Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HÓA HỌC
---------0O0---------

NGƠ THANH AN

TÍN NGƯỠNG NỮ THẦN TRONG
VĂN HĨA NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HÓA HỌC
MÃ SỐ: 60.31.70

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS TRẦN HỒNG LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh - 2012


Lời cảm ơn
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy/cơ của Khoa Văn hóa học
– Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã tận tụy giảng dạy cho lớp cao
học chuyên ngành Văn hóa học K9 (2008-2011) của chúng tơi. Chính tri
thức và lịng nhiệt huyết của q thầy/cơ đã giúp chúng tơi có thêm động
lực để hồn thành luận văn của mình.
Đặc biệt, chúng tơi xin bày tỏ lòng biết ơn đến cán bộ hướng dẫn
khoa học PGS.TS Trần Hồng Liên đã hết lòng động viên, giúp đỡ, chỉ bảo
rất tận tình trong suốt quá trình chúng tôi thực hiện luận văn này.
Chúng tôi cũng xin dành lời cảm ơn tới các thầy/cô, các chuyên viên
của Phòng Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,


các thầy cô thỉnh giảng và bạn bè đồng nghiệp đã ít nhiều giúp đỡ chúng
tơi trong nhiều công tác khác nhau. Chúng tôi cũng xin cảm ơn những ý
kiến đóng góp quý báu của các anh chị và các bạn cùng học, để từ đó giúp
cho chúng tơi có định hướng tốt hơn trong nghiên cứu.
Do khả năng còn hạn chế, lần đầu tiên thực hiện cơng việc nghiên
cứu khoa học, ít kinh nghiệm, vì vậy luận văn này chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót. Kính mong sự chia sẻ, phê bình của q thầy/cơ, các
anh chị và các bạn .
Xin chân thành cảm ơn.
Tp.HCM 2012
Học viên
Ngô Thanh An

2


MỤC LỤC
DẪN NHẬP ................................................................................................................5
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................5
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................6
3. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 11
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn........................................................................... 12
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu....................................................... 12
7. Bố cục luận văn ................................................................................................ 13
Chương 1: Những vấn đề chung ........................................................................... 14
1.1. Khái niệm về nữ thần và tín ngưỡng nữ thần ........................................... 14
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng ............................................................................. 14
1.1.2. Khái niệm nữ thần ................................................................................... 18
1.2. Nữ thần trong văn hóa thế giới và Việt Nam ............................................ 21

1.2.1. Tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa thế giới ............................................ 21
1.2.2. Tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa Việt Nam ......................................... 24
1.3. Tín ngưỡng nữ thần Nam Bộ trong hệ tọa độ văn hóa ............................ 26
1.3.1. Khơng gian văn hóa ................................................................................ 26
1.3.2. Chủ thể văn hóa....................................................................................... 29
1.3.3. Thời gian văn hóa.................................................................................... 32
Tiểu kết chương I ............................................................................................. 36
Chương 2: Tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ nhìn từ văn hóa nhận thức và
văn hóa ứng xử........................................................................................................ 38
2.1. Tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ nhìn từ văn hóa nhận thức ......................... 38
2.1.1. Nữ thần trong truyền thuyết .................................................................... 38
2.1.2. Nữ thần trong tâm thức dân gian ............................................................ 48
2.2. Tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ nhìn từ văn hóa ứng xử............................... 53
2.2.1. Trong mối quan hệ với mơi trường tự nhiên ........................................... 53
3


2.2.2. Trong q trình giao lưu tiếp biến văn hóa ............................................. 56
Tiểu kết chương II ............................................................................................... 60
Chương 3: Tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ nhìn từ văn hóa tổ chức................. 62
3.1. Lễ hội và các hoạt động trong lễ hội .......................................................... 62
3.1.1. Nghi lễ ..................................................................................................... 62
3.1.2. Bóng rỗi, địa nàng ................................................................................... 66
3.2. Nghệ thuật kiến trúc và tạo hình ................................................................. 74
3.2.1. Cơ sở thờ tự ............................................................................................. 74
3.2.2. Tượng thờ, tranh thờ ............................................................................... 80
Tiểu kết chương III ............................................................................................. 83
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 84
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 88
PHỤ LỤC ................................................................................................................ 95

Phụ lục 1: Một số sắc phong của triều đình nhà Nguyễn ................................. 95
Phụ lục 2: Một số bài văn tế nữ thần ở Nam Bộ ................................................ 98
Phụ lục 3: Danh mục một số đình miếu và lễ hội ở Nam Bộ .......................... 101
Phụ lục 4: Ý nghĩa các hoa văn trang trí trong đền miếu ............................... 112
Phụ lục 5: Một số hình ảnh tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ ........................... 117

4


DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Tín ngưỡng dân gian là hình thức tín ngưỡng mang đậm bản sắc
dân tộc. Với đặc điểm văn hóa nơng nghiệp lúa nước, tín ngưỡng nữ thần
là loại hình tín ngưỡng dân gian chiếm ưu thế ở Nam Bộ nói riêng và Việt
Nam nói chung. Chúng tơi chọn nghiên cứu tín ngưỡng nữ thần trong văn
hóa dân gian của người Việt Nam Bộ vì:
Tục thờ nữ thần là hình thức tín ngưỡng mang tính dân gian, ra đời
và phát triển ở Việt Nam. Tín ngưỡng nữ thần ở Việt Nam rất phổ biến và
có lịch sử lâu đời. Bắt nguồn từ nhận thức của con người về sự biết ơn
người Mẹ, yếu tố Mẹ - nữ - âm tính ln chi phối mọi hoạt động của đời
sống con người.
Tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa người Việt ở Nam Bộ khơng chỉ
thể hiện đặc trưng văn hóa vùng, tín ngưỡng của dân tộc mà cịn cho thấy
sự pha trộn, giao thoa tơn giáo, tín ngưỡng phức tạp nhưng vô cùng độc
đáo, lý thú tại vùng đất mới này.
Trong luận văn này, chúng tôi dự định nghiên cứu các nữ thần tiêu
biểu ở Nam Bộ để vừa có cái nhìn chung nhất về một loại hình tín ngưỡng
phổ biến của cả nước, được tiếp cận dưới góc độ văn hóa học, giao lưu,
tiếp biến văn hóa tại vùng đất mới.


5


2. Mục đích nghiên cứu
Nêu bật được những đặc điểm văn hóa trong tín ngưỡng nữ thần
của người Việt ở Nam Bộ, từ sự khác biệt về vùng văn hóa của Nam Bộ
so với Bắc và Trung Bộ.
Chỉ ra những giá trị tinh thần truyền thống của tục thờ nữ thần
trong đời sống của cư dân người Việt Nam Bộ, nhằm bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa của dân tộc.
3. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình tìm hiểu về tín ngưỡng nữ thần Nam Bộ, chúng tơi
nhận thấy rằng đây là một đề tài có khối lượng tài liệu rất phong phú và
đa dạng của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian tiêu biểu như Ngơ Đức
Thịnh, Vũ Ngọc Khánh, Đinh Gia Khánh, Trần Quốc Vượng, Văn Đình
Hy, Trần Lâm Biền, Đặng Văn Lung, Nguyễn Minh San, Nguyễn Đức
Tồn, Nguyễn Đăng Duy ... . Ngồi ra, cịn có các nhà nghiên cứu người
nước ngồi cũng tham gia viết các cơng trình về một tín ngưỡng phổ biến
ở Việt Nam.
Tín ngưỡng Nữ thần ở Nam Bộ có lẽ được đề cập đến đầu tiên
trong sách Gia Định Thành thơng chí 1 thuộc triều đại nhà Nguyễn (18021945). Đến thời Pháp thuộc, trong các cơng trình địa chí Nam Bộ cũng có
đề cập đến tín ngưỡng Bà chúa Xứ. Từ cuối thế kỷ XX cho đến nay, hiện
tượng thờ Nữ thần ở Nam Bộ cũng được rất nhiều nhà nghiên cứu quan

1

Trịnh Hoài Đức (thế kỷ XIX), (Lý Việt Dũng dịch, chú giải, Huỳnh Văn Tới hiệu đính, giới thiệu)

2006: Gia Định thành thơng chí, Tái bản lần thứ 1 - NXB Đồng Nai.


6


tâm. Trong q trình nghiên cứu hồn thành luận văn, chúng tôi đã được
tiếp cận với những tài liệu sau:
Cuốn Các nữ thần Việt Nam của các tác giả Đỗ Thị Hảo và Mai Thị
Ngọc Chúc được xuất bản năm 1984. Đây là một tài liệu liệt kê và ghi
chép 75 thần tích về các nữ thần của Việt Nam. Trong đó có các sự tích
viết về các nữ thần được thờ cúng ở Nam Bộ như Linh Sơn Thánh Mẫu,
Bà chúa Xứ, Thiên Y Ana. Đây có lẽ là cơng trình sưu tập đầu tiên về các
thần tích có liên quan đến các vị nữ thần. Đến năm 1996, cuốn Những Nữ
thần danh tiếng trong Văn hóa Việt Nam của tác giả Nguyễn Minh San đã
viết về 17 nữ thần danh tiếng ở Việt Nam trong đó có những nữ thần ở
Nam Bộ như Bà chúa Xứ, Bà Đen vv… Một cuốn sách khác cũng có nội
dung viết về sự tích của các Thánh ở Việt Nam trong đó có các nữ thần
hay cịn gọi là Thánh Mẫu. Đó là cuốn Đạo Thánh ở Việt Nam của nhà
nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh xuất bản năm 2001. Ở phần viết về Thánh
Mẫu, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã liệt kê các thánh Mẫu ở Nam Bộ bao
gồm Linh Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Thiên Yana. Đến năm
2002, các tác giả Vũ Ngọc Khánh, Phạm Hồng Hà, Mai Ngọc Chúc tiếp
tục cho xuất bản cuốn Nữ thần và Thánh Mẫu. Cơng trình này bao gồm
các sự tích về các nữ thần, được chia thành bốn phần. Phần thứ nhất viết
về các nữ thần có trong thần thoại Việt Nam như Thần Mặt trời, Mặt
trăng, Mẹ Âu Cơ, bà Nữ Oa,… Phần thứ hai gồm các nữ thần thuộc các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam như Bà Slao Cải của dân tộc Tày, Bà Dạ Dần
– dân tộc Mường,... Phần thứ tư viết về các Thánh Mẫu bao gồm Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Thiêu Y
Ana Thánh Mẫu,… Phần cuối cùng là phần bao gồm các chư thần như
các bà chúa, công chúa, phu nhân….


7


Năm 2001, tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn Các hình thái tín
ngưỡng, tơn giáo Việt Nam (NXB Văn hóa thông tin) đã liệt kê sự đa
dạng của các nữ thần ở Nam Bộ như Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Ngũ
hành nương nương, Bà Thủy, Bà Hỏa, Mẹ Thai sinh, bà Thiên Hậu, Mẫu
Liễu Hạnh, Bà chúa Xứ, Bà Đen, Linh Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim
Mẫu.
Nói đến tín ngưỡng nữ thần thì khơng thể khơng nhắc đến nhà
nghiên cứu Ngơ Đức Thịnh cùng các cơng trình của ơng. Năm 1996, cuốn
Đạo Mẫu ở Việt Nam được ông xuất bản. Có thể nói đây là cơng trình
nghiên cứu đầu tiên được đầu tư một cách nghiêm túc, khoa học về đạo
Mẫu ở nước ta. Cơng trình này lần lượt được tái bản vào các các năm
2001, 2007 và 2009. Các lần tái bản đều có sự chỉnh sửa phù hợp với thực
tế. Nội dung của cơng trình là sự mơ tả chi tiết về nguồn gốc, sự hình
thành và phát triển cùng với những đặc điểm của đạo Mẫu ở Việt Nam.
Trong đó, tác giả Ngơ Đức Thịnh cho rằng tín ngưỡng nữ thần ở Việt
Nam bao gồm ba cấp độ từ tín ngưỡng nữ thần đến mẫu thần và cao nhất
là mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Trong cuốn tái bản gần đây nhất, năm 2009,
ông đã giành phần thứ tư trong năm phần của cơng trình để viết về tín
ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ. Trong đó, tác giả đã phân tích những giá trị
văn hóa của ba Thánh Mẫu tiêu biểu ở Nam Bộ như Chúa xứ Thánh Mẫu,
Linh Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu. Ngồi cơng trình chủ yếu
trên, tác giả Ngơ Đức Thịnh cịn biên soạn các cơng trình khác có liên
quan đến tín ngưỡng nữ thần như Lên đồng hành trình của thần linh và
thân phận xuất bản năm 2010, Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong
các tộc người ở Việt Nam và châu Á xuất bản năm 2004. Trong đó cuốn
thứ hai là tập hợp các bài tham luận của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đã tham gia hội thảo quốc tế với đề tài Tín ngưỡng thờ Mẫu

8


và lễ hội Phủ Dầy được tổ chức ở Hà Nội năm 2001. Nội dung của hai
cuốn sách này viết về nghi lễ lên đồng, một nghi lễ không thể thiếu trong
đạo Mẫu nói riêng hay tín ngưỡng nữ thần nói chung.
Ngồi các cơng trình được xuất bản thành sách, Ngơ Đức Thịnh
cịn viết rất nhiều các bài báo, tham luận có liên quan đến tín ngưỡng nữ
thần. Trong đó có thể kể đến Hát văn và nghi thức hầu bóng là hiện
tượng văn hóa dân gian tổng thể in trong Tạp chí Văn hóa dân gian số 3
và 4; Tục thờ Mẫu Liễu Hạnh – Một sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa cộng
đồng in trong Tạp chí Văn học số 5 năm 1992; Đạo Mẫu – từ nhận thức
tới thực tiễn- in trong Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 01 năm 1999; Nhận
thức về Đạo Mẫu và một số hình thức Shaman của các dân tộc nước ta, in
trong Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4, năm 2001.
Phần lớn các cơng trình trên đều nghiên cứu sâu về tín ngưỡng nữ
thần, mẫu thần ở Bắc Bộ. Tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ cũng được đề
cập đến nhưng ít được đầu tư nghiên cứu.
Liên quan đến đề tài nghi lễ, lễ hội, một phần không thể thiếu trong
tín ngưỡng nữ thần, năm 1995, NXB. Khoa học Xã hội đã in cuốn 60 lễ
hội truyền thống của Việt Nam của Thạch Phương, Lê Trung Vũ. Cuốn
sách này đã trình bày khá chi tiết về các lễ hội từ xưa đến nay trong văn
hóa dân gian Việt Nam. Trong đó có các lễ hội liên quan đến tín ngưỡng
thờ Nữ thần, Mẫu thần như lễ hội đền Hai Bà Trưng, lễ hội Bà chúa xứ, lễ
hội Linh Sơn Thánh Mẫu, vv…. Cũng với đề tài lễ hội, tác giả Huỳnh
Quốc Thắng cho ra đời cuốn Lễ hội dân gian Nam Bộ xuất bản năm 2003.
Trong đó, tác giả đã miêu tả lễ hội Nữ thần và Mẫu thần như là một trong
ba lễ hội chính của Nam Bộ.

9



Ngồi các cơng trình nghiên cứu đã được in thành sách, tín ngưỡng
nữ thần ở Nam Bộ cũng được đề cập trong các bài viết, bài nghiên cứu
khoa học in trong các tạp chí nghiên cứu văn hóa chun ngành có liên
quan. Trong đó, có thể kể đến các bài viết của các tác giả như Nguyễn
Minh San 1992: Tín ngưỡng thờ bà chúa Xứ - Tạp chí Văn hóa nghệ
thuật, số 5, tr. 27; tác giả Nguyễn Phương Thảo 1991: Tín ngưỡng thờ
Mẫu của người Việt ở Nam Bộ - In trong Tạp chí Dân tộc học số 04, tr. 16
– 21; Tác giả Trần Hồng Liên: Giá trị tinh thần truyền thống trong tín
ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ (Nghiên cứu so sánh với Bắc và Trung bộ)
(Tham luận trình bày tại hội thảo Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống VN trong quá trình đổi mới và hội nhập. Chương trình
KX03/06-10 & Khoa Văn hóa học Trường ĐH.KHXH&NV tổ chức
ngày 17-19/9/2009 tại Đồng Nai). Đáng chú ý có bài viết bằng tiếng Việt
của nhà Nhân học người Úc, Philip Taylor đăng trên Tạp chí Dân tộc học
số 05, 2004 với tựa đề Mấy phương pháp luận nghiên cứu tín ngưỡng, tơn
giáo qua thực tiễn quan trắc hiện tượng hành hương miếu Bà chúa Xứ.
Bài viết đã đưa ra một số yếu tố tâm lý, xã hội của hiện tượng hành hương
miếu Bà chúa Xứ và qua đó đưa ra một số vấn đề về phương pháp luận
nghiên cứu tín ngưỡng tơn giáo.
Trong các tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ,
chúng tôi cũng được tiếp cận với Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Dân tộc
học của Trần Thị Thảo: Tín ngưỡng thờ Mẫu và Nữ thần Nam Bộ. Trong
luận văn này, tác giả đã trình bày khá chi tiết về nội dung của tín ngưỡng
nữ thần ở Nam Bộ qua các thần tích, nghi lễ, cơ sở thờ tự của các nữ thần,
mẫu thần tiêu biểu. Đó là các hình thức Tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ,
Bà chúa Xứ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Diêu Trì Kim Mẫu, tín ngưỡng Dinh
Cô. Đây là luận văn mang đầy đủ những đặc trưng của ngành Dân tộc học
10



với các phương pháp điền dã, phỏng vấn sâu. Những phương pháp này
giúp cho luận văn có tính thực tế cao. Đây cũng là tài liệu rất bổ ích giúp
chúng tơi tham khảo trong q trình viết luận văn của mình. Một luận văn
khác, cùng chun ngành Văn hóa học, có cùng đề tài nhưng phạm vi ở
một tỉnh của Nam Bộ. Đó là luận văn của Nguyễn Thị Lệ Hằng Tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Tiền Giang dưới góc nhìn văn hóa học.
Đây là tài liệu mơ tả khá chi tiết về tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang. Tài liệu này thực sự hữu ích cho chúng tơi trong q trình
hồn thành luận văn của mình. Ngồi ra cũng có các luận văn cùng
chun ngành Văn hóa học với hướng tiếp cận khác như Luận văn Lễ hội
Bà chúa Xứ trong hoạt động du lịch Văn hóa của Nguyễn Phước Hiền,
Văn hóa mẫu hệ Chăm của Nguyễn Thị Diễm Phương cũng là những tài
liệu tham khảo rất đáng được quan tâm.
Như vậy có thể thấy các cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng nữ
thần khá phong phú và đạt được những kết quả nghiên cứu rất đáng ghi
nhận giúp chúng tôi kế thừa và thực hiện đề tài luận văn một cách thuận
lợi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những thần tích về nữ thần, nghi thức thờ
cúng, những hoạt động trong lễ hội, lễ vật dâng lên nữ thần… hay nói
cách khác là những hoạt động của con người trong tín ngưỡng nữ thần.
Những hoạt động này bao gồm những gì họ nghĩ, những gì họ làm được
thể hiện trong nội dung của tín ngưỡng nữ thần. Các nữ thần được nghiên
cứu là những nữ thần được người Việt thờ cúng ở Nam Bộ bao gồm các
nữ thần có nguồn gốc bản địa của người Việt và các nữ thần của các dân

11



tộc khác được người Việt thờ cúng. Trong phạm vi luận văn này, chúng
tôi xin phép không đề cập đến các Nữ thần, Mẫu thần thuộc hệ thống Tam
Phủ, Tứ phủ, các Nữ thần, Mẫu thần thuộc tín ngưỡng Nữ thần Bắc Bộ
hay còn gọi là Đạo Mẫu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt khoa học, luận văn nghiên cứu, hệ thống, phân tích những
tư liệu, giải mã tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa tâm linh và các khía
cạnh văn hóa khác nhằm góp phần vào kho tàng nghiên cứu văn hóa vùng
Nam Bộ. Cơng trình sẽ được phát triển theo hướng tiếp cận văn hóa học
về các nữ thần Nam Bộ một cách có hệ thống.
Về thực tiễn, luận văn đề xuất hướng gìn giữ, phát huy các giá trị
tinh thần, văn hoá truyền thống tốt đẹp của việc thờ nữ thần ở Nam Bộ
trong bối cảnh hội nhập văn hóa hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Luận văn thuộc chuyên ngành Văn hóa học, nên hướng nghiên cứu
chủ yếu là dưới góc độ văn hóa học, bên cạnh đó chúng tơi cũng sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu như:
Phương pháp so sánh văn hóa: phân tích những nét tương đồng và
khác biệt giữa các tín ngưỡng nữ thần ở ba miền Bắc, Trung, Nam, làm
sáng tỏ những đặc trưng của tín ngưỡng nữ thần thuộc vùng văn hóa Nam
Bộ.
Phương pháp hệ thống – cấu trúc: nghiên cứu tín ngưỡng nữ thần ở
Nam Bộ theo tính hệ thống và dựa trên các cấu trúc của các thành tố văn
hóa cụ thể.

12


Phương pháp nghiên cứu lịch sử nghệ thuật: nghiên cứu sự phát

triển của việc thờ nữ thần ở Nam Bộ qua từng giai đoạn lịch sử. Phân tích
nguồn gốc hình thành, phát triển của tín ngưỡng nữ thần và sự ảnh hưởng
của dạng tín ngưỡng này trong các tơn giáo khác ở Nam Bộ.
Phương pháp điền dã, thực địa: nhằm thu thập tư liệu thực tế tại các
cơ sở tín ngưỡng, chụp ảnh, quan sát và phỏng vấn sâu các chức sắc nhằm
bổ sung nguồn tư liệu cho luận văn.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử dụng các thành tựu nghiên
cứu, phương pháp, tư liệu của các chuyên ngành Sử học, Xã hội học, Văn
học nghệ thuật, Phương pháp thống kê, Dân tộc học vv….để đa dạng hóa
và làm phong phú thêm nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
Nguồn tư liệu là những tư liệu thành văn đã được công bố thành
sách, các cuộc trao đổi phỏng vấn tại các cơ sở thờ tự và tư liệu được tải
trên các trang web đáng tin cậy.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề chung
Chương II: Tín ngưỡng nữ thần Nam Bộ nhìn từ văn hóa nhận thức
và ứng xử
Chương III: Tín ngưỡng nữ thần Nam Bộ nhìn từ văn hóa tổ chức

13


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm về nữ thần và tín ngưỡng nữ thần
1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng
Tín ngưỡng, xét về mặt từ nguyên, được giải thích như sau: Tín là
sự chân thành, ngưỡng là mong muốn được may mắn, ngưỡng vọng hay
thành kính ngưỡng mộ. Khái niệm tín ngưỡng cũng đang là vấn đề có

nhiều tranh cãi. Khi nói đến tín ngưỡng, người ta thường nói đến tơn giáo.
Tín ngưỡng đơi khi đồng nghĩa với tơn giáo. Trong chỉ thị của Bộ chính
trị về cơng tác tơn giáo ở nước ta, cụm từ tín ngưỡng được dùng là “tự do
tín ngưỡng”. Khi đó, tín ngưỡng được hiểu là ý thức về tơn giáo. Hoặc
trong Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VII năm 1991 đã xác định
“tín ngưỡng tơn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”
[Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, 1991:78]. Trong từ điển tiếng Việt,
định nghĩa tín ngưỡng là: “lịng tin và sự tơn thờ của một tơn giáo”
[Nguyễn Như Ý (cb) 2004:1646]. Trong cơng trình nghiên cứu của mình,
Đào Duy Anh cũng đưa ra một định nghĩa tương tự: “tín ngưỡng là lịng
ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [Đào Duy
Anh 1957: 283]. Ở phương Tây, một số nhà nghiên cứu cũng thường
dùng khái niệm tôn giáo hàm chứa cả tơn giáo có hệ thống và tổ chức, tơn
giáo dân gian và tơn giáo ngun thủy. Theo đó, tín ngưỡng là bộ phận
quan trọng của tôn giáo, nằm trong khái niệm tơn giáo, là cơ sở hình
thành tơn giáo.
E.B.Tylor dùng thuyết tiến hóa (evolutionism) để giải thích “vật
linh giáo là tiền đề, nguồn gốc ra đời của tín ngưỡng và tơn giáo”. Ơng
cho rằng: “cần đặc biệt chú ý là những tín ngưỡng và tập quán khác nhau
14


đều có những nền tảng vững chắc trong thuyết vật linh nguyên thủy, như
thể chúng đã thực sự mọc lên từ đó. Trong thuyết vật linh phức tạp, chúng
trở thành sản phẩm của sự ngu dốt hơn là của nhà triết học và tồn tại như
những tàn tích của cái cũ hơn là những sản phẩm của đời sau, khi chuyển
từ sức sống đầy đủ sang trạng thái tàn tích” [E.B Tylor 2001: 939].
Trong Cành vàng, G.J Frazer cho rằng: “tơn giáo là việc cầu phúc
hay là việc hịa giải những thế lực cao cấp hơn con người, những thế lực
này, như người ta nghĩ, chỉ huy và điều hành dịng chảy của tự nhiên và

đời sống con người. Tơn giáo được định nghĩa như vậy bao gồm hai
thành tố, một mang tính lý thuyết và một mang tính thực hành; biết rằng
đó là một tín điều vào những thế lực cao cấp hơn con người và một cố
gắng để làm cho những thế lực đó trở thành thế lực bảo hộ hay để làm
vừa lòng những thế lực ấy. Rõ ràng là tín ngưỡng đến đầu tiên, bởi lẽ
chúng ta buộc phải tin vào sự tồn tại của thần thánh trước khi cố gắng
làm vừa lòng những thế lực ấy. Nhưng, nếu như tín ngưỡng khơng dẫn
đến việc thực hành tương ứng với nó thì đó khơng cịn là một tôn giáo mà
chỉ đơn giản là thần học” [G.J Frazer 2007:94].
Theo hướng chức năng luận, nhà nghiên cứu Malinowwski lại cho
rằng, tín ngưỡng ra đời khi mà cuộc sống con người có nhiều sự trở ngại
và bất trắc. Tín ngưỡng có chức năng giúp cho con người có niềm tin
vượt qua khó khăn, gian khổ.
Theo trường phái khác, một số nhà nghiên cứu lại cho rằng tín
ngưỡng và tơn giáo là hai khái niệm hồn tồn khác biệt. Ngơ Đức Thịnh
đưa ra quan điểm về tín ngưỡng như sau: “tín ngưỡng được hiểu là niềm
tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên hay nói
gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái trần

15


tục, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin,
nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng, là niềm tin vào “cái thiêng”. Do
vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, cũng như
giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình
cảm…” [Ngơ Đức Thịnh 2001:16]. Sự khác nhau giữa tín ngưỡng và tơn
giáo có thể thể hiện trong bảng so sánh sau:
Tín ngưỡng


Tơn giáo

- Chưa có hệ thống giáo lý nhưng - Xây dựng được hệ thống giáo lý,
đã xây dựng được các huyền kinh điển thể hiện quan niệm vũ
thoại, thần tích và truyền thuyết.
trụ và nhân sinh, truyền thụ qua
học tập ở các tu viện và thánh
đường.
- Chưa thành hệ thống thần điện, - Hệ thống thần điện được hình
cịn mang tính chất đa thần, tản thành dưới dạng đa thần hay
mạn.
nhất thần giáo.
- Hòa nhập nhất định giữa thế giới - Tách biệt thế giới thần linh và
thần linh và con người. Chưa con người, xuất hiện hình thức
mang tính “cứu thế”.
“cứu thế”.
- Gắn với cá nhân và cộng đồng - Có tổ chức giáo hội, hội đồn
làng xã, chưa thành giáo hội.
khá chặt chẽ, hình thành hệ
thống giáo chức.
- Nơi thờ cúng và nghi lễ còn - Nơi thờ cúng riêng, nghi lễ thờ
phân tán và chưa thành quy ước cúng chặt chẽ (chùa, nhà thờ,
chặt chẽ.
thánh đường).
- Mang tính dân gian, sinh hoạt - Khơng mang tính dân gian, có
của dân gian, gắn với đời sống chăng chỉ là sự biến dạng theo
nông dân.
kiểu dân gian hóa, như Phật giáo
dân gian …
[Ngơ Đức Thịnh 2007: 15]


16


Trần Ngọc Thêm xếp tín ngưỡng vào văn hóa tổ chức đời sống cá
nhân. Ông cho rằng: “tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong
văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được
tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác
(phong tục). Khi đời sống và trình độ hiểu biết cịn thấp, họ tin tưởng và
ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tưởng ra (tín ngưỡng). Tín
ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng.
Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy chuẩn hóa thành giáo lý, có
giáo chủ, thánh đường, từ đó tín ngưỡng trở thành tôn giáo. Ở xã hội Việt
Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển được thành tơn
giáo theo đúng nghĩa của nó – mới có những mầm mống của những tơn
giáo như thế - đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới
như Phật, Đạo, Kito giáo.. đã được du nhập và đến thời điểm giao lưu với
phương Tây, các tôn giáo dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất
hiện” [Trần Ngọc Thêm 1997: 262].
Nguyễn Thị Lệ Hằng lại nhận định như sau: “Tín ngưỡng là sự
ngưỡng mộ, thành kính của một tập thể hoặc cá nhân đối với đối tượng
đã được thiêng hóa” [Nguyễn Thị Lệ Hằng 2011: 20]. Đây là một khái
niệm tương đối đơn giản, dễ hiểu.
Như vậy, chúng tơi nhận thấy rằng, có rất nhiều cách hiểu về khái
niệm tín ngưỡng. Trong đó, khái niệm của tác giả Nguyễn Thị Lệ Hằng
đưa ra là khái niệm gần gũi nhất đối với cách mà dân gian hiểu về tín
ngưỡng.

17



1.1.2. Khái niệm nữ thần
Có lẽ trước khi tìm hiểu về khái niệm nữ thần, chúng ta cần làm rõ
khái niệm thần. Như thế nào thì được gọi là thần. Thực tế, khái niệm thần
được sử dụng rất nhiều trong tơn giáo, tín ngưỡng.
“Thần là nhân vật siêu nhiên được tôn thờ, ngưỡng mộ hay sợ hãi,
được quan niệm là có trình độ thơng minh xuất chúng, có quyền uy phép
lạ, ở trong cõi vơ hình mà biết rõ những việc diễn ra trong đời sống con
người” [Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo 2005: 205]. Tín ngưỡng dân
gian cổ truyền quan niệm thần có ở mọi nơi, mọi vật. Có thần ở từng cây
cỏ, bìa rừng, bến nước, thần ở các lồi vật, thậm chí ngay từ một bộ phận
cơ thể trong con người cũng có một vị thần chủ trì cai quản, đó là tín
ngưỡng đa thần. Người Việt Nam cho rằng có nhiều loại thần. Thần Đực
và thần Cái hay Âm thần và Dương thần. Những vị thần thiên nhiên hoặc
thần trên cõi trời giáng xuống đều được gọi là thiên thần. Các hiện tượng
tự nhiên được thần thánh hóa gọi là nhiên thần. Những con người ưu tú có
cơng lao hoặc thành tích kỳ diệu, khi chết đi sẽ hóa thành thần hoặc được
phong thần… đều được gọi là nhân thần. Những ác thần chủ trì cái xấu
làm hại người đời gọi là tà thần hoặc hung thần. Những vị thần có cơng
đức ban phúc lợi cho người trần gọi là phúc thần.
Thần cũng có khi là người đã khuất hay cụ thể hơn là các vị anh
hùng, những người chết trẻ … Đơi khi thần cịn được hiểu là thánh. Ví dụ
như Thánh Gióng, Đức Thánh Trần, Thánh Mẫu …
Như vậy, chúng ta nhận thấy khái niệm thần khá rộng. Song song
đó là khái niệm nữ thần cũng bao quát hết cả âm dương, nhiên thần và
nhân thần. Cũng chính vì vậy mà chưa có tài tiệu nào thống kê đủ số
lượng các nữ thần ở Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng.

18



Vấn đề nữ thần và Mẫu thần
Nghiên cứu vấn đề nữ thần thì khơng thể khơng đề cập đến khái
niệm Mẫu. Mẫu thần là bước phát triển cao hơn của nữ thần. Mẫu thần
trước hết là nữ thần, tuy nhiên không phải nữ thần nào cũng được phong
là Mẫu. Phần lớn những nữ thần có liên quan đến các yếu tố Trời, Đất,
Nước, Rừng thường được phong là Mẫu. Do đặc điểm nền kinh tế của
Việt Nam trước kia là nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, những yếu tố
trên có ảnh hưởng đến q trình sản xuất cây lúa. Tác giả Ngô Đức Thịnh
đã phân chia mối quan hệ trong tín ngưỡng nữ thần thành ba lớp kế tiếp
bao gồm nữ thần, Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, trong đó Mẫu Tam
phủ, Tứ phủ là bước phát triển cao nhất của tín ngưỡng nữ thần hay cịn
được gọi là Đạo Mẫu. Trong cuốn Đạo Mẫu Việt Nam, sự phân chia đó
được thể hiện bằng sơ đồ sau:

Mẫu
Tam
phủ
Tứ phủ

Mẫu thần

Nữ thần

[Ngô Đức Thịnh 2009: 34]
19


Nếu như ở Bắc Bộ, tục thờ nữ thần và mẫu thần có sự phân biệt rõ
ràng thì ở Nam Bộ, sự phân biệt này có phần mờ nhạt hơn. Chỉ có một số

ít nữ thần ở Nam Bộ được tơn xưng là Mẫu. Trong đó có thể kể đến Linh
Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu và Chúa Xứ Thánh Mẫu (Bà
chúa Xứ) ... Những nữ thần ở Nam Bộ được tơn xưng là Thánh Mẫu là do
vị trí được tôn vinh trong tâm thức dân gian cũng như hệ thống nghi lễ
hằng năm nhân dân dành cho họ. Viết về vấn đề này, nhà nghiên cứu Ngô
Đức Thịnh nhận định “nếu như ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có
sự phân biệt nhất định, mà biểu hiện rõ rệt nhất là thông qua tên gọi và
xuất thân của các vị thần thì ở Nam Bộ chúng tơi có cảm giác sự phân
biệt giữa hai lớp Nữ thần và Mẫu thần ít rõ ràng hơn. Thí dụ, nếu như ở
Nam Bộ, Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Ngọc (Thiên Yana), Linh Sơn Thánh Mẫu
– Bà Đen được coi như là những Mẫu Thần và được tôn xưng là Thánh
Mẫu, thì Bà Ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) trong đó đặc biệt là
Bà Thủy Long, Bà Hỏa thì là Nữ thần hay Mẫu Thần? Hay trường hợp
thờ cúng Bảy Bà (Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Ngọc, Chúa Xứ, Cửu Thiên
Huyền Nữ, Thiên Hậu, Bà Thủy, Bà Hồng, Bà Nữ Oa) thì lại vừa có Mẫu
Thần vừa có Nữ thần [Ngơ Đức Thịnh 2009: 47]. Ơng đưa ra lý giải về
vấn đề này như sau: “tình trạng khó phân lớp giữa Nữ thần và Mẫu thần
này ở Nam Bộ so với Bắc Bộ là hồn tồn có thể giải thích được vì Nam
Bộ là vùng đất mới của người Việt, khi di cư vào đây, họ vừa mang các
truyền thống tín ngưỡng cũ lại vừa tiếp nhận những giao lưu ảnh hưởng
của cư dân sinh sống từ trước, tạo nên bức tranh khơng chỉ đa dạng văn
hóa nói chung mà cịn cả tín ngưỡng nữa” [Ngơ Đức Thịnh 2009: 47].
Cũng trong cơng trình nghiên cứu Đạo Mẫu của mình, Ngơ Đức Thịnh đã
xác định trong hệ thống nữ thần ở Nam Bộ, chỉ có ba nữ thần được xưng
danh là Mẫu, đó là Bà chúa Xứ, Linh Sơn Thánh Mẫu và Thiên Hậu

20


Thánh Mẫu. Trong đó, Thiên Hậu Thánh Mẫu là nữ thần thuộc tín

ngưỡng của Trung Hoa du nhập vào Việt Nam. Bàn về vấn đề này, Vũ
Ngọc Khánh lại cho rằng Bà chúa Xứ chưa đủ các điều kiện để được gọi
là Mẫu.2 Các cơng trình nghiên cứu của ơng, phần viết về các thánh Mẫu
đều không đề cập đến Bà chúa xứ. Như vậy, có thể thấy rằng các nhà
nghiên cứu chưa thống nhất quan điểm về việc phân chia giữa nữ thần và
Mẫu thần ở Nam Bộ. Chính vì vậy, trong khn khổ luận văn này, chúng
tơi xin phép được dùng từ nữ thần như một khái niệm tổng quát để chỉ các
vị thần là nữ ở Nam Bộ, trong đó bao gồm cả Mẫu thần.
1.2. Nữ thần trong văn hóa thế giới và Việt Nam
1.2.1. Tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa thế giới
Trong văn hóa Ấn Độ
Hình tượng nữ thần trong văn hóa Ấn Độ xuất hiện từ rất sớm vào
khoảng thiên niên kỷ thứ III trước Công nguyên. Những bộ sưu tập tượng
cổ trong các viện bảo tàng ở Ấn Độ cho thấy vô số hình tượng nữ thần
mang chủ đề liên quan đến khả năng sinh sản và phồn thực. Đặc biệt là
tượng Yaksi (nữ Dạ Xoa), một dạng tín ngưỡng về nữ thần cai quản đất
đai, cây cối thường được sùng bái phổ biến ở Ấn Độ cổ xưa mà ngày nay
vẫn còn hiện diện trong một số tôn giáo lớn ở đất nước này.
Khi Hindu giáo được sáng lập, người Ấn Độ tập trung niềm tin vào
ba hệ phái chính là Vishnu, Shiva và Sakti giáo dựa trên việc tôn sùng các
vị thần linh như: Vishnu (thần Bảo tồn), Shiva (thần Hủy diệt) và các Đại
nữ thần. Từ thời kỳ Gupta, nữ thần bắt đầu có vai trị quan trọng hơn các
nam thần trong thần điện Hindu giáo. Quan hệ giữa nam thần và nữ thần
thường được mô tả là quan hệ gia đình hay vợ chồng. Truyền thuyết cho
2

Vũ Ngọc Khánh 2001: Đạo Thánh ở Việt Nam – NXB Văn hóa Thông tin.

21



rằng các nữ thần được sinh ra từ năng lực âm tính của các nam thần
(Sakti), để trở thành vợ và là người gìn giữ năng lực cho các nam thần. Ví
dụ như: nữ thần Sri Laskhmi là vợ nhưng cũng là người bảo tồn năng lực
của thần Vishnu. Cũng tương tự như vậy, thần Shiva sẽ mất hết năng lực
nếu khơng có Patvati hay Uma giữ gìn cho ngài. Hay Saravasti, nữ thần
nghệ thuật với đôi tay cầm cây đàn Vina được xem là vợ của thần Brahma
(thần Sáng tạo).
Trong hệ phái thờ nữ thần (Sakti giáo) của Hindu giáo, Sri Lakshmi
được xem là vị đại nữ thần cai quản của cải và sự thịnh vượng của thế
gian. Bà cũng được thờ cúng phổ biến trong cả Phật giáo và Zena giáo
(Kỳ Na giáo) với pho tượng thể hiện ngồi trên tịa sen có tay cầm một nụ
sen. Bên cạnh đó, Durga hay Mahisa Sumaradini, vị đại nữ thần đánh bại
con quỷ trâu thể hiện cho sức mạnh hủy diệt và năng lực sáng tạo của
thần linh. Hệ phái thờ nữ thần xem bà là đại nữ thần có quyền năng cao
nhất trên thiên giới vì được sinh ra từ sự nhập thân của ba vị nam thần
chính, Brahma (thần Sáng tạo), Vishnu (thần Bảo tồn) và Shiva (thần Hủy
diệt). Ngồi ra trong hệ phái thờ nữ thần, tín đồ cịn tơn sùng các nữ thần
khác liên quan đến tự nhiên hay sử thi như nữ thần sông Hằng (Gangas)
và nữ thần sông Jamuna, nữ thần rắn Manasha, vũ nữ Apsara, tiên nữ
Kinaree và nàng Sita, vợ của hoàng tử Rama trong sử thi Ramayana.
Trong văn hóa Hy Lạp
Hy Lạp là đất nước có kho tàng thần thoại về nữ thần rất phong
phú. Các nữ thần đều có sự tích rất chi tiết, gắn bó chặt chẽ với nhau, và
với các nam thần trong dòng dõi huyết thống, vợ chồng, cha con, mẹ con,
chị em, bạn bè, liên quan chằng chịt qua nhiều thế hệ. Họ đảm nhận khá
nhiều lĩnh vực vật chất và tinh thần. Nữ thần Sơn Thủy là các bà Dryades
phụ trách sông biển. Nữ thần Calliope chủ trì thơ ca hùng biện, Huytere là

22



âm nhạc, cịn Terpsichora là múa. Có cả những nữ thần duyên dáng như
Aglac đảm nhiệm sự rạng rỡ, Buphrosyne tượng trưng cho sự dịu dàng,
Thalie là sự xinh tươi cho những cô gái ở trần gian. Những nữ thần ấy có
sự phân cơng rất cụ thể. Ví dụ như các nàng tiên (Les Parques) nắm số
mệnh con người thì trong đó, nàng Clothes xe sợi chỉ dài từ thiên cung
xuống hạ giới, nàng Lachesis theo dõi ngày sống ngày chết của người trần
và cuối cùng nàng Antropos cầm chiếc kéo trong tay sẵn sàng cắt đứt dây
để định đoạt ngày tận số của một người nào đó dưới trần gian.
Những nữ thần trong thần thoại Hy Lạp cũng có những tính cách rõ
rệt. Ví dụ như hàng Héra ghen tng, nóng nảy hay trả thù. Nàng Cirse
chun mơn lừa đảo cho người ăn uống rồi biến thành thú vật. Nàng
Keres chỉ tìm đến chiến trường thu nhặt xác người.

Nữ thần Hera
(Nguồn: />
23


1.2.2. Tín ngưỡng nữ thần trong văn hóa Việt Nam
Trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, q trình chống văn hóa ngoại
lai dai dẳng và quyết liệt truyền đời của dân tộc ta đã khiến mưu đồ Hán
hóa của Trung Quốc bị thất bại. Sự mềm dẻo linh hoạt của một nền văn
hóa thiên về tính nữ đã gây ảnh hưởng trở lại đối với kẻ đi chinh phục.
Chúng ta chịu sức ép của mưu đồ Hán hóa nhưng cái gien văn hóa Hán
gieo vào nước ta cũng bị Việt hóa. Ban đầu là nền văn hóa thuần tính nữ,
thì giờ đây là nền văn hóa mang tính trội của yếu tố nữ. Văn hóa phụ hệ
khơng phải là tiến trình phát triển tự nhiên của người Việt cổ nên khi
xâm nhập vào văn hóa Việt đã khơng ăn sâu, bén rễ vào tư tưởng của

người Việt, mặc dù nó chi phối đời sống chính trị xã hội và cả tư tưởng
người dân. Nói cách khác, đó chỉ là lớp nổi bề mặt.
Văn hóa nguyên thủy là nền văn hóa sơ khai, là sản phẩm của thời
kỳ kém phát triển nhất trong lịch sử nhân loại. Song so với thời kỳ đầu
của chế độ phụ hệ, nam giới đang ra sức khẳng định sức mạnh của mình,
đang cơng cụ hóa người phụ nữ bằng cách trần tục hóa, thậm chí ơ uế hóa
hình ảnh nữ giới và hạ bệ các nữ thần trên các điện thờ. Trong tâm thức
người Việt khi ấy vẫn hướng trọn về người Mẹ lớn linh thiêng của vũ trụ
và mn lồi, của giống nịi và xứ sở. Tâm thức ấy tồn tại xuyên suốt
chiều dài lịch sử dân tộc, trở thành yếu tố bản chất trong tâm linh dân tộc.
Đồng thời bước chuyển từ chế độ mẫu hệ sang phụ hệ vốn là bước chuyển
tất yếu của nhân loại, ban đầu là cưỡng bức ở dân tộc ta nhưng dần dần nó
được chuyển hóa theo hướng nhân văn nhất. Trên điện thờ, Nữ thần
không những không bị hạ bệ mà qua mỗi thời kỳ lại được bổ sung thêm
những gương mặt mới.
Như vậy có thể nói nguyên nhân khởi phát của tín ngưỡng nữ thần
là từ chế độ mẫu hệ. Với chiều dài hàng ngàn năm lịch sử hình thành và

24


phát triển, Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa tâm linh cực kỳ
phong phú và đa dạng. Bên cạnh những tôn giáo lớn được du nhập vào
Việt Nam với những giáo lý, tổ chức chặt chẽ mang tính hệ thống cao như
Phật giáo, Thiên chúa giáo,…. hay những tơn giáo được hình thành ở Việt
nam như Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Hịa Hảo… thì cịn tồn tại rất
nhiều những hình thức tín ngưỡng dân gian, mà sức sống và sự lan tỏa
của nó đã được rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu nhưng vẫn chưa thể lý
giải được.
Những dạng thức nữ thần trong tín ngưỡng nữ thần tồn tại ở Việt

Nam bao gồm các nữ thần cai quản tự nhiên, các nữ thần có nguồn gốc từ
con người. Chính bởi đặc điểm văn hóa nơng nghiệp lúa nước, người dân
Việt Nam sùng bái các hiện tượng tự nhiên như Trời, Đất, Nước. Đây là
những hiện tượng có ảnh hưởng đến q trình trồng trọt, sản xuất của con
người. “Trước hết, đó là Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước – ba nữ thần cai
quản ba hiện tượng tự nhiên quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc
sống của người làm nông nghiệp lúa nước” [Trần Ngọc Thêm 2004: 242].
Từ nhận thức như vậy, người Việt Nam đã hình thành một hệ thống nữ
thần gồm Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Nhạc, Bà Long, Bà
Thủy, Bà chúa Động, Cửu Thiên Huyền Nữ vv… Các hiện tượng tự nhiên
khác như không gian, thời gian cũng được người Việt thờ cúng. Đó là Bà
Ngũ hành nương nương trơng coi các ngả đường, phương hướng nên còn
gọi là “Ngũ phương chi thần”; Mười hai bà Mụ hay còn gọi là Thập nhị
Hành khiển trông coi 12 tháng trong năm, đồng thời có trách nhiệm coi
sóc sự sinh nở trên trần gian. Các nữ thần có nguồn gốc từ con người bao
gồm những người phụ nữ chết trẻ (Tổ Cô, cô Lê Thị Hồng Thủy, cô Lê
Thị Ngọc Tuyết,…); những người phụ nữ có cơng đánh giặc, dạy dân
nghề chăn nuôi, trồng trọt (Hai Bà Trưng, nguyên phi Ỷ Lan,…), những
25


×