của lịch sử chế độ phong kiến
Trung Hoa.
*

*

*

Chơng 1

Bối cảnh lịch sử và sự xuất hiện một số trào lu t tởng cuối thời kỳ xuân thu đầu thời kỳ chiến quốc.

1.1- Tình hình kinh tế - Chính trị - Xã hội thời Đông Chu.
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

6



Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Thời Đông Chu chính thức bắt đầu năm 770 TCN, khi Chu Bình Vơng
dời đô sang Lạc ấp ở phía Đông. Thời Đông Chu đợc chia thành hai giai
đoạn là: Xuân Thu (770 - 475 TCN) và Chiến Quốc (475 - 221 TCN).
Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ mất ổn định ở Trung Quốc. Vua nhà
Chu suy yếu dần, mà các nớc ch hầu lại mạnh lên. Vì vậy chiến tranh nhằm
tranh giành quyền lực để bá chủ Trung Quốc xảy ra liên miên. Cũng thời kỳ
này có sự biến đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá do sức sản
xuất phát triển, nhiều giai tầng mới trong xã hội xuất hiện. Mặt khác Xuân
Thu - Chiến Quốc cũng là thời kỳ xã hội Trung Quốc tồn tại những mâu
thuẫn gay gắt do chế độ t hữu ruộng đất phát triển. Nội bộ giai cấp thống trị
có sự mâu thuẫn, xung đột phức tạp giữa tầng lớp quý tộc cũ với địa chủ
mới
Những biến đổi trên có thể xem thời Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ
chuyển biến từ xã hội cổ đại sang xã hôi phong kiến ở Trung Quốc. Do sự
chuyển biến đó mà tình hình mọi mặt trong xã hội có những biến đổi lớn,
tạo điều kiện cho sự ra đời một hệ t tởng mới của một giai cấp mới - t tởng
phong kiến của giai cấp phong kiến.
Về kinh tế: Đây là thời kỳ nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với những bớc
tiến vợt bậc về công cụ sản xuất. Đặc biệt quan trọng nhất là việc sử dụng
công cụ bằng sắt vào sản xuất kinh tế, đa thủ công nghiệp, thơng nghiệp
phát triển lên một bớc.
Cuối thời Xuân Thu ( thế kỷ VI TCN), ngời Trung Quốc đã biết nấu sắt
và biết chế tạo công cụ lao động bằng sắt: lỡi cày, lỡi liềm, búa, rìu Đồng
thời với nó là việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp
nh dùng phân bón, làm thuỷ lợi. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho sản
xuất nông nghiệp phát triển, năng suất lao động đợc tăng cao. Đặc biệt việc

tiến hành khai khẩn đất hoang đã làm tăng ruộng đất, tăng năng suất lao
động cho nhân dân: Đồng thau để đúc kiếm, kích Sắt để đúc cuốc, cào
và quả cân [22- 218]. Việc áp kỷ thuật vào sản xuất và việc khai khẩn đ ợc
nhiều đất hoang làm cho ngời ta nhận thấy không cần thiết phải chia lại
ruộng đất công theo định kỳ, căn cứ vào chất đất tốt hay xấu nh trớc đây
nữa. Công xã bấy giờ cứ giao thẳng từng mãnh đất công cho từng gia đình
nông dân nhận lấy làm ăn trong thời gian dài. Nông dân công xã đã có thể
sử dụng tuỳ ý mãnh đất của mình mà không sợ năm sau công xã đem chia
lại cho ngời khác. Do đó nông dân gắn bó lâu đời với mãnh đất của mình.
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

7


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Tình hình đó phát triển thêm một bớc nữa thì mãnh đất công đó lâu ngày
biến thành ruộng t hữu của nông dân. Ruộng khai khẩn biến thành ruộng t
hữu ngày càng nhiều. Khi đó thế lực của bọn quý tộc cũng lớn mạnh lên
dần, ruộng đất công xã cũng dần dần bị chúng chiếm đoạt làm ruộng t. Nh
vậy chế độ "tĩnh điền" (*) dần dần tan rã. Chế độ t hữu về ruộng đất xuất hiện
và ngày càng phát triển.
Sự ra đời của công cụ bằng sắt dẫn đến sự phát triển trong nông nghiệp
rõ rệt, đồng thời với nó cũng thúc đẩy những bớc tiến bộ mới trong thủ

(*) Ruộng đất chia thành nhiều khu, mỗi khu đợc chia thành chín ô theo hình chữ "Tĩnh"

trong tiếng Hán. Diện tích mỗi khu rộng, hẹp khác nhau theo từng triều đại. Các ô có diện tích
bằng nhau, tám ô xung quanh chia cho tám nhà cày cấy, nộp một số hoa lợi thu hoạch đ ợc cho
triều đình và không phải nộp thuế cho phần ruộng đợc chia.

công nghiệp, nhiều nghề mới xuất hiện: Nghề luyện sắt, nghề làm mối, dệt
lụa, chạm khảm Trong đó đồ chạm và dát vàng bạc, hàng dệt lụa và đồ
sơn là những sản phẩm thủ công nghiệp tinh xảo nhất thời Chiến Quốc. Từ
đó sự trao đổi hàng hoá trong một nớc cũng nh giữa các nớc với nhau đợc
mở rộng và tăng cờng. Điều đó thúc đẩy nền thơng nghiệp của Trung Quốc
phát triển hơn trớc. Trên thị trờng trong nớc có bày đủ đặc sản ở các nơi. Để
đáp ứng nhu cầu phát triển của thơng nghiệp các nớc đã tự chế ra tiền. Tiền
tệ bằng kim loại xuất hiện thời Xuân Thu, đến Chiến Quốc thì thịnh hành và
đợc sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực: trao đổi hàng hoá, trả tiền thuê
nhân công, cho vay lấy lãi Nh vậy thời Xuân Thu - Chiến Quốc tình hình
kinh tế của Trung Quốc có những biến đổi to lớn, kéo theo những biến đổi
về mặt chính trị, xã hội.
Về chính trị: Thời kỳ này đã diễn ra những cuộc đấu tranh tranh giành
quyền lực hết sức gay gắt giữa các thế lực.
Chu Bình Vơng dời đô sang Lạc ấp chẳng đợc bao lâu thì trong cung
đình xảy ra lộn xộn, cha con tranh giành nhau ngôi vua, làm cho thế lực nhà
Chu ngày càng suy yếu.
Vùng Lạc ấp (vơng kỳ của nhà Chu) có địa thế nhng là một vùng nhỏ
hẹp, phần thì phải phân phong cho các công thần, phần thì bị một số nớc ch
hầu lấn chiếm nên đất đai ngày càng hẹp đi. Mặt khác, giai đoạn này uy thế
chính trị của nhà Chu giảm sút, nhiều nớc ch hầu ngang nhiên không chịu
triều cống cho nhà Chu nữa. Bị suy yếu trầm trọng về chính trị nên mặc dù
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:


8


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

trên danh nghĩa tuy vẫn là vua chung của các nớc ch hầu, nhng thực tế vua
nhà Chu không còn đủ sức điều khiển các nớc ch hầu nữa. Các nớc ch hầu
cũng không xem thiên tử nhà Chu theo đúng nghĩa của nó nữa mà có phần
lấn lớt.
Trong điều kiện thiên tử nhà Chu ngày càng suy yếu, ngợc lại một số nớc ch hầu ngày càng mạnh lên. Vì vậy trên vũ đài chính trị Trung Quốc đã
diễn ra những cuộc chiến tranh triền miên nhằm tranh giành quyền lực,
thống nhất và bá chủ Trung Quốc. Chiến tranh ngày càng ác liệt dẫn đến
biên giới các nớc thay đổi từng ngày theo cục diện của cuộc chiến tranh.
Cuối cùng còn lại hai cục diện chính là Ngũ Bá và Thất Hùng.
Ngũ Bá là giai đoạn 5 nớc đấu tranh, tranh giành nhau ngôi bá chủ gồm:
Tần, Tấn, Tống, Sở, Tề. Trong đó Tề là nớc giành đợc quyền bá chủ đầu tiên
vào năm 656 TCN. Sau Tề là đến Tần, Sở Các n ớc mạnh, yếu, thắng, bại
tuỳ từng thời điểm mà thay nhau cống nạp cho thiên tử nhà Chu. Sau đó hai
nớc Ngô, Việt phát triển mạnh lên tranh giành quyền bá chủ với nhau ở
miền Đông Nam. Mãi đến năm 334 TCN nớc Việt bị nớc Sở diệt thì cục
diện thời Xuân Thu mới tạm chấm dứt.
Sang thời Chiến Quốc, cục diện Thất Hùng với bảy nớc lớn nổi lên là:
Tần, Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy. Nớc Tần ở phía Tây Hàm Cốc còn sáu
nớc còn lại nằm ở phía đông quan ải đó, nên thờng gọi chung là " Sơn đông
phục quốc". Giữa bảy nớc đó, chiến tranh theo quy mô lớn diễn ra không
ngớt, biên giới giữa các nớc thờng xuyên thay đổi tuỳ theo thắng bại trong
chiến tranh.
Trong số Ngũ Hùng, Ngụy là nớc hùng mạnh sớm nhất, có ý đồ xâm

chiếm Triệu, Hàn để thống nhất lại nớc Tấn cũ. Năm 354 TCN, Ngụy tấn
công nớc Triệu ở phía Bắc, đến năm 342 TCN lại tấn công nớc Hàn ở phía
Nam. Nhng cả hai cuộc tấn công này đều bị nớc Tề viện binh và đánh bại.
Một thời gian sau, Nguỵ bị Tần và Sở lần lợt tấn công và chiếm mất nhiều
đất đai ở phía Tây và phía Nam nên dần suy yếu đi. ở phía Đông thì nớc Tề
và nớc Yên lại xung đột với nhau
ở phía Tây, tuy nớc Tần có nền văn minh kém hơn so với các nớc kia
nhng có điều kiện thuận lợi ở: đất đai rộng, phì nhiêu, địa thế hiểm yếu nên
không bị các nớc khác quấy phá. Vua Tần là ngời sáng suốt đã trọng dụng
Thơng Ưởng, một nhà chính trị có đờng lối cải cách tiến bộ theo đờng lối
Pháp gia làm Tể tớng. Từ năm 359 - 350 TCN, Thơng Ưởng đã thi hành
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

9


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

nhiều cải cách tiến bộ về kinh tế, chính trị, xã hội và quân sự, đa nớc Tần
phát triển. Dần dần Tần trở thành một nớc có tiềm lực kinh tế, binh lực hùng
hậu nhất trong Thất Hùng. Sự lớn mạnh của nớc Tần là hiểm họa đối với 6
nớc kia. Năm 333 TCN, theo sáng kiến của Tô Tần, một tớng quốc của nớc
Yên, thành lập liên minh quân sự sáu nớc: Yên, Tề, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy đợc thành lập, gọi là "Hợp Tung" nhằm chống Tần. Tuy nhiên kế hoạch liên
minh này không vững chắc vì sáu nớc vốn đã có nhiều mâu thuẫn nên không
thể đoàn kết lâu dài. Vua Tần là ngời khôn ngoan đã cử tớng quốc Trơng
Nghi đi dụ dỗ các nớc liên minh với Tần, xúi dục đánh nhau gọi là "Liên

Hoành" chống lại sáu nớc kia. Chỉ trong vòng mời năm từ 230 - 221 TCN
nhà Tần đã tiêu diệt lần lợt sáu nớc: Hàn (230 TCN), Triệu (228 TCN),
Ngụy (225 TCN), Sở (223 TCN), Yên (222 TCN), Tề (221 TCN), chính thức
thống nhất Trung Quốc. Chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân
Thu - Chiến Quốc.
Về xã hội: Thời kỳ này, do sự biến đổi về kinh tế cũng nh về chính trị
làm cho cơ cấu xã hội cũng có nhiều thay đổi.
Trớc hết, sự xuất hiện chế độ t hữu ruộng đất đã dẫn đến sự phân hoá
trong giai cấp thống trị. Do có ruộng đất riêng, một số quan đại phu, sĩ đã
biến thành những địa chủ mới. Sang thời chiến quốc, không chỉ quan lại nhà
nớc mà một số nhà buôn giàu cũng mua đợc nhiều đất trở thành những thơng nhân kiêm địa chủ lớn. Mặt khác trong quá trình một số đại phu lớn
mạnh lên, thì số đông đại phu khác lại bị sa sút đi. Chiến tranh cớp đoạt và
đời sống xa hoa khiến chúng mất hết của cải và thái ấp. Chúng và con cháu
chúng trở thành phá sản biến thành những kẻ sĩ bình thờng hoặc bị giáng
xuống làm nô bộc. Tầng lớp đại phu đã suy yếu không giữ đợc địa vị quý
tộc thế tập của họ nữa. Vua trực tiếp thống trị nhân dân, bắt nhân dân chịu
binh dịch và su dịch, thu tô ruộng và thuế nhân khẩu.
Do sự phát triển của sức sản xuất, sự xuất hiện và phát triển của kinh tế
hàng hoá, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông
thôn (chế độ tĩnh điền) bị phá hoại, trong thôn xã có phân hoá giai cấp mạnh
mẽ. Một số rất nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, còn đa số
nông dân mất ruộng đất, họ phải đi cấy rẽ, làm thuê trở thành tá điền, cố
nông, phải chịu cảnh nghèo khổ và phải đóng thuế nặng nề.
Bọn quý tộc, địa chủ và thơng nhân giàu có cớp đoạt ruộng đất của nông
dân, chúng thấy bóc lột sức lao động của nông dân làm mớn, cấy rẽ có lợi
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

10



Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

hơn dùng nô lệ. Do đó chúng chuyển sang thuê mớn nhân công và cho phát
canh thu tô. Quan hệ sản xuất phong kiến - nông nô xuất hiện và dần chiếm
u thế trong nông nghiệp. Nh vậy đời sông nhân dân vẫn không đợc cải thiện.
Trong xã hội ngày càng nhiều bộ phận tri thức (kẽ sĩ) đóng vai trò lớn
đối với đất nớc. Họ có tầm nhìn, có tri thức, nhiều ngời đã trở thành quân s
cho triều đình. Tiêu biểu cho tầng lớp này thời Xuân Thu - Chiến Quốc có
Quản Trọng (nớc Tề), Lão Tử, Khổng Tử (nớc Sở), Mạnh Tử (nớc Lỗ), Tuân
Tử (nớc Triệu), Thơng Ưởng, Hàn Phi Tử - Trơng Nghi - Lã Bất Vi (nơc
Tần), Trơng Nghi (nớc Yên) Những nhà chính trị này không chỉ ảnh h ởng đến đời sống chính trị thời Xuân Thu - Chiến Quốc mà mãi về sau suốt
chế độ phong kiến lâu dài, đặc biệt là Khổng Tử.
Tóm lại thời Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc) tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội Trung Quốc có những biến đổi rõ rệt, xã hội bớc vào giai
đoạn quá độ chuyển từ xã hội cổ đại sang chế độ xã hội phong kiến. Trong
cuộc biến đổi xã hội ấy đã xuất hiện nhiều nhà t tởng có ảnh hởng lớn dối
với xã hội phong kiến Trung Quốc sau này.
1.2- Sự xuất hiện một số trào lu t tởng cuối Xuân Thu đầu Chiến
Quốc.
Đi tiên phong cho phong trào "bách gia ch tử" ("bách gia tranh minh,
ch tử hng khởi" - ch tử nổi lên, trăm nhà đua tiếng) là Khổng Tử. Khổng Tử
sống đúng vào thời kỳ lịch sử Trung Quốc chuyển từ xã hội cổ đại sang xã
hội phong kiến. Lúc đó truyền thống cũ của chế độ nô lệ bị phá vỡ. Các nớc
ch hầu đợc phong đã không phục tùng mệnh lệnh của thiên tử nhà Chu mà
thực hiện chiến tranh tranh giành bá quyền. Giữa lúc ấy Khổng Tử xuất hiện
và truyền bá học thuyết của mình góp phần chấm dứt sự hỗn loạn ấy để xây

dựng một xã hội thái bình thịnh trị. Khổng Tử sáng lập phái Nho gia, ông
tin là có thợng đế Trời, nhng lại thừa nhận không cần thợng đế ban bố
mệnh lệnh gì cả, những hiện tợng tự nhiên nh bốn mùa và vạn vật vẫn vận
động và sinh trởng. Ông không tán thành nhắm mắt tin vào "thiên mệnh" mà
yêu cầu con ngời phải nỗ lực cá nhân trong đời sống hiện thực, phải chú ý
học hỏi và tu dỡng đạo đức. Bỡi vậy hơn nửa đời hoạt động của ông là theo
đuổi sự nghiệp giáo dục và trong lĩnh vực này đông đã đạt đợc những thành
tựu to lớn.
T tởng giáo dục của Khổng Tử gắn liền với quan điểm chính trị và đạo
đức của ông. Khổng tử phản đối chiến tranh, phản đối bóc lột nhân dân,
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

11


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

phản đối tình trạng loạn lạc trong xã hội đơng thời. Ông phản đối "pháp trị",
chủ trơng "lễ trị" đề xớng chữ "nhân" và thuyết "chính danh định phận" để
duy trì nền thống trị tông tộc, khôi phục trật tự đẳng cấp trong xã hội là
"quân tử" và "tiểu nhân". Trong thực tế chữ "nhân", hạt nhân của học thuyết
chính trị của Khổng Tử chỉ thực hành đối với những ngời quân tử. Và để đối
phó với những biến động chính trị thời đó, Khổng Tử chủ trơng phải " chính
danh địch phận" tức là khuyên mọi ngời phải biết xử trí đúng với cơng vị
của mình trong xã hội, nghĩa là "vua phải ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con
ra con". Rõ ràng Khổng Tử đại diện cho giai cấp thống trị cũ. Tuy nhiên về

chính trị, ông phản đối việc dùng bạo lực để thống trị nhân dân, dạy bọn
thống trị phải quan tâm đến đời sống của nhân dân. Ông khuyên bọn quý
tộc phải "thơng yêu ngời thân", phải tôn trọng nhân cách của ngời khác. Có
thể nói với quan điểm " chính danh định phận" đa học thuyết Nho gia Khổng giáo trở thành hệ t tởng thống trị của xã hội phong kiến Trung Hoa
và có ảnh hởng sâu sắc đến các nớc Đông á (trong đó có Việt Nam) suốt
mấy nghìn năm. Chúng ta sẽ có điều kiện tìm hiểu sâu hơn về quá trình hình
thành và xác lập hệ t tởng này ở các chơng sau..
Cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc, ngoài phái Nho gia của Khổng Tử,
còn xuất hiện phái Mặc gia do Mặc Tử sáng lập, Đạo gia do Lạo Tử đề xớng
và Trang Tử kế tục, phái Pháp gia mà đại biểu kiệt xuất là Hàn Phi Tử cùng
nhiều trờng phái và học thuyết chính trị - xã hội khác, tạo nên một phong
trào văn hoá chính trị rầm rộ "trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng" có ảnh
hởng sâu sắc đến xã hội Trung Hoa suốt mấy nghìn năm.
Mặc Tử, tức Mặc Địch (478 - 392 TCN), ngời sáng lập ra phái Mặc gia,
ngời nớc Lỗ và xuất thân từ tầng lớp lao động. Ông đối lập với Khổng Tử,
cho rằng phải lấy sự thiết tha đối với quyền lợi đời sống của quần chúng làm
tiêu chuẩn đánh giá con ngời. Ông công kích bọn quý tộc thợng lu, phản đối
đời sống xa hoa của chúng, ông cho những kẻ hởng thụ kết quả lao động mà
mình không tham gia lao động là bất chính. Mặc tử phản đối chiến tranh
xâm lợc, ông cho con ngời chém giết nhau là tham lam nên đa ra thuyết "tiết
kiệm". Hạt nhân t tởng của Mặc tử là thuyết "kiêm ái" (thơng yêu rộng rãi
mọi ngời), mọi ngời phải thơng yêu giúp đỡ lẫn nhau. Trong việc tổ chức bộ
máy nhà nớc Mặc Tử, chủ trơng đề cao ngời có tài đức ra cáng đáng việc nớc. Bất cứ ai, kể cả nông dân và thợ thủ công nếu có tài năng thì có thể đa
lên giữ chức vị cao, nếu ai ngu đần thì hạ xuống, dù là dòng dõi quý tộc.
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

12



Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Ngay cả vua cũng chỉ là ngời có tài đức trong thiên hạ đa lên mà thôi. Bởi
vậy, Mặc tử phê phán thuyết "chính danh địch phận" của Khổng tử và chống
lại lối phân chia mọi ngời thành "quân tử" và "tiểu nhân". Ông là ngời sùng
bái thợng đế và quỷ thần ("thiên minh quỷ"), coi ý chí thợng đế là nguyên
tắc cao nhất của hành vi con ngời. Nhng ông chống thuyết định mệnh và
cho rằng chỉ cần ra sức làm việc thì có thể làm đời sống no ấm, không ra sức
làm việc sẽ nghèo đói.
T tởng của Mặc Tử đợc truyền bá rộng rãi trong xã hội thời Chiến Quốc
vì phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Học trò của ông lập thành một
đoàn thể có tổ chức rất chặt chẽ do Mặc Tử lãnh đạo gọi là Mặc gia. T tởng
của Mặc Tử và phái Mặc gia đợc chuyển thành một quyển sách gọi là "Mặc
Tử".
Lão Tử, tức Lý Nhĩ sinh vào cuối thời Xuân Thu - Cùng thời với Khổng
Tử, thuộc dòng dõi quý tộc. Lão Tử là nhà triết học duy vật nổi tiếng của
Trung Quốc cổ đại, ngời dựng lên quan niệm duy vật về tự nhiên, đề ra học
thuyết "Đạo" để giải thích nguồn gốc hình thành của vạn vật. "Đạo" là một
khối hỗn độn, nó là cơ sở vật chất đầu tiên của thế giới. Lão Tử dùng "Đạo"
để giải thích tính vật chất và tính thống nhất của thế giới. Ông đã kích quan
niệm thợng đế sáng tạo ra thế giới, cho rằng thợng đế không phải là cơ sở
tồn tại của "Đạo", trái lại "Đạo" có sớm hơn thợng đế, "Đạo" sinh ra vạn vật
một cách không có ý chí, dục vọng, mục đích và nó luôn theo sự phát triển
của bản thân sự vật chứ không làm chúa tể chi phối vạn vật. Ngời noi theo
đất, đất noi theo trời, trời noi theo đạo, đạo noi theo tự nhiên - Thế giới quan
của Lão Tử có tính chất vô thần.
Mặt xã hội, Lão Tử chủ trơng "vô vi" đòi bọn thống trị phải tuân theo

quy luật tự nhiên, không đợc can thiệp bạo lực vào đời sống của quần chúng
nhân dân, không can thiệp vào dòng biến chuyển tự nhiên của vạn vật về bất
cứ phơng diện nào, ngay cả con ngời cũng không cần giáo hoá, nhờ đó mà
xã hội thái bình. Lão Tử mơ ớc trở lại đời sống chất phác của thời đại thị tộc
và bộ lạc: "tiểu quốc quả dân" - nớc nhỏ, dân tha. Sau này trang Tử đã
xuyên tạc quan điểm "đạo" của Lão Tử, xem đó là nguồn gốc đẻ ra tinh
thần- Ông ngã về chủ nghĩa hoài nghi và thần bí. Thuyết này có nhiều mặt
tiêu cực và yếu thế, nhng nó lại có cơ sở ảnh hởng trong xã hội không nhỏ.
Hàn Phi Tử: sống cuối thời Chiến Quốc, là công tử nớc Hàn, học trò của
Tuân Tử. Tuy là quý tộc nhng Hàn Phi Tử chịu ảnh hởng của thời đại rất sâu
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

13


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

sắc. Ông phản đối "lễ trị", đề xớng "pháp trị", tổng hợp các lý luận pháp trị
của các triết gia trớc mình nh Thơng Ưởng, Lý Khôi, cho rằng pháp luật của
nhà nớc phải trở thành công cụ quan trọng của sự phát triển đời sống xã hội
và sự cũng cố chủ nghĩa chuyên chế. Ông đề ra chủ trơng "cai trị bằng sức
mạnh thì đợc làm vua", kiên quyết phủ nhận lý luận chính trị thần quyền.
Hàn Phi Tử cho rằng lịch sử xã hội loài ngời luôn luôn biến đổi, không có
chế độ xã hội nào vĩnh viễn, kẻ thống trị phải căn cứ vào nhu cầu khách
quan đơng thời và xu thế của thời đại, tuỳ thời lập ra chế độ mới. Ông chống
lại thái độ ngoan cố, thủ cựu trong chính trị và đã kích chủ nghĩa phục cổ.

Hàn Phi Tử còn khẳng định rằng nghèo túng là do con ngời lời biếng, xa xỉ,
giàu có là do con ngời chịu khó và tiết kiệm... Học thuyết của ông đợc trình
bày khá hệ thống và đầy đủ trong bộ sách "Hàn Phi Tử". Sách này đa vào nớc Tần và đợc vua Tần làm cơ sở lý luận cho nền thống nhất chuyên chế của
đế quốc Tần, làm Tần phát triển mạnh. Tần Thuỷ Hoàng đã sử dụng học
thuyết của Hàn Phi Tử vào việc kết thúc 550 năm thời Xuân Thu - Chiến
Quốc hỗn chiến và thống nhất Trung Hoa.
Nh vậy là giai đoạn Đông Chu ở Trung Quốc đã có sự xuất hiện của rất
nhiều các trờng phái t tởng (103 trờng phái) mà tiêu biểu là bốn trờng phái
trên. Do yêu cầu chủ quan và khách quan của lịch sử Nho học của Khổng
Tử với hệ t tởng trọng nhân nghĩa, "chính danh định phận" đã trở thành hệ t
tởng thống trị của xã hội phong kiến Trung Quốc từ Đông Chu đến thời
Thanh.
*

*

*

Chơng 2
Quá trình hình thành ý thức hệ
phong kiến trung quốc
2.1. Yêu cầu khách quan của lịch sử.
Giai đoạn Đông Chu (thời Xuân Thu - Chiến Quốc) nh đã nói là bớc quá
độ, thời kỳ chuyển biến nhanh chóng xã hội Trung Quốc từ cổ đại sang xã
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

14



Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

hội phong kiến. Trong cuộc biến đổi xã hội ấy đồng thời với nó là những
thay đổi hết sức to lớn trong xã hội mà yêu cầu khách quan, bức thiết phải
có một học thuyết với hệ t tởng mới phù hợp với yêu cầu xã hội Trung Hoa
thời bấy giờ.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, cuộc đấu tranh giai tầng đã diễn ra liên
tục và khá ác liệt nh: Năm 478 TCN, nô lệ làm thủ công nớc Vệ vây đánh
Trang Công; năm 470 TCN, nô lệ làm thủ công nớc Vệ vác công cụ lao
động tấn công Công Thất, đuổi đánh Vệ Hầu. Đặc biệt, thời bấy giờ có một
số ngời bị bắt làm nô dịch đã tụ tập trong lùm rậm đánh bại bọn thống trị nớc Trịnh. Còn ở nớc Tần thì hễ dân nghe thấy lệnh của vua là chạy trốn nh
chạy giặc.
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chế độ ruộng đất thuộc quyền sở hữu của
nhà nớc dần dần tan rã, ruộng t xuất hiện ngày càng nhiều, chế độ "tĩnh
điền" dần bị xoá bỏ. Vì vậy đã xuất hiện địa chủ và nông dân lĩnh canh, tạo
điều kiện cho nền kinh tế phong kiến hình thành.
Cũng thời kỳ này, một mặt cuộc đấu tranh của nô lệ dấy lên mạnh mẽ ở
nớc Tần do một tên trùm cớp lớn của Tần là Chích nổ ra mạnh mẽ. Cuộc
đấu tranh này đã thu hút rất đông ngời tham gia dáng một đòn đã kích nặng
nề vào tầng lớp quý tộc chủ nô ở các nớc ch hầu nhà Chu. Chích là ngời có
uy tín rất cao trong quần chúng nhân dân bị nô dịch, ông có thanh danh nh
Mặt trời, Mặt trăng, tên tuổi cũng truyền mãi nh ông Thuấn, ông Vũ nên có
ảnh hởng rất lớn trong xã hội đơng thời. Mặt khác, thời bấy giờ những ngời
nông dân cày thuê ruộng đất của ngời giàu và nộp địa tô đã đánh dấu một bớc phát triển mới của quan hệ sản xuất phong kiến. Đồng thời một số nô lệ
do đấu tranh đợc giải phóng đã trở thành những cố nông bán sức lao động
của mình "bán công cày cấy" cho địa chủ mới lên bóc lột cũng góp phần
làm phát triển quan hệ sản xuất phong kiến. Từ đó dẫn đến quan hệ lệ thuộc

đẳng cấp về mặt chính trị và bóc lột lao động nô lệ không thể duy trì đợc
nữa, xuất hiện tình trạng "lễ h nhạc hỏng" - tình trạng tan rã không thể cứa
vãn nổi của chế độ thống trị cổ đại.
Từ thời Xuân Thu, vua Đông Chu đã mất dần thế lực và uy quyền của
mình, các nớc ch hầu không ngừng đánh nhau triền miên, nhiều dòng họ
khanh đại phu chuẩn bị lực lợng để dành ngôi ch hầu. Vì vậy những hiện tợng nh bề tôi giết vua, con giết cha, anh giết em liên tiếp diễn ra, phá vỡ trật
tự xã hội. Nh vậy là trậ tự xã hội bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi, những thiết
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

15


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

chế cũ của thời Tây Chu bị phá vỡ, trong khi đó đời sống của nhân dân lại
vô cùng cực khổ. Chính cái bối cảnh xã hội ấy đã sản sinh ra một loạt nhà t
tởng nổi tiếng với các học thuyết chính trị nhằm thiết lập cơng thờng xã hội
theo ý tởng của mình nh Lão Tử, Mặc Tử, đặc biệt là Khổng Tử.
Sang thời Chiến Quốc, vua Đông Chu tuy vẫn tồn tại nhng là hữu danh
vô thực, đã hoàn toàn mất vai trò thiên tử của cả nớc. Trong khi đó các nớc
ch hầu lớn đã tiến hành những cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt hơn trớc
để tiêu diệt lẫn nhau nhằm giành quyền làm chủ toàn Trung Quốc. Thực tế
lịch sử đó đã đặt ra một vấn đề là làm thế nào để thực hiện việc thống nhất,
chấm dứt chiến tranh và tình trạng rối ren, hỗn loạn trong xã hội. Trong thời
loạn lạc nh thế, đạo đế vơng đời trớc mờ tối, ngời đời say đắm về đờng công
lợi, không ai thiết gì đến nhân nghĩa nữa. Nhng cũng vì thế cục biến loạn,

dân tình khổ sở, ngời trong nớc mới lo nghĩ tìm cách sửa đổi để cứu vớt
thiên hạ, vậy nên các học thuyết mới hng thịnh lên. Khổng Tử đã phát minh
ra cái đạo của thánh hiền, lập thành một học thuyết có hệ thống, lấy nhân,
nghĩa, lễ, trí mà dạy ngời, lấy cơng thờng mà hạn chế nhân dục để giữ trật tự
trong xã hội cho vững bền.
2.2. Ngời tiên phong đặt nền móng cơ bản cho t tởng của Nho họcKhổng Tử.
Nho tức là văn minh nho nhã. Đời xa ngời đi học đạo của thánh hiền gọi
là Nho, tức là ngời đã học biết suốt đợc lẽ trời đất và ngời để dạy bảo ngời ta
ăn ở cho phải đạo luân thờng. Nho là bởi chử Nhân đứng bên chữ Nhu mà
thành ra. Nhân là ngời, Nhu là cần dùng, tức là một hạng ngời bao giờ cũng
cần dùng cho xã hội, biết đờng mà ăn ở cho hợp lẽ trời. Chữ Nhu còn có
nghĩa là chờ đợi, tức là ngời học giỏi đợi ngời ta cần đến sẽ đem tài trí của
mình ra mà giúp việc đời. Phàm những ngời học Nho thuật là những ngời
thiên về mặt thực tế hơn mặt lý tởng. Bởi vậy từ xa đến nay những ngời Nho
học đều là những ngời ra cáng đáng việc đời để làm ích quốc lợi dân, chứ
không phải là ngời yếm thế chỉ vụ lấy sự vui thú trong vòng t tởng. T Mã
Thiên đã khái quát: cánh rừng nho nhã là tổng hợp cổ văn làm tổng hợp
nghề cũ, cũng khuyến khích nhà Nho để gây dựng cho sự nghiệp vơng hoá.
T tởng Nho gia bắt rễ sâu xa lu truyền lâu bền. Ngay từ thời Nghiêu, Thuấn
đã lu truyền chính thức t tởng trung hiếu: "kinh thi", "kinh dịch".
Những ngời mở đờng tiên phong của t tởng Nho gia cổ đại là Nghiêu,
Thuấn, Vũ, Chu Công. Trong đó tơng truyền Nghiêu, Thuấn, Vũ là những
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

16


Khoá luận tốt nghiệp


Trịnh Thị Dung

hiền nhân thời cổ: Nghiêu, Thuấn thì hành nhân chính; Đại Vũ trị thuỷ; Chu
Công phụ chính cho thành vơng "chế lễ tác nhạc" và "kính đức bảo dân".
Nhân chính do họ thi hành đều trở thành nguồn mạch sâu gia của t tởng Nho
gia thời kỳ đầu. Khổng Tử đã tổng kết: "Nối dõi đạo đức Nghiêu, Thuấn,
nêu rõ hiến chơng văn võ".
Khổng Tử là bậc tôn s của học phái Nho gia, cống hiến chủ yếu của ông
với Nho học là đặt nền móng cho t tởng cơ bản của Nho học, xác định hệ
thống kinh điển cơ bản và mở mang, truyền bá Nho học qua học trò của ngời.
2.2.1. Vài nét về Khổng Tử.
Khổng Tử ngời làng Xơng Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông, có
dòng dõi là ngời nớc Tống, ông tổ ba đời rời sang nớc Lỗ. Thân phụ của
Ngài là Thúc Lơng Ngột làm quan võ, có đến ba đời vợ. Ngời vợ đầu sinh đợc chín ngời con gái, ngời vợ thứ hai sinh đợc Mạnh Bì là con trai nhng bị
què chân, đến ngời vợ thứ ba mới sinh đợc Khổng Tử. Thân phụ Khổng Tử
là một quân thần hết sức can đảm và trung tính, ông mất khi Khổng Tử mới
đợc ba tuổi. Mẹ là Nhan Thị, bà rất tinh thông chữ nghĩa và nhân hậu. Trớc
khi sinh Khổng Tử có lần bà lên núi Ni Khâu, cho nên khi sinh ra Ngài mới
nhân điều ấy mà đặt tên là Khâu, tức là gò. Khi thân phụ Khổng Tử mất, bà
Nhan Thị đã đa Ngài đến Khúc Phụ nuôi dạy cho nên ngời.
Lên 7 tuổi Khổng tử bắt đầu đi học. Ông học hết chơng trình lục nghệ:
Lễ, Nhạc, Xạ (bắn), Ngự (đánh xe), Th (viết chữ), Số (tính toán) khi 15 tuổi.
Là ngời thông minh và ham hiểu biết, không dừng lại ở đó, ông chuyên tâm
tìm hiểu về "Lễ" là ngời hiếu thảo với cha mẹ, yêu quý anh chị em, kính
trên, nhờng dới, thơng ngời nh thể thơng thân, gần gủi những bậc hiền nhân
quân tử... Vì vua Lỗ là hậu duệ của Chu Công, vua Vệ là hậu duệ của Khang
Thúc, nên hai nớc này vẫn còn giữ đợc truyền thống văn háo của nhà Chu.
Chu Lỗ lúc ấy đợc xem là chuẩn mực nên Khổng Tử tìm hiểu kỹ cả về tế lễ,
pháp điển, phong tục, tập quán... "Lễ" giúp điều hoà những mặt tích cực và

hạn chế của con ngời: cung kính mà không biết thì khó nhọc, cẩn thận mà
không biết thì nhút nhát, dũng cảm mà không biết thì loạn động, ngay thẳng
mà không biết thì gắt gao mất lòng ngời. Lễ không thể thiếu đợc đối với
những ai tu thân: "Vô học lễ vô dĩ lập" (nghĩa là không lễ học không biết
lập thân), không biết c xử. Khổng Tử nhận thấy điều này nên rất tự giác học
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

17


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

tập. Bằng kinh nghiệm của ngời đi trớc, của chính bản thân mình, những lời
giáo huấn về lễ của Khổng Tử sau này có sức thuyết phục to lớn.
Năm Ngài 19 tuổi thì thành gia thất rồi ra làm quan với chức Uỷ lại coi
sự gạt thóc ở kho, sau lại làm t chức, coi việc nuôi bò, dê để dùng việc cúng
tế. Thuở ấy tuy Ngài còn trẻ tuổi nhng đã nổi tiếng là ngời giỏi, cho nên
quan nớc Lỗ là Trọng Tôn Cồ cho hai con là Hà Kị và Nam Cung Quát theo
Ngài học lễ.
Buổi ngày đi làm, ban đêm Khổng Tử vẫn miệt mài đèn sách đến khuya,
vì vậy kiến thức của Khổng Tử không ngừng đợc bồi đắp và ngày càng uyên
thâm hơn, học trò theo học Ngài nhiều hơn.
Do đọc và học nhiều nên ngoài việc tinh thông về lễ, Khổng Tử còn hiểu
thêm đợc quy luật vận hành của trời đất, cây cỏ và xã hội. Khổng Tử có
những kiến giải về các hiện tợng thiên nhiên và xã hội, về quan hệ giữa nớc
Lỗ và các nớc lân cận làm không chỉ quan lại bái phục mà cả vua Sở cũng

trầm trồ khen ngợi.
Sự tinh thông của Khổng Tử đợc lu truyền khắp nơi và học trò đến xin
học Ngài ngày càng đông. Khổng Tử đã mở đợc trờng dạy học ngay tại nhà
mình khi mới 22 tuổi. Đây là một trong những trờng t thuộc thế hệ giáo dục
đầu tiên trong nền giáo dục của Trung Hoa cổ đại. Đây là công việc khó
khăn, nhng với trí tuệ và năng lực tổ chức của mình, công việc đầy ý nghĩa
này của Khổng Tử ngày càng đợc mở rộng.
Khổng Tử là ngời rất sùng bái Chu Công - ngời đã đặt ra lễ học cho nhà
Chu. Vì vậy năm 29 tuổi ông đến kinh đô của nhà Chu là Lạc ấp để nghiên
cứu về "lễ". Thầy trò Khổng Tử đi thăm tất cả mọi nơi. Điểm dừng chân lâu
nhất là ở nhà Minh Đờng - một bảo tàng trang nghiêm, bề thế do Chu Công
lập ra 600 năm về trớc để đa những luật lệ và những bảo vật, cùng những
hình tợng của các thánh hiền đời trớc. Ngài đến đó khảo cứu mọi việc và đi
xem những chế độ ở nơi miếu đờng cùng những nơi tế Giao, tế Xã - ở đâu
có việc gì liên quan đến việc tế lễ là Ngài đi xem rất tờng tận để hoàn thiện
thêm tri thức của mình.
Khổng Tử ở Lạc ấp đợc ít lâu rồi trở về nớc Lỗ. Từ đây sự học của Ngài
rộng hơn trớc và học trò của Ngài cũng nhiều hơn. Tuy nhiên vua nớc Lỗ
vẫn không dùng Ngài. Mấy năm sau trong nớc có loạn, Ngài bỏ sang nớc
Tề. Sau khi đợc vua Tề đón và hỏi chuyện chính trị, Ngài nói chuyện gì
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

18


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung


cũng vừa ý Tề hầu. Tề hầu định trọng dụng Ngài nhng quan lại trong nớc
không thuận, can ngăn Tề hầu. Thất vọng, Ngài bỏ nớc Tề trở về nớc Lỗ dạy
học, lúc này Ngài đã 35 - 36 tuổi.
Năm thứ 19, đời vua Kinh Vơng nhà Chu, bấy giờ Khổng Tử đã 51 tuổi,
vua nớc Lỗ mới dùng Ngài làm quan Trung đô tể (phủ Doãn). Cách một
năm sau thì cải chức làm quan Đại t khấu (Hình bộ thợng th). Ngài đặt ra
luật lệ để cứu vớt kẻ nghèo khổ, định ra phép tắc trong việc tống táng ngời
chết. Sau đó bốn năm, vua nớc Lỗ cất Ngài lên nhiếp tớng sự, nghĩa là cho
Ngài quyền nhiếp việc chính trị trong nớc. Nhng về sau vua Lỗ ham vui
chơi, bỏ bê triều chính, Khổng Từ từ quan bỏ sang nớc Vệ.
Khổng Tử đã đi chu du thiên hạ, từ năm 496 đến năm 492 TCN. Ngài đã
bốn lần tới nớc Vệ, ba lần tới nớc Trần, một lần tới nớc Tống, Thái... mong
đợc tiến thân. Tuy nhiên đi đến đâu ông cũng không đợc toại nguyện. Sau
nhiều năm bỏ nớc Lỗ ra đi, ông đã cay đắng thốt lên: "Ta về thôi! Ta về
thôi! Bọn học trò của ta hăng hái nhng nông nỗi, lo tiến thủ nhng không
quên bản tính của mình" [26-227].
Năm 487 TCN, Khổng Tử lại về nớc Lỗ tiếp tục dạy học, tơng truyền tất
cả Ngài có đến 3.000 học trò, trong đó có 72 ngời thành đạt, sử sách gọi là
"thất thập nhị hiền". Họ tập hợp thành một trờng phái học thuật gọi là Nho
gia, tức là phái của những nhà trí thức.
Ngoài việc dạy học, Khổng Tử còn tập hợp, chỉnh lý các sách Thi, Th,
Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu. Trong đó Nhạc bị thất truyền, số còn lại trở
thành năm tác phẩm kinh điển của Nho gia gọi là "Ngũ kinh", đợc truyền
tụng và áp dụng chặt chẽ nh những tiêu chuẩn của chân lý trong suốt hàng
nghìn năm lịch sử của Trung Hoa và nhiều nớc á Đông khác. Những lời nói
của Khổng Tử và những câu nói của học trò ông đợc viết lại thành sách
"luận ngữ" - Đó là tác phẩm chủ yếu sau này tìm hiểu về t tởng của Khổng
Tử.
Khổng Tử là nhà t tởng vĩ đại nhất của Trung Quốc thời cổ đại. Ông có

đầu óc thực tiễn, ít quan tâm đến nguồn gốc của vũ trụ mà chỉ quan tâm đến
nhân sinh, chính trị, luân lý nên quan niệm về trời và quỷ thần giữ một vị trí
khiêm tốn trong học thuyết của ông.
Một mặt, Khổng Tử cho rằng: Trời là giới tự nhiên, bốn mùa thay đổi,
vạn vật sinh sôi nãy nở chứ không có ý trí, ngôn ngữ, tình cảm... Mặt khác,
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

19


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Khổng tử lại cho rằng trời là một lực lợng có thể chi phối số phận và hoạt
động của con ngời, do đó con ngời phải sợ mệnh trời.
Đứng trên lập trờng của quý tộc đã suy tàn bẩo vệ chế độ đẳng cấp và
chế độ tông pháp đã bắt đầu tan rã, Khổng Tử muốn quay trở lại thời Tây
Chu với chế độ Tông pháp và tĩnh điền, ông đề ra chủ trơng "Nhân" và
"phục lễ" (khôi phục lễ). Hạt nhân t tởng của Khổng tử là "Nhân" - "Nhân"
là quan hệ lẫn nhau giữa ngời với ngời trong sinh hoạt xã hội, tức là xử lý
thế nào vấn đề quan hệ giữa quý tộc và bình dân. Nội dung "Nhân" bao gồm
cả hiếu, đễ, trung thứ. Khổng Tử nói: "Hiếu, để là cái gốc làm ngời". Điều
này phản ánh quan hệ huyết thống, tông pháp trong nội bộ gia tộc, quý tộc.
Đối với bậc trên phải nói hiếu, đối với bậc ngang, hoặc dới phải nói đễ (hữu
ái). Học trò của Khổng tử nói: "T tởng của thầy nói một câu chẳng qua là
hai chữ "Trung thứ" mà thôi". Nó phản ánh quan hệ chính trị xã hội, tức là
đối với cấp trên phải nói "trung", đối với cấp ngang hoặc dới phải "thứ"

(khoan dung). Hiếu, đễ và trung thứ gộp lại thành "Nhân" tức là lòng ngời,
lòng thơng ngời... mà cụ thể là: "cái gì mình không muốn thì đừng làm cho
ngời khác, mình nuốn tự lập thì cũng tự lập cho ngời, muốn thành công thì
cũng giúp ngời thành công". Nh vậy "Nhân" là một phạm trù rộng, gần nh
đồng nghĩa với đạo đức. Học thuyết này của Khổng Tử trở thành tiếng
chuông báo thức cho nền giáo dục "Tam cơng ngũ thờng" (chỉ kỷ cơng, trật
tự xã hội, luân lý đạo đức phong kiến Trung Quốc) nổi tiếng sau này.
Bên cạnh "Nhân", Khổng Tử còn rất chú trọng đến "Lễ", nhng "Lễ" theo
Khổng Tử, nội dung không độc lập mà là một biểu hiện đạo đức luôn gắn
liền với "Nhân". Khổng Tử nói: "Ngời không có lòng nhân thì thực hành lễ
làm sao đợc", tức là phải có cái gốc, sự cung kính. Có lúc Khổng Tử còn
khẳng định nhân có trớc, lễ có sau. "Lễ" không những là biểu hiện của
"Nhân" mà "Lễ" còn có thể điều chỉnh đức nhân cho đúng mực.
Nh vậy "Nhân" và "Lễ" là hai vấn đề có tính chất cốt lõi trong t tởng của
Khổng Tử. Hai vấn đề đó có liên quan chặt chẽ với nhau. Trong đó "Nhân"
là nội dung, là cơ sở của "Lễ", còn "Lễ" là biểu hiện, là tiêu chuẩn của
"Nhân".
Xã hội lý tởng của Khổng Tử là mong muôn trở lại thời đầu Tây Chu:
Văn Vơng, Võ Vơng với cục diện ổn định, trên dới đối ứng không rõ ràng,
mâu thuẫn cũng không gay gắt. Nhng thời Xuân Thu, xã hội đã hỗn loạn,
tập tục, truyền thống, đạo lý đã lộn xộn. Vì vậy ông đề xớng "phục lễ", tức
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

20


Khoá luận tốt nghiệp


Trịnh Thị Dung

là yêu cầu mọi ngời tự khắc chế không nên tham lam, vô độ. Nhng trong xã
hội t hữu và trên dới bóc lột nhau, lòng tham chỉ tăng không giảm, làm sao
tự mình khắc kỷ đợc. Cho nên chủ trơng này của Khổng Tử không đợc coi
trọng, nên ông đã tập trung sức lực vào việc sáng lập t học nhà Nho, dạy học
hơn bốn mơi năm, một đời vui thú với nghề không mệt mỏi. Tuy có ra làm
quan và tham gia một số hoạt động chính trị, nhng cha hề ngng việc dạy học
- Thành tích tuyệt vời, ảnh hởng sâu xa, đợc xem là ngời sáng lập học phái
Nho gia - phái của nhà Nho.
Lập trờng t học, Khổng Tử chủ trơng bất kể là quý tộc hay bình dân, bất
kể là tộc Hoa hay Di Địch, đều có thể nhập học để đợc giáo dục. Đó là phơng châm giáo dục "hữu giáo vô loại" (đợc giáo dục không kể hạng ngời
nào). Đề xuất t tởng này là một cống hiến vĩ đại của Khổng Tử đối với nền
giáo dục cổ đại.
Đạo đức là vấn đề Khổng Tử chú trọng hàng đầu. Vì vậy theo Ngài,
muốn tu dỡng đạo đức đợc tốt thì phải học tập. Ngoài mục đích tu dỡng đạo
đức, việc học còn nhằm bồi dỡng tài năng để tề gia - trị quốc - bình thiên
hạ".
Phơng châm giáo dục của Khổng Tử là học đi đôi với hành. Trớc hết là
học đạo làm ngời, học cách xử trí rồi tới học các kiến thức cần thiết cho
cuộc sống "tiên học lễ, hậu học văn". Sau khi học có tài có trí thì phải ra ứng
dụng ở đời để làm những điều ích lợi cho dân chúng chứ không phải cần lấy
sự an nhàn cho bản thân. Vậy nên cái trí của Ngài là muốn ra làm quan để
thực hành cái nhân và đạo của mình.
Nh vậy, Khổng Tử - một học giả lớn, một nhà t tởng lỗi lạc, một nhà
giáo dục vĩ đại đầu tiên của Trung Quốc. Những cống hiến của Khổng Tử
vô cùng lớn lao. Ông muốn những điều tốt đẹp áp dụng vào chính trị, lấy
chính trị làm công cụ của đạo nhân để giáo huấn nhà cầm quyền nớc Lỗ và
các nớc khác. T tởng ấy của Khổng Tử đặt nền móng cho phái Nho gia và
chính là cho hệ t tởng của giai cấp phong kiến sau này.

Đến năm thứ 41 đời vua Kinh Vơng, tức là năm 478 TCN Khổng Tử mất
do mắc bệnh. Ông mất rồi học trò thơng khóc thảm thiết, ai cũng để tâm
tang 3 năm.
2.2.2. Nội dung t tởng của Khổng Tử.

bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

21


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

Những điều kiện xã hội và chính trị có ảnh hởng lớn tới triết lý thời đại.
Trong những năm cuối đời của Khổng Tử, Ngài và môn đệ suốt 14 năm đi
chu du thiên hạ, nhờ đó thiếp xúc nhiều với dân chúng, hiểu rõ nguyện vọng
của họ, đồng thời biết khả năng vơn lên... Nh vậy Khổng Tử và môn đệ của
Ngài đã đề xớng ra t tởng của mình, đặc biệt là t tởng về chính trị, là tiền đề
cho các trờng phái, hệ t tởng phong kiến Trung Quốc sau này.
Hoài bão chính trị nhất quán của Khổng Tử là kế thừa sự nghiệp của
Văn Vơng, Chu Công, lập lại kỹ cơng nhà Chu. Để thực hiện lý tởng của
mình, ông đã có những đối sách: lấy chủ nghĩa "chính danh" làm vũ khí
cũng cố trật tự nội bộ giai cấp quý tộc chủ nô; lấy chủ nghĩa "cai trị bằng lễ"
làm nguyên tắc cho thuyết chính danh để tăng cờng chế độ đẳng cấp; đối
với những vấn đề xã hội tồn tại thời đó, Khổng Tử dựa vào mọi biểu hiện
của đời sống hiện thực của nhân dân mà sáng tạo ra một loạt những nguyên
lý, luân lý để bổ sung và cũng cố chế độ tông pháp. Những quan hệ tác động

lẫn nhau giữa các đối sách trên của Ông đều thống nhất trong "Đạo nhân".
Khổng Tử sống vào cuối thời Xuân Thu. Do các cuộc bạo động nổ ra
không ngừng của nô lệ và sự vơn lên của các lực lợng mới trỗi dậy, cái gọi
là "lễ trị" nhằm duy trì, bảo vệ sự thống trị của chế độ cũ dần không duy trì
nỗi nữa, nhân đó mà nãy ra t tởng, ý đồ cải đổi chế độ cũ. Năm 336 TCN,
ngời nớc Trịnh đúc các hình th (các đoạn văn ghi về pháp luật). Năm 513
TCN, ngời nớc Tấn đúc hình đỉnh là những ví dụ về việc đó.
Khi ngời nớc Trịnh đúc hình th thì Thúc Hớng, một kẻ bảo thủ nớc Tần
lại cho rằng công bố hình th sẽ dẫn đến việc tranh giành của các nô lệ, nô lệ
sẽ dựa vào sách - tức căn cứ vào hình th để đấu tranh với quý tộc. Khổng Tử
đối với việc ngời nớc Tần đúc hình th thì càng phản đối kịch liệt hơn nữa.
Khổng Tử cho làm binh pháp thành văn, đem cái quan hệ giữa nô lệ và quý
tộc phải viết ra thành các điều khoản pháp luật, đúc lên mặt đỉnh khiến cho
mọi ngời đều biết, nh vậy thì làm sao "tôn quý" (tôn trọng bọn thống trị, chủ
nô) đợc. Nh vậy chẳng phải mất cả thứ bậc "kẻ sang ngời hèn", làm đảo lộn
trật tự xã hội cũ hay sao. Bởi vậy, Khổng Tử kiên quyết đứng trên lập trờng
của giai cấp chủ nô để duy trì, bảo vệ chế độ cũ.
Khổng Tử muốn duy trì, bảo vệ chế độ cũ, điều đó còn biểu hiện trong
khi ông làm chức vụ thay tể tớng nớc Lỗ, vừa mới lên nắm quyền liền giết
Thiếu Chính Mão là một nhân sĩ theo phái đổi mới. Tội của Thiếu Chính
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

22


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung


Mão: một là tụ họp đông ngời; hai là khuyến khích, cổ vũ tà khuyết; ba là
làm rối loạn phải trái...
Khổng Tử ra sức duy trì xã hội thời Tây Chu nh cốt lõi của khái niệm
"Nhân"- t tởng trung tâm của ông đề xớng chính là muốn để "kiềm chế
mình lập lại lễ". Ông trông thấy sự tấn công của lực lợng mới trổi dậy đơng
thời, nh Quý Thị nớc Lỗ đã cùng với Mạnh Tôn Thị, Thúc Tôn Thị đem số
đất đợc chia của mình thay đổi phơng thức sản xuất mà kinh doanh, tức áp
dụng bịên pháp thu địa tô. Nhng Khổng Tử thì rất không hài lòng về việc đó
và đã nhiều phen chỉ trích. Hơn nữa còn cho hành vi cải cách ấy là những
việc làm "bất chính", là không biết khống chế những biểu hiện cụ thể của
mình. Khi thấy cuộc đấu tranh của nô lệ đòi giải phóng ông cho là kẻ tiểu
nhân không biết mệnh trời nên không sợ, khinh nhờn bậc đại nhân, không
giữ đợc đạo trung dung. Khổng Tử nêu lên đòi hỏi những ngời trong dòng
họ của kẻ thống trị phải qua việc kiềm chế mình để dẫn đến cái gọi là "dân
chức quý hậu" (dân chúng trở về cái đạo đức thuần hậu). Ông nêu ra cái gọi
là ngời trên ham điều lễ thì dân không dám không kính, nhằm khôi phục cục
diện "lễ trị" trong đó quân tử thì lo việc trị còn tiểu nhân thì lo việc sức.
Cũng tức là nói khôi phục trật tự của chế độ thống trị thời Tây Chu.
Để duy trì, bảo vệ sự thống trị của quý tộc chủ nô, Khổng Tử đề xớng và
khuyến khích thuyết tiên nghiệm duy tâm, cổ vũ thuyết anh hùng sáng tạo
lịch sử: "Thánh nhân sinh ra là đủ mọi hiểu biết". Đồng thời lại nói rằng cái
trí của bậc bề trên và cái ngu đần của lớp ngời bề dới là do trời quyết định,
không thay đổi đợc "bậc thợng trí cùng kẻ hạ ngu, không thay đổi tính tình".
Khổng Tử tự cho mình lĩnh thụ đợc cái đức của trời: "Trời sinh đức cho tôi"
vì vậy ngời đơng thời đã chỉ trích Khổng Tử là: "Biết không thể làm đựơc
mà vẫn làm", tức chỉ trích ông gánh lấy trách nhiệm vãn hồi chế độ cũ đã lỗi
thời, suy đồi.
Khổng tử còn chủ trơng "Chính danh", nghĩa là chủ trơng chức vụ, danh
phận, phải phù hợp với chức năng, cơng vị. Vì theo ông, danh không chính

thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc làm không đạt, vì vậy lễ
nhạc cũng không thể phát triển. Do đó mà hình phạt không đúng, nhân dân
sẻ không biết đâu là phải trái. Theo Khổng Tử, sự hỗn loạn của quan niệm
danh phận, đẳng cấp, sự sa sút uy tín của lãnh chủ tối cao là thiên tử nhà
Chu, sự suy nhợc của các ch hầu địa phơng và sự ngông nghênh của các
quan đại phu, ch hầu lấn vợt quyền thiên tử, đại phu lấn vợt quyền ch hầu...,
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

23


Khoá luận tốt nghiệp

Trịnh Thị Dung

thứ dân thì mặc sức bàn bạc về chính trị... tất cả tình trạng đó không những
phá hoại về trật tự xã hội cổ truyền mà còn là mối nguy cơ chính trị rất lớn
thời bấy giờ. Khổng Tử cho những sự tình trái với danh phận làm loạn nghĩa
vua tôi và loạn trật tự lớn bé là không thể dung thứ đợc. Vì vậy Khổng Tử
cho rằng muốn cứu vãn nguy cơ chính trị thời đó, trớc hết phải khôi phục uy
quyền của lãnh chúa tối cao, tức thiên tử; phải ngăn chặn những việc vợt
quyền của các lãnh chúa ch hầu, đại phu và các quan tớc khác; mỗi ngời
phải biết giữ danh phận của mình mới có thể gây lại đợc nền chính trị của
thời "thiên hạ có đạo". Vì vậy Khổng Tử cho rằng chỉ có "chính danh", xác
định lại danh phận của các đẳng cấp, điều hoà quan hệ giữa các lãnh chúa,
ch hầu, đó là vấn đề căn bản về chính trị thời đó.
Nh vậy, theo Khổng tử, nếu quốc gia lâm vào hoàn cảnh trầm trọng,
muốn cứu vãn tình thế, chỉ có một phơng pháp duy nhất là làm thế nào cho

vua vẫn là vua, tôi vẫn là tôi và dân chúng vẫn là dân chúng. Nói cách khác
là tất cả mọi ngời phải thuận theo danh vị của mình mà hành động, đó là
thuyết "Chính danh của Khổng Tử. Vua phải theo đúng đạo làm vua, tôi
phải theo đúng đạo làm tôi, cha phải theo đúng đạo là cha, con phải theo
đúng đạo làm con.
Nhng làm thế nào để thực hiện đợc chủ nghĩa "chính danh"? Khổng Tử
cho rằng phải dựa vào sự tự giác của giai cấp thống trị lúc bấy giờ. Không
kể là "Thiên tử", "Ch hầu", "Đại phu" hay "Kẻ sĩ", mỗi ngời đều phải tự giác
giữ lấy danh phận của mình, không lạm dụng, không mợn quyền. Chỉ có
dựa vào sự tự giác chủ quan của mỗi ngời, dựa vào sự tu dỡng về đạo
"Nhân" để thay đổi quan niệm của mình, xây dựng tính tự giác ấy. Trớc hết
bản thân mình phải ngay thẳng mới có thể chỉ đạo, giúp đỡ và ảnh hởng một
cách có hiệu quả đến ngời khác. Yêu cầu đó là tích cực. Nhng nh vậy chỉ có
trên cơ sở chủ nghĩa duy vật mới có thể đảm bảo thực hiện đợc, còn chủ
nghĩa duy tâm thì lại ngợc với yêu cầu đó, không đảm bảo đợc. Do đó với
bọn ch hầu thích vợt quyền, không chịu giữ danh phận của mình, không
chịu tự giác, Khổng Tử làm thế nào? Trớc tình hình ấy, Khổng Tử chủ trơng
đáng dẹp, do Thiên tử chủ trì. Đồng thời mọi ngời đều có thể đánh dẹp.
Nh vậy, có thể thấy trong chủ truơng chính trị của Khổng tử, "Chính
danh" là nhiệm vụ cơ bản của Chính phủ. Chính danh tức là bảo vệ danh
phận, đẳng cấp, là phân biệt giữa tà và chính, tạo lập kiểu mẫu nhân chính
để phát huy h thực, tốt xấu, hữu lý, vô lý, công bình, chuyên chế, đúng hay
bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

24


Khoá luận tốt nghiệp


Trịnh Thị Dung

không đúng. Nh vậy chúng ta thấy Khổng Tử xây dựng Chính phủ hoàn
toàn trên nền tảng giáo dục. Điều này hết sức quan trọng và có ý nghĩa, vì
đời sống chính trị là do t tởng quần chúng chế ngự, điều khiển. Nếu t tởng
hớng về nẻo đúng, quốc gia sẽ an bình; nếu hớng về nẻo sai, nớc nhà sẻ
nguy hiểm.
Để duy trì và bảo vệ trật tự giai cấp trong xã hội tông pháp của Tây Chu,
Khổng Tử chủ trơng "cai trị bằng lễ làm nguyên tắc thực hiện". Lễ của
Khổng Tử nói là lễ của nhà Chu. Đó là thợng tầng kiến trúc của xã hội đẳng
cấp của bọn quý tộc chủ nô. Ông đề xớng "phục lễ", tức yêu cầu mọi ngời tự
mình kiềm chế, không nên tham lam vô độ: "Khắc kỷ phục lễ là nhân, một
ngày khắc kỷ phục lễ thiên hạ quy về nhân vậy".
"Lễ" mà Khổng Tử nói tới không chỉ là một thứ nguyên tắc về chính trị,
một văn bản về nghi tiết, mà còn là một thứ chế độ. Trong các tầng lớp do
chế độ đẳng cấp tạo nên, thì có một loại trớc đó để phân biệt họ, do đó mà
có "danh để đặt ra đạo nghĩa, đạo nghĩa để đặt ra lễ". Đó là nguồn gốc của
cái gọi là dùng "Lễ để cai trị".
Theo Khổng Tử, lễ có bốn nghĩa chính. Trớc hết là một điều luật không
viết trên giấy trắng mực đen, nhng có thể dùng để kiểm soát hoạt động của
con ngời. Vua chúa quần thần, quan dân đều phải duy trì lễ. Nhờ lễ mà quan
lại trung hiếu, nhờ lễ mà dân chúng yêu nớc... Tinh thần lễ nghĩa này đã làm
nền tảng cho văn hoá Trung Hoa và các nớc phơng Đông, là trụ cột của gia
đình, của cách ứng xử trong cuộc sống.
Thứ hai là sự kiện xã hội hoá. Ông cho rằng kiềm chế ngủ quan, hành
động của con ngời theo lễ là bớc đầu của nhiệm vụ khó khăn nhất: Phát triển
tình thơng yêu giữa ngời và ngời.
Thứ ba là sự kiện dung hoà trong văn chơng và nghệ thuật. Dù một bức
tranh hoạ của Picasso, hay một bản nhạc của Beethoven, màu sắc và âm

thanh phải không đi quá phạm vi của mình để tạo nên những tác phẩm tuyệt
diệu.
Không có lễ, "nhã nhặn trở thành ngạo nghễ, dè dặt trở thành thụ động,
can đảm trở thành liều lĩnh và chính trực trở thành hung bạo".
Trong khi lễ là sự kiện cấu thành phẩm chất, nhân cách, nhạc, theo
Khổng Tử hoàn thành quá trình tạo lập giá trị nhân đạo. Vì vậy trong Nho

bớc đầu tìm hiểu quá trình hình thành và xác lập ý thức hệ
phong kiến trung quốc
Trang:

25


×