TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU TRONG VĂN HÓA VIỆT NAM
1 . Bản chất của tín ngưỡng thờ thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam
a. Khái niệm:
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi
là các Thánh Mẫu).
Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản
sắc dân tộc của Việt Nam. Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các
nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ
thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Thờ cúng Nữ thần,
Mẫu thần chính là phương thức ứng xử của con người nhân cách hóa tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên. Từ nguồn cội con người tôn sùng các hiện tượng tự nhiên, và họ
đã sớm nhân cách hóa các hiện tượng tự nhiên ấy thành các vị thần mang tính nữ.
Tâm thức sùng bái tự nhiên được ẩn giấu dưới vỏ bọc của các hình thái tín ngưỡng,
làm cho thế lực tự nhiên trở thành siêu nhiên, được nhân cách hóa thành các hoạt
động siêu phàm, thể hiện sự ngưỡng vọng và ước muốn của con người trong đời
sống hàng ngày.
b. Nguồn gốc:
Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở.
Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh
thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ
thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các
nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với
vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng,
tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của
Thánh Mẫu. Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ
vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi
chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể
đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.
2.2 Nội dung cơ bản của tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa Việt Nam
Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng mang đậm chất bản địa và
nguyên thuỷ. Bởi vì tín ngưỡng thờ Mẫu có nguồn gốc sâu xa từ chế độ Mẫu hệ,
trong đó người mẹ, người vợ giữ vị trí quan trọng trong gia đình. Do vậy, trong
cuộc sống hàng ngày cũng như trong văn chương nghệ thuật thì chữ “Mẫu”, chữ
“Mẹ”, chữ “Cái” vẫn giữ nguyên giá trị như nó vốn có cho đến bây giờ. Cũng như
thế, ý nghĩa của chữ Mẫu - Mẹ trong các danh từ đền Mẫu, Thánh Mẫu trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó. Ra đời từ trong
cuộc sống đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt, với cường quyền đè nén, với
ngoại xâm tàn bạo, tín ngưỡng thờ Mẫu đã có một mối gắn bó rất tự nhiên với
người dân lao động, cho nên hình thức của ngôi đền thờ Mẫu vừa nhỏ nhắn về kích
thước, vừa giản dị chỉ tương đương với một ngôi nhà dân vào loại khá giả ở nông
thôn, đầu hồi có cửa và mái lợp ngói. Trong đền không để nhiều tượng mà người ta
để các khám bên trong có các tượng nhỏ. Khám thờ được chạm trổ như một ngôi
chùa nhỏ bằng gỗ.
Cách bày biện của đền, phủ cũng khác với cách bày biện của chùa. Nếu như
ở chùa người ta bố trí theo thứ tự sự tu hành của đạo Phật thì ở đền người ta bài trí
theo Tứ phủ, gồm có bốn cấp là Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Nhạc Mẫu và Mẫu Thoải. Ở
điện thờ Mẫu Thiên, người ta làm các cảnh sắc, mô hình thuộc về cõi trời. Mẫu Địa
thì đó là các cảnh núi non, bờ đất như ở đồng bằng rộng lớn. Nhạc Mẫu thì họ làm
các cảnh núi non, cây cỏ và các cô gái mặc áo chàm, còn ở điện thờ Mẫu Thoải thì
họ làm các mô hình bờ sông và các bè trôi nổi trên sông đó. Như vậy, cách bài trí
trong điện thờ Mẫu của Tứ Phủ, đền được mô tả theo tự nhiên của bốn hình thái cơ
bản của địa lý và thiên văn có mối quan hệ gắn bó mật thiết với cuộc sống con
người.
Cũng giống như các tin ngưỡng khác ở Việt Nam, đạo Mẫu cũng vẫn chịu
ảnh hưởng của đạo Phật cho nên trên cùng của điện thờ Mẫu có tượng phật để thờ
thêm. Cũng cần phải nhấn mạnh thêm sự ảnh hưởng sâu rộng của tín ngưỡng thờ
Mẫu - tín ngưỡng bản địa với các tín ngưỡng khác du nhập từ bên ngoài vào theo
con đường khởi nguyên từ dân gian như Phật giáo - một tín ngưỡng đã được nhân
dân lao động hồ hởi đón nhận ngay từ khi mới được truyền bá vào nước ta (khoảng
thế kỷ thứ VI) để thấy được vai trò của người phụ nữ trong xã hội, đặc biệt là trong
nền nghệ thuật của nước nhà. Trong quá trình tín ngưỡng thờ Phật du nhập vào
nước ta, các bộ phận quan trọng của tín ngưỡng này đã phát triển theo khuynh
hướng dân gian hóa giữa tín ngưỡng thờ Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu có sự thâm
nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau. Điều dễ nhận biết nhất là ở hầu hết các ngôi
chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng
“tiền Phật hậu Mẫu”. Người ta đi chùa vừa để lễ Phật, vừa để cúng Mẫu. Nhiều khi
điện Mẫu đã tạo nên không khí ấm cúng, gần gũi nhộn nhịp hơn cho các ngôi chùa
làng. Ở Bắc Giang, phần lớn các ngôi chùa đều có ban thờ Mẫu, tiêu biểu là khu
thắng cảnh Suối Mỡ, huyện Lục Nam trong đó có các di tích nổi tiếng như đền Hạ,
đền Trung, đền Thượng lại thờ Mẫu là chính, trong đền có những tượng Mẫu rất
đẹp cả về mỹ thuật và nghệ thuật tạo hình.
Không chỉ có con đường các điện Mẫu đi vào chùa, mà còn có con đường
ngược lại Phật đi vào đền, phủ thờ Mẫu. Trong điện thần cũng như cách thức phối
tự ở các ngôi đền, phủ ta đều thấy sự hiện diện của Phật, mà đại diện cao nhất là
Phật Bà Quan Âm cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh. Cũng cần phải nhấn mạnh
rằng: Quan Âm trong Phật giáo Ấn Độ vốn là một nam thần, nhưng khi vào nước
ta đã bị “nữ thần hóa”, thậm chí “Mẫu hóa” để trở thành Quan Âm Thánh Mẫu
trong tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam. Trong các ngày giỗ Mẫu, giỗ Mẹ đều có nghi
thức rước Mẫu lên chùa để đón Phật về đền, phủ cùng tham dự ngày hội. Trong hệ
thống các bài chầu văn thì có văn chầu nhị vị Bồ Tát… Điều đó chứng tỏ vai trò
của người phụ nữ được khẳng định từ xưa.
Sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu
theo khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ hiểu bởi lẽ, đó là tín ngưỡng dân dã của
người dân, cùng hướng về cái từ bi bác ái, tinh thần cộng đồng, khuyến thiện trừ ác
vốn là nền tảng trong nguyên tắc ứng xử của xã hội cổ truyền. Hai thứ tín ngưỡng
này bổ sung cho nhau đáp ứng nhu cầu tâm linh của người nông dân: Theo Phật để
tu nhân tích đức cho đời, kiếp sau được lên cõi Niết Bàn để cuộc sống tươi sáng
hơn, tự do hơn, còn theo đạo Mẫu là mong được sự phù hộ độ trì đem lại sức khỏe,
tài lộc, may mắn cho đời sống thường ngày.
Tính dân gian của tục thờ Thánh Mẫu ở nước ta thể hiện dưới nhiều dạng
khác nhau, trong đó tranh thờ Mẫu là một trong những dạng thức biểu hiện sinh
động về điều đó. Ở Việt Nam, tranh thờ Mẫu phong phú về đề tài và nghệ thuật tạo
hình. Tuy nhiên, điều dễ nhận biết nhất ở thể loại tranh này là tính nhân dân vừa
giản dị vừa gần gũi lại dễ hiểu. Trong bộ tranh Tam Phủ, Tứ Phủ của tín ngưỡng
thờ Mẫu, ngoài các vị Ngọc Hoàng Thượng Đế, các bà chúa là những người cai
quản giang sơn riêng được đặt ở trung tâm bức tranh chiếm tỷ lệ vượt trội thì ở
xung quanh và ở dưới còn thấy rất nhiều những “Cô”, những “Cậu” đứng hầu.
Những “Cô” và “Cậu” này có tỷ lệ nhỏ hơn. Đây hẳn có mối quan hệ giữa tín
ngưỡng thờ Mẫu với tục thờ gia tiên của người Việt từ ngàn xưa. Tranh thờ Bà
chúa Thượng Ngàn ở đồng bằng Bắc Bộ là một ví dụ điển hình. Như vậy có thể
thấy giá trị cơ bản nhất trong tranh tượng thờ Mẫu chính là ở sự dân gian hóa các
bức tranh thờ, tượng thờ ở mức độ khái quát nhất, tiêu biểu nhất để trở thành sức
mạnh tâm linh, sức mạnh tinh thần cho con người. Bởi thế bất kỳ ai khi đến với các
đền phủ thờ Mẫu, được chiêm bái trước tranh thờ, tượng thờ, các cảnh vật và
hương sắc trong đền, phủ đều thấy rất gần gũi, ấm áp, thanh bình.