Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Sự biến thiên của quan niệm luân thường đạo lý nho giáo trong văn hóa nam bộ (2013) nguyễn ngọc thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.77 MB, 14 trang )

s ự BIỀN THIÊN CỦA QUAN NIỆM LUÂN THƯỜNG
ĐẠO LÝ NHO GIÁO TRONG VĂN HÓA NAM B ộ
N guyễn N gọc Thơ*

1. Văn hóa Nam Bộ vói tư cách là một vùng văn hóa Viêt Nam
1.1.

Nam Bộ, bao gồm hai tiểu vùng Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ (tức đồng

bằng sông Cửu Long), là “vùng đất mới” non trẻ với lịch sử hình thành chỉ hơn 300
năm. là nơi “đất lành chim đậu", quê hương của nhiều tộc người Việt, Khơ Me, Hoa
(kể cả người Minh Hương) và Chăm Islam, là vùng sản xuất nông nghiệp trù phú và
là một trong số các vùng kinh tế phát triển nhất của Việt Nam hiện nay.
Bỏ qua giai đoạn văn hóa Óc Eo - Phù Nam cổ (? - thế kỷ VII sau CN), quá
trình di dân của các tộc người Khơ Me, Việt, Hoa, Chăm đến với vùng đất này diễn
ra liên tục từ nhiều thế kỷ, cụ thể phân làm hai giai đoạn lớn, gồm: 1) giai đoạn tiền
khai khấn (cuối thế kỷ XIII - XVI) với sự có mặt của người Khơ Me từ vùng đất
Angkor; 2) giai đoạn khai khẩn và phát triển (giữa thế kỷ XVII đến nay) với sự khai
phá của người Việt, sau đến là người Hoa và người Chăm. Trang sử bi tráng của
thời khai khẩn vùng đất này được nhiều tác eiả Nam Bộ như Sơn Nam, Đoàn Giỏi,
Nguyễn Liêm Phong, Vương Hồng sển, v.v... ghi lại qua các tác phẩm nổi tiếng
của mình, rất được người Việt Nam ưa chuộng vì qua đó, có thể hình dune khá đầy
đủ và toàn diện về buổi đầu khai sinh của vùng đất cuối trời này của Tổ quốc. Đó là
nhữna, bằng chứng hùne hồn cho một thời quá khứ nhào nặn nên hình hài của văn
hóa Nam Bộ. Hơn ba thế kỷ trôi qua, các tộc người Nam Bộ có cùng số phận, cùng
chịu cảnh thuộc địa thời kháng Pháp, chịu cảnh chia cắt hai miền Nam - Bẳc thời
chống Mỹ, và hiện đang dẫn đầu cả nước về mặt kinh tế.
Là vùng văn hóa hình thành muộn nhất, Nam Bộ kế thừa truyền thống văn hóa
vốn có kết hợp với sự biến thiên do sự tương tác tính cách văn hóa truyền thống
Việt Nam với hằng số tự nhiên - xã hội Nam Bộ, bên cạnh đó còn có sự giao lưu
tiếp biến văn hóa phương Tây sớm và mạnh mẽ, hết thảy đã hun đúc nên hệ thống


tính cách văn hóa Nam Bộ.

* TS., Phó Khoa Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia
Thảnh phố Hồ Chí Minh.
299


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QƯÓC TÉ LÀN T H Ứ T Ư

Tính cách văn hóa Nam Bộ nhìn chuna có nền tảng xa xôi từ tính cách văn hóa
Việt Nam truyền thống (sản sinh chủ yếu từ vùne văn hóa đồnạ b ăn s châu thổ Bắc
Bộ - Bắc Trune Bộ) được tác giả Trần N eọc Thêm đúc kết thành: 1) tính cộns
done; 2) thiên về âm tính; 3) ưa hài hòa; 4) tính tổnạ hợp; 5) tính linh hoạt. Trải qua
quá trình biến thiên cho phù hợp với điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội tại địa
phương Nam Bộ, hệ thốna tính cách ấv đã thay đổi hết sức sâu sắc.
Điều kiện tự nhiên - xã hội Nam Bộ mang nét đặc thù so với các vùng miền
khác. Đâv là vùng đồng bàng châu thổ rộnơ lớn được bồi đáp bởi hai hệ thống sôna
ngòi: sônơ Mê-kônẹ và sône Đồng Nai, diện tích gần 39.734 km 2, khí hậu nhiệt đới
ôn hòa, ít bão biển, là điều kiện cực kỳ thuận lợi cho các hoạt độne, kinh tế nông
nghiệp lúa nước, trồng trọt cây ăn trái và nuôi trồng thủy hải sản. Nhà nghiên cứu
Nguyễn Tri Neuyên (2010: 22-23) gọi Nam Bộ là vùng văn minh lúa nổi - lúa trời,
văn minh kênh rạch, văn minh nhà sàn vượt !ũ và văn minh chợ nổi. Có thể nói. tự
nhiên Nam Bộ mang đậm chất phóng khoána, sẵn sàng dung nạp tất cả các hoạt
độn^ sống và các dòng văn hóa. Đặc tính này của tự nhiên có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tính cách mở - thoáng của cư dân trong vùng.
Do biến Nam Bộ là biển sâu, từ xa xưa đà hình thành những thương cảnạ giao
lưu quốc tế quan trọng ( ó c Eo, Cattigara v .v...), Nam Bộ sớm mở cửa giao lưu với
thế giới. Tính từ lúc người Việt vào khai phá đất Nam Bộ vào thế kỷ XVII, Sài Gòn
trở thành một thương cảng lớn trong khu vực Đông N am Á 1. Nhờ vậy, quá trình
giao lưu tiếp biến với văn hóa phương Tây tại đây đã diễn ra rất mạnh mẽ và loàn

diện. Thời Pháp thuộc (1858 - 1945), Nam Bộ trở thành một thuộc địa điển hình của
Pháp (Cochin-China), người Pháp đã mang sang vùng đất này tất cả các thể chế và
thiết chế văn hóa - xã hội của họ, và trong gần một thế kỷ giao lưu với văn hóa
Pháp, người Nam Bộ đã có một cái nhìn đa diện hơn về cuộc sống, các mối quan hệ
nhân sinh và xã hội ở tầm quốc tế. Trona suốt quá trình tồn tại của mình, văn hóa
Nam Bộ luôn đi đầu trong việc siao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây và
bằng cách đó, đã đóng góp rất nhiều cho việc hiện đại hóa văn hóa truyền thống
Việt Nam (giao thông hiện đại, kiến trúc đô thị, báo chí - văn xuôi quốc ngữ, truyền
thanh - truyền hình, kinh tế h àn s hóa, nshề buôn v.v... đều hình thảnh ở Nam Rộ
sau đó mới lan tỏa ra cả nước) (Trần Neọc Thêm, 2010: 17).
1.2.
Kết quả, tất cả các yếu tố trên đã hòa trộn với nhau, cuối cùng hình thành
nên tính cách văn hóa Nam Bộ, muộn nhất là từ đầu thế kỷ XX trở về sau, gồm: 1)
tính sông nước; 2) tính bao dung; 3) tinh năng động; 4) tính trọng nghĩa; 5) tính thiết
thực; 6) sự song hành %iữa vai trò cộng đồng x ã hội và vai trò độc lập cả nhân.

1. Thương cảng Sài Gòn bắt đầu nổi lên từ sau khi N ông Nại đại phố ỏ' Biên Hòa bị tàn phá
vào các năm 1747, 1777.
300


s ư BIỂN THIÊN CỦA QUAN NIỆM LUÂN THƯỜNG ĐAO LÝ NHO GIÁO.

Yếu tố đóna vai trò quan trọng khôns kém là tính đặc thù của hoàn cảnh xuât
thân của lưu dân Việt và bối cảnh lịch sử - xã hội của vùng đất Tây Nam Bộ. Có thê
nói. Tây Nam Bộ là nơi có cộng đồng cư dân mang chất tứ xứ cao nhất cả nước
(Trần Ngọc Thêm. 2004; Ngô Đức Thịnh, 2004). Dân gian miệt c ầ n Thơ có bài:
"Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đ ồng Nam,
N ước trong xanh sao lại chảy hoài,
Thương người xa x ứ lạc loài đến đây

Hoặc dân gian N am Bộ vẫn thường hát: <
" Ai về Bình Định thăm cha; Phú Yên
thăm mẹ, Khánh H òa thăm em” . Từ vùng N eũ Quảng vào Nam cơ hồ đều là di dân
tự do, không theo quy mô gia tộc, làng xã như cuộc di cư trước đó từ Bắc Bộ vào

VŨI12 Thuận Quảng (xem thêm phim D òng sông thời gian).
Còn Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chỉ viết: “Khi mới bắt đầu
khai thác, đất Định T ư ờne do nhiều đầu mối thống thuộc và ở ngoài Phiên An và
Phiên Trấn xa xăm hiểm trở. Họ được tự do làm ăn, muốn ở đâu thì ở, muốn khai
khán chỗ nào tùy ý, k h ô n s thể lấy luật pháp ràng buộc được” . “Rất nhiều làng
không có hương ước. cũng không có thần tích, thần phả. sắc thần do vua phong cho
làng cũng chỉ ghi một khái niệm chung chung “Thần làng bổn cảnh” với vài mĩ từ
“quảng hậu, chính trực, đôn nghi” (rộng rãi, ngay thẳng, đầy đặn), dù đó là sắc
phong dưới thời Thiệu Trị hay Tự Đức. Dân làng nói chung không bị những quy
ước, những lệ làng ràng buộc, câu thúc chặt chẽ như ở Bắc và Trung” (Thạch
Phương, 1992: 55). Tục thờ thần Thành hoàng theo truyền thống Bắc Bộ đã chuyển
thành tục thờ Thành h o àn s bổn cảnh chung chung. Tại Tây Nam Bộ, bóng dáng của
những lũy tre dày đặc gói chặt số mệnh dân cư trong khuôn viên làng Bắc Bộ không
còn nữa, mà thay vào đó là các bụi tre, hàng tre trên bãi bồi, bờ bao, đường đê tựa
như những vết tích còn sót lại trên bước đường vạn dặm của bao lớp lưu dân.
Bàn về tính cách dân N am Bộ nói chung, Leopold Pallu trong H istorie de
L 'expedition de C ochichine en 1861 (1864) viết: ‘;Dân Nam Kỳ không muốn đi ra
nước ngoài làm ăn nhưng ở trong nước họ di chuyển đến một vùng khác rất dễ
dàng”. “Khi người ta làm cho họ khổ sở, thì họ ra đi” . “Tại Nam Kỳ, một làng có
thể tan rã tron® tay anh với tốc độ nhanh như lúc nó hội tụ lạ i...” . Tác giả Ngô Đức
Thịnh (2004: 277) thì nhận định: “Ở Nam Bộ, làng xóm cũng như cơ cấu xã hội nơi
thôn dã cũng khône lấy £Ì làm bền chắc và chặt chẽ, cột chặt người nông dân ở lại
với quê cha đất tổ” .
Vào khoảng nửa đầu thế kỷ XIX, vùng đất Nam Bộ dưới sự thống lĩnh của
Phó vương - Tổnơ trấn thành Gia Định là Lê Văn Duyệt đã vận động theo một trục

30 1


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN T H Ử T ư

chính trị - kinh tế - xã hội rất khác với triều đình Huế, đến mức nó gần như một
vùng đất biệt lập với phần còn lại của đất nước (Choi B vune Wook. 2004).
Tóm lại, tuy văn hóa Nam Bộ tiếp nối và phát triển văn hóa truyền thống có từ
miên Bắc, miền Trung, sone do những tác độna. mới mẻ của môi trường sốne. văn
hóa Nam Bộ khúc xạ mạnh mẽ, trong đó xu hướng Tây phương hóa và trọng vai trò
cá nhân là hai đặc trưng quan trọng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các mối quan hệ
luân thường đạo lí trone văn hóa Nho gia.
2. Quan niệm truyền thống về luân thường đạo lí Nho gia
2.1.
Việt Nam tiếp xúc với tư tưởne Nho eia từ thời Côna nguyên.
năm thuộc Hán, người Việt Nam đã dần dà tiếp nhận Nho giáo theo nguyên tắc
đên đâu, tiếp nhận tới đó”, và vì thế Nho giáo Việt Nam m ang những nét khá
biệt với khu vực còn lại của khối chữ Hán. Nhà nghiên cứu Đài Loan Trần
Đoàn gọi đó là kiểu “Việt Nho” (Tran Van Doan, 2002).

Sau 1000
"Cần
khác
Văn

Năm 938, Việt Nam tái độc lập. Các tập đoàn phone kiến Việt Nam là Lý,
Trần, Lê thay nhau xây dựng văn hóa Đại Việt, đặt nền m óng cơ bản cho văn hóa
hiện đại ở Việt Nam. Neu như ở giai đoạn Bắc thuộc (đầu C ô n s nguyên - 938), Nho
giáo du nhập vào Việt Nam qua quá trình cưỡng bức thì ở giai đoạn Đại Việt sau
đó, người Việt Nam lại tự nguyện du nhập Nho giáo.

Suốt các thời kỳ Lý - Trần (thế kỷ XI - XIV), Phật giáo làm quốc giáo song
Nho giáo vẫn tìm thấv chồ đứng của minh. Năm 1070 lập Văn Miếu thờ Không Tử,
năm 1076 lập Quốc Tử Giám và cùng năm này mở khoa thi đầu tiên. Theo Trần
Văn Đoàn (2002: 82-83), sở dĩ các nhà nước phong kiến Việt N am tự nguyện du
nhập và sử dụng Nho giáo (Tống Nho) là vì Việt Nam cần m ột hệ tư tưởng chính trị
- xã hội thống nhất và hiệu quả. Trong số các “tôn giáo” có mặt ở Việt Nam bấy giờ
là Phật, Đạo, Nho và các dạng tín ngưỡng dân gian, duy chỉ có Nho giáo với hệ tư
tưởng thế trị là phù hợp hơn hết. Trước hết, Nho giáo ở Việt Nam từ trước đã được
“Việt hóa" ở nhữne cấp độ khác nhau. Yếu tố thứ hai gắn Việt Nam nhiêu hơn với
Nho giáo là chế độ khoa cử (bắt đầu từ 1075), ơỏp phần giáo dục chừ trims, đối với
quần ibần, thiên hạ, tư tưởng ‘‘khắc kỷ phục lễ”, tính tôn ti, trật tự xã hội - những
thứ mà Phặi oiáo hay Đạo giáo không đặt trọng tâm vào.
Tóm lại, nhu cầu có một hệ tư tưởng xã hội chính thống là một nhu cầu có
thực ở Việt Nam. Điều nàv cũna đã từng xảy ra ở tuyệt đại các xã hội truyền thòne
ở Đôna Nam Á cố đại. Chính vì thể, việc Nho giáo du nhập vào Việt Nam phân nào
đáp ứng được nhu cầu ấy. Nhừ sự thốne nhất về tư tưởng, Nho giáo đã góp phân
thúc đẩy vận hành và tổ chức xã hội, đào tạo nhân tài và chấn hưng giáo dục, cũng
như bổ sung vào dòng văn hóa dân gian Việt Nam chất bác học cổ điển, nhất là
trong văn học - nghệ thuật.
302


s ự BIỂN THIỂN CỦA QUAN NIỆM LUÂN THƯỜNG ĐAO LÝ NHO GIÁO.

2.2.
Trong nghiên cứu đặc trưng Nho giáo Việt Nam, nhà nghiên cứu Phan
Ngọc (2002) đề xuất khái niệm “kiểu lựa chọn” "từ tinh thần luận đến thao tác luận”,
qua đó Việt Nam đã tiếp nhận Nho eiáo Trung Hoa qua bốn phạm trù thân phận luận.
Tổ quốc luận, eia đình luận và diện mạo luận. Chính vì thế, Nho 2 Íáo vào Việt Nam
chịu sự khúc xạ mạnh mẽ, bởi người Việt Nam tiếp nhận Nho £Ìáo thông qua bôn

lăng kính quan trọng, lần lượt gồm: 1) lăng kính Tổ quốc; 2) lăng kính làng; 3) lăng
kính văn hóa Đông Nam Á; và 4) lăne, kính vị thế, thân phận lịch sử.
Nhữnơ tác động của văn hóa truyền thống Việt Nam đã biến Nho giáo du nhập
từ Trung Hoa thay đổi theo nhiều xu hướng khác nhau, được cho là biến thiên theo
xu hướng "âm tính hóa’' nhiều nhất trong vùne văn hóa chữ Hán:
+ Trung quân-ái quốc: Đây là sản phẩm của góc nhìn theo lăng kính Tổ quốc.
Con người Việt Nam là con người Tổ quốc, văn hóa Việt Nam trước hết là vì Tổ quốc.
Chữ TRUNG trong Nho giáo Trung Hoa khi sane đến Việt Nam bị khúc xạ thành
TRƯNG VỚI TÔ QUỐC. Do vậy, chữ TRƯNG trong Nho giáo Việt Nam đã trở thành
TRƯNG QUÂN - ÁI QUỐC. Neưò'i đứng đầu nhà nước phong kiến Việt Nam được
gọi là “vua”, gốc là tù' “bô”, tức “bố”. Vua chỉ là “cha”, vậy quan hệ cha con gần gũi
hơn rất nhiều so với quan hệ “thiên tử” - “bá tính” trong văn hóa Trung Hoa.
Tương tự, chữ H IỂU trong văn hóa Việt Nam cũng bị phân hóa thành TIÊU
HIẾU và ĐẠI HIÉƯ. Tiếu hiếu là truyền thống hiếu đạo đổi với ông bà - tổ tiên,
còn Đại hiếu là hiếu với Tổ quốc, với nhân dân, với non sông đất nước.
+ Tính nước đôi dân gian - quý tộc, song thiên về dân gian: Đây là sản phẩm
của góc nhìn theo lăng kính làng xã nông thôn Việt Nam. Văn hóa làng xã là nên
tảng của tâm thức người Việt Nam, do vậy người Việt Nam là con người của làng
nước. Cộng đồng làng xã là đơn vị xã hội cơ bản ở Việt Nam, trong khi ở Trung
Hoa là gia tộc (family clans) (Neuyen Quang Dien, 2002: 69). Kiểu quan hệ này
khác với tâm thức người Trung Hoa là từ gia đến quốc, do vậy họ gọi Tổ quốc là
quốc gia. Trong tổ chức cộng đồng, mỗi noôi làng Việt Nam làm thành một thê
hoàn chỉnh về văn hóa với Thành hoàng riêng, đình làng riêng, khoán ước riêng, ơ
Việt Nam truyền thống, mỗi một làng là một “nước Việt Nam thu nhỏ” .
Chính cái khung văn hóa làng xã này đã tác động, làm biến đổi văn hóa Việt
Nam. Người Trung Hoa đặt trọng tâm ở đạo đức, song ở người Việt Nam lại là chữ
nhân, chữ tình và lòng yêu nước (Nguyen Quang Dien, 2002: 69).
+ Xu hướng âm tính hóa và tôn trọng phụ nữ: Đây là sản phẩm của góc nhìn
theo lăng kính văn hóa Đông Nam Á. Văn hóa Đônơ Nam Á là văn hóa lúa nước, vôn
coi trọng vai trò nữ giới (âm tính), thề hiện sống động trong các hình thức thờ tự biêu

tượng phồn sinh, thờ nữ thần, tín ngưỡng đa thần (Nguyễn Ngọc Thơ, 2010).
+ Hướng đến sự hài hòa: Đây là sản phẩm của 2,óc nhìn theo lăng kính vị thê,
thân phận lịch sử (Phan Nsọc, 2001). Việt Nam mang thân phận của nước nhỏ
303


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉƯ HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THÚ T ư

bên cạnh Trung Hoa nên phải “cúi mình đê giữ độc lập”, luôn luôn chấp nhận một ít
thua thiệt để giữa hòa khí với bên ngoài.
2.3. Có thể thấy, tuy được xếp vào vùng văn hóa chữ Hán, tức cùng là một nền
văn hóa Nho giáo cổ điển, song, văn hóa Việt N am lại vận động và phát triển trên
một cái trục rất khác với Đônơ Bắc Á, đó là trục nôn 2 nehiệp lúa nước làna xã khép
kín kiểu đặc trưng Đông Nam Á. Trone các mối quan hệ luân lí, người Việt Nam
truyền thống coi trọng tình cảm (cá nhân - cá nhân, cá nhân - xã hội, cá nhân - quốc
gia), lấy đó làm nền tảng để tiếp tục xây dựng chữ TR U N G , chữ HIẾU, V.V..
Qua nghiên cứu so sánh văn hóa Nho 2Íáo Việt Nam và Trung Hoa, nhà nghiên
cứu Trần Văn Giàu (2002: 101-102) đã tone kết thành mấy điểm chính yếu sau:
+ Nho giáo Trung Hoa chính thốna đặt trọng tâm cao nhất mối quan hệ quân thần trong Tam cương, đồnẹ nghĩa với việc đề cao chữ trung trong xã hội, trong khi
đó người Việt Nam xem xét mọi mối quan hệ trong cái khung bất định của lợi ích
quốc gia, dân tộc, tức đặt trung quân gan với ái quốc.
+ Trong Ngũ thường, neười Trùn? Hoa đề cao năm đức lần lượt là nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín, trong khi người Việt N am coi trọna hơn ở cái nghĩa, còn gắn thành
“đại nghĩa” . Trong văn hóa Việt Nam, đại nghĩa cao nhất là giữ nước. Người Việt
Nam (cả trí thức lẫn dân thườna) dù coi trọng chừ trung, chữ lễ sonạ cũno rất đề cao
chủ nghĩa anh hùng, tức chữ dũng (đều vì đại nghĩa).
Trong số các nhiệm vụ chính của người quân tử, người Việt Nam đã lược mất
yếu tố “bình thiên hạ” , do vậy chỉ còn “tu thân, tề gia, hóa hương, trị quốc” . Nho
giáo Trung Hoa chính thống đề cao thiên mệnh, còn giới nho sĩ Việt Nam đặt trọng
tâm ở “tự lực cánh sinh”.

Còn trong so sánh chủng với toàn bộ vùn2 văn hóa N ho giáo, các tác giả Trần
Quốc Vượng (2000), Phan Văn Các (2005), Đoàn Lê Giang (2007), Trần Ngọc
Thêm (2009) đúc kết thành bảng sau:
Việt Nam

T rung Quốc

Tricu 1 iên

Nhật Bản

Tính chất giáo
dục Nho học

Nho học khoa cử Cá Nho học
khoa cử và Nho
học nghĩa lí

Thiên về Nho
học nghĩa lí

Nho học tự do,
Nho học nghĩa lí

Thành phần
Nho sĩ

Thân sĩ (văn sĩ)

Văn sĩ, võ sĩ


Võ sĩ nổi bật
hơn văn sĩ

Võ sĩ

Đặc trưng bản
chất Nho giáo

Nghĩa

Trung

Thuận / Kính

Trung/Dũng

Bản chất
văn hóa

Am tính

Âm dương
điều hòa

T h iê n về d ư ơ n g

Dương tính

304



s ư BIỂN THIÊN CỦA QUAN NIÊM LUÂN THƯỜNG ĐẠO LÝ NHO GIÁO.

Có thê thấy, người Việt Nam truyền thống lấy Nehĩa làm đức tính cao cả nhất,
nó bao trùm lên tất cả các quan niệm luân thường khác, nó chế ước chữ Trung, chữ
Hiêu. chữ Đê và tất cả các đạo lí khác. Sau chữ N sh ĩa là chừ Hiếu, trước hết là Hiếu
với gia đình, dòng tộc, sau đó là Hiếu với non sông, đất nước, v ề phương diện này,
chữ Hiếu (Đại Hiếu) đã bao hàm chữ Trung. Bản thân chữ Trung đã bị chi phối bởi
lòng yêu nước.
3. Q u an niệm về lu ân th ư ờ n g đ ạo lý củ a ngư òi N am Bộ
3.1.
ơ người Việt Nam Bộ, sự liên kết cộng đồng làne xã khép kín kiểu truyền
thống đà vụn vỡ tan tành, thay vào đó là chủ nghĩa cá nhân. Tác giả Nẹô Đức Thịnh
(2004: 267) viết: “K hông như những người Việt tiền bối từ Bắc vào Trune Bộ
thường di dân theo từng làng xóm, dòng họ, vào nơi đất mới chừng nào vẫn giữ
truyền thống quê hương xưa, từ việc đặt tên làng, tên xã đến các lề tục mang đi từ
quê cha, đất tố; những người tới đất Nam Bộ thường là đi riêng lẻ từng cá nhân, ra
đi là dứt bỏ những lề tục xưa c ũ . .
Thêm vào đó, các tầng lớp lưu dân đa phần là dân nghèo, dịa vị xã hội thấp
kém nên khả năng hội nhập xã hội cũng kém. Tư duy trọng tập thể (xóm làng, thân
tộc) không thể tồn tại, người Việt tại đây đã chọn gia đình hạt nhân để làm chỗ dựa
tinh thân. Người Việt vẫn tụ tập m ở làng lập ấp, song thành phần dân cư dễ biến
động, mức dộ tứ xứ cao, quan hệ cộng đồng lỏng lẻo đã tạo ra một cảm giác bất an
về vận mệnh tương lai của chính họ và con cái họ. Gia đình là “ pháo đài” kiên cố
nhất giúp họ đối mặt với các thử thách ấy. Ở miền Bắc Việt Nam, người ta nói
"nhập hương tùy tục”, còn ở Nam Bộ là “nhập gia tùy tục” , mỗi gia đình một kiểu,
không ai giống ai.
Quan niệm dòng tộc ở người Việt Tây Nam Bộ nhạt nhòa. Dòng tộc dường
như đã trở thành quá khứ, là cái mà họ đã để lại ở bản xứ miền Trung hay đất Bắc.

Tại nơi ở mới, vị trí của người trưởng tộc, trưởng họ không còn tồn tại nữa. Tương
tự, chế độ tông pháp rất nhẹ nhàng, người Việt Tây Nam Bộ không đặt nặng vai trò
con trưởng, bố mẹ thường so n s với con trai út. Tài sản chia cho cả con trai và con
gái, con trai chia phần nhiều hơn con gái. Ở nhiều gia đình, vai trò con gái út khá
đặc biệt. Rất ít gia đình Tây Nam Bộ lưu truyền aia phả cho dòng họ mình, chính vì
vậy chỉ một thế kỷ trôi qua là người Việt vùng này đã không còn biết nguyên quán
của mình ở đâu và họ cũne không có nhu cầu cần biết điều ấy. Đối với họ, hiện tại
và tương lai là quan trọng, còn ngày hôm qua đã là dĩ vãng, không nhớ cũng không
sao. Sự giáng cấp ẩy của quan hệ dòna tộc còn thể hiện ở sự thay đổi một vài danh
xưng của chế độ cửu tộc xưa. Nguyễn Đình Tư (2008: 299) viết: “Các gia đình,
dòng họ chỉ biết đến sơ là cùng. Trên ông sơ, không thể truy tới cùng được. Do đó,
hình thức đại tôn như ỏ' miền Trung, miền Bắc không có. Không có ngày lễ Tổ
305


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỦ T ư

đúna, nghĩa hẳng năm. Để bù lại sự thiếu sót, thiệt thòi đó, một số nơi thành lập các
cơ sở thờ tự riêng gọi là miếu họ, định một ngày trong năm, nhữna ai m ane cùng
một họ tới dự lễ chung gọi là tế T ổ” (ghi trong Nguyễn Tuấn Anh, 2009).
Trong tâm thức của người Bắc Bộ, vai trò của làne, xã vô cùnơ to lớn, nó chi
phôi hâu hết mọi hoạt độns sống của cá nhân. Tại Nam Bộ, vai trò ấy của làng bị
thay thế bởi yếu tố eia đình hạt nhân (cha - mẹ - con). Nam và nữ đến với nhau vì
n?hĩa, vì tình chứ không vì sự sắp đặt môn đăng hộ đối. Ở Bắc Bộ có vế “việc nước
việc làng’' thì tại Tây Nam Bộ lại là “việc nước việc nhà” . Người Bắc Bộ nói “nhập
hương tùy tục” thì neười Tây Nam Bộ chuyển thành “nhập gia tùy tục” . Ở Bắc Bộ.
con người sốne dưới sự chi phối của hương ước thì Nam Bộ thời khẩn hoang mana
đậm chất tự do kiểu “chim trời cá nước ai bắt được nấy ăn” .
Tác giả Huỳnh Lứa (1992: 38) viết: “Với nề nếp sinh hoạt có tổ chức vốn đã
trở thành truyền thống ở nơi quê hương bản quán, với đặc trưng chung là ý thức

cộng đồng, tương thân tương ái, những lưu dân khi đặt chân vào vùng đất mới đã
nhanh chóng kết thành chòm xóm để dựa vào nhau làm ăn sinh sống, đùm bọc giúp
đỡ nhau trong lúc khó khăn, đoàn kết cùng nhau chống lại thú dữ cũng như bọn
trộm cướp, cường hào ác bá” .
Còn Ngô Đức Thịnh (2004: 267) nhận định: “(•••) những người tới đất Nam
Bộ thường là đi riêng lẻ từng cá nhân, ra đi là dứt bở những lề tục xưa cũ. nhất là
đối với những người bị tội đồ mà ra đi, vì nghèo đói mà lưu lạc. Bởi thế, buổi ban
đầu, dân tứ xứ, dân tứ chiếng, từng cá nhân, từng nhóm nhỏ tập hợp lại, đùm bọc,
nương tựa nhau để trụ lại nơi đất mới lạ lẫm. đầy thử thách này” . M ột cô gái đang
yêu m ong mỏi người yêu song cũng chột dạ nếu lỡ xóm thôn phát hiện: uĐền hết
dầu đèn tắt; Nhang cỏn thắp, nhang thơm; Biểu anh đừng lên xuống đêm hôm; Thê
gian đàm tiếu, ấp thôn chê c ư ờ i”, hoặc giả "Nước mắt ern rơi cải độp; Anh lấy cái
hộp anh bỏ vô liền; Đ ôi ta thương trộm, láng giềng đều h a y ' (ca dao Tây Nam Bộ).
Trong liên kết xóm ấp, tình nghĩa chân chính !à chất keo gắn bó những phận đời lưu
lạc với nhau, như trong càu "Bình Lương là cho náu nương; An Bình ỉà cho tình
thương đậm đà”. Từ “đi xóm ” khá phổ biến ở Tây Nam Bộ, chỉ đi ra khỏi nhà vì
một công việc bất kỳ.
Khác với Nho giáo ở miền Bắc phát triển trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp
tự cấp tự túc kiểu tiểu nôns và thiết chế làne xã cổ truyền nên bị giới hạn trong
những chiều kích kinh tế - xã hội khép kín, Nho giáo ở Nam Bộ tồn tại trên cơ sở
nền sản xuất vật chất sớm mang yếu tố hàng hóa và trong bối cảnh hoạt động ngoại
thương đang khởi sắc nên có một không gian xã hội và phương thức phát triển rất
khác. Gần như tất cả các nhà nho trong nhóm Sơn hội Gia Định cuối thế kỷ XVIII
như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc u ẩ n , Diệp Minh Phụng... đều
306


s ự BIẾN THIỂN CỦA QUAN NIỆM LUÂN THƯỜNG ĐAO LÝ NHO GIÁO.

là con nhà thương nhân hay trực tiếp đi buôn bán, thậm chí Trịnh Hoài Đức trước

năm 1788 từng đi buôn sang tận Campuchia. Đen giữa thế kỷ XIX thì đã có những
nhà nho làu thông kinh sử khôna thèm làm quan nhưng không vào núi lánh đời mà
nhảy ra kinh doanh ngành ăn uốns như nhân vật Ông Quán trone Lục Vân Tiên,
người bỏ tiền ra hối lộ quân xâm lược để bảo tồn Văn miếu Vĩnh Long khi ba tỉnh
miền Tây Nam Kỳ bị quân Pháp đánh chiếm năm 1867. Xuất phát điểm kinh tế - xã
hội này khiến tans lớp nho sĩ ở Nam Bộ không có thái độ bài xích thương nghiệp,
mà ngược lại, còn thích ứng với kinh tế hàng hóa và sinh hoạt đô thị một cách dễ
dàne và mau lẹ không khác gì các nhà nho Trung Quốc thời Minh Thanh.
3.2.
Xét toàn diện, yếu tố Nho giáo trong văn hóa Nam Bộ được cho là nhạt,
nếu khône nói là đã bị phá vỡ gần như hoàn toàn. Chữ Nghĩa vốn đã bao trùm lên
chữ TRUNG, chữ HIẾU. Chữ Nghĩa kiểu truyền thổng ở miền Bắc đã thay đổi hoàn
toàn nội hàm của nó, NGHĨA chỉ tình nghĩa, lẽ phải, việc công bằng giữa những
người tứ xứ với nhau trong một không gian “chim trời, cá nước ai bắt được nấy ăn”.
Trone các đạo lí, chữ Trung trở nên bàng bạc, nhạt nhẽo khi mà người lưu dân
đã sẵn sàng vứt bỏ hết thảy các giá trị Nho giáo truyền thống ở cố hương mình để đi
tìm vùng đất mới. Tại đó, những thử thách của tự nhiên và xã hội đã khiến họ liên
kết nhau lại dưới nguyên tắc công bằng, đại nghĩa. Dân Nam Bộ thường lấy câu
“Kiến ngãi bất vi vô thượng dã” làm nguyên tắc ứng xử xã hội bất kể thân sơ. Dù
vậy, dưới thời Pháp thuộc, phong trào kháng Pháp diễn ra tại Nam Bộ vô cùng
mạnh mẽ, một số trí thức Nam Bộ đã hô hào sử dụng các giá trị Nho giáo như là
một thứ vũ khí nội tại để chống lại sự du nhập ngày càng lớn của văn hóa phương
Tây, từ đó sản sinh ra một số nhà nho kiểu Nam Bộ như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan
Thanh Giản, Ngô N hơn Tịnh, v.v... Tuy vậy, sự biến thiên của tính chất Nho giáo
tại Nam Bộ đã khiến cho văn hóa vùng đất này nhanh chóng chuyển sang một
phưong hướng mới, gần gũi hơn với văn hóa Tây phương: trọng vai trò cá nhân và
trọna sự công bằng của pháp luật.
Do gia đình hạt nhân là trọng tâm, người Việt miền Tây Nam Bộ vẫn coi trọng
chữ Hiếu, song lại là kiểu chữ Hiếu được kết tinh bằng tình cảm tự nhiên giữa các
thể hệ cha - mẹ và con cái chứ khône bị trói buộc bằng gia phong, lễ giáo. Quan

niệm chữ Hiếu xuất phát tự nhiên từ mối quan hệ cha mẹ - con cái qua công ơn sinh
thành, dưỡng dục nên nó không theo một khuôn mẫu, chuẩn mực nào cả, càng
không phải là chữ Hiếu đã được lí luận hóa bằna; tư tưởng Nho gia. Người con có
nhiệm vụ báo hiếu bằng nhiều phương thức khác nhau, kể cả những phương thức
phản cảm, như chấp nhận hôn nhân không tình yêu để kiếm tiền báo hiếu cha mẹ (ví
dụ hiện tượng đẻ thuê, v .v...) mà bất chấp thanh danh dòng tộc. Hình ảnh Lục Vân
Tiên khóc tang mẹ đến mù mắt vẫn được người dân coi như một thứ biểu tượng của
307


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ LẰN TH Ứ TƯ

chữ hiếu. Ớ phươns diện này, chữ Hiếu trong văn hóa Nam Bộ mang ít nhiều dấu
ấn của chữ Nehĩa và đậm chất dân chủ. một thử đặc sản chỉ có ở Nam Bộ.
“Trọng nghĩa khinh tài” là đặc trưng tính cách quan trọng vào bậc nhất cua
người Nam Bộ. Trong một bối cảnh tự nhiên rộns mở, xã hội còn chưa được tổ
chức chặt chẽ từ nhừne thế kỷ XVIII - XIX, người Nam Bộ tự thân tự lực, tự liên
kết với nhau vì nahĩa và bằng tình nshĩa. N shĩa là suối neuồn của các động lực xã
hội, mọi người đều là dân tứ xứ họp lại với nhau hình thành nhóm. Do vậy, tron2
văn hóa Nam Bộ không có khái niệm “người trong nhóm" hay “người n^oài nhóm ” .
Sự gia nhập hay tách li khỏi một cộng done nào đó thật nhẹ nhàng như thể nước cạn
rồi lại đầy, miễn sao cái tình, cái nghĩa được đong đầy. Dân gian Nam Bộ chắt chiu
cái nghĩa. Họ nói lên tâm lòng của mình qua câu ca dao: "G ái mà chi trai mà chi,
sinh ra có nghĩa có nghi thì hơn”, không câu nệ chủ nghĩa tông pháp, khôns, trọne
nam khinh nữ, mà ngược lại, đề cao cái tình nghĩa bộc trực, giản dị của những
người đồng cảnh ngộ lưu dân.
Vào đầu thể kỷ XX trở đi, khi Nam Bộ chìm dài trong bóng đêm thuộc Pháp,
tiểu thuyết Trung Hoa được bạn đọc Nam Bộ ưa chuộng, trong đó có thể kế Tam
quốc diễn nghĩa, Đ ông Chu liệt quốc, H ồng lảu mộng, Thủy hử, Du long hý p hụ n g ,
Chánh Đức du Giang N am , Mạnh Lệ quăn, Nhạc p h i, Thập nhị quả phụ, Chinh Tây.

v.v... Người Num Bộ đặc biệt yêu thích các tính cách "trọng nghĩa kinh tài" của các
nhân vật trung tâm. “Truyện Tàu phản ánh một xã hội phân hóa sa đọa về chính trị
và trong cảnh hỗn loạn chiến tranh, có những người từ quần chúng ra đi cứu khốn
phò nguy mà không được nhà vua ủy nhiệm hay nhận lịnh của triều đình, trọng
nghĩa khinh tài, trở thành những mẫu anh hùng nêu cao chính nghĩa.”, “Tinh thần
của Đông Chu liệt quốc, Tây Hớn, Thuyết Đường, Tam quốc vẫn còn bàng bạc ở
trong sinh hoạt, ở các ngả đường, trong mọi cung cách đối xử và cái tác phong trọng
nghĩa khinh tài, cũng như thái độ coi cái mạng mình là rẻ để mà giữ lấy chừ nhân,
chữ tín vẫn còn được xem như một tiêu chuẩn đáng trọng của một đạo sống phổ
biến” (Lê Ngọc Thúy). Vì thế, với độc ạiả Nam Bộ thời ấy, cái gọi là “tư tưởng đạo
đức luân lí” được tiếp nhận rất dân chủ và uyển chuyển. Neười chết vì nổi dậy
chổng vua cũng được yêu mến không kém gì người chết vì phò vua. Người ta yêu
mến các trung thần Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Tử Long, nhưng còn ngưỡng mộ
những anh hùng nổi loạn Tống Ciiang, Tiều Cái, Lâm Xung. Võ Tòng nhiều hơn
thế. Tính cách văn hóa Nam Bộ thiên về kiểu Tống Giang, Lâm Xung, Võ Tòng
hơn là Quan Vũ hay Triệu Tử Long.
Trong muôn vàn cái nghĩa, người Việt Nam Bộ coi trọng cái nghĩa bàng hữu.
Bạn tâm giao là những người đồng hành quan trọng của họ, là những con người
cùng nương tựa, cùng chia sẻ đại nghĩa của cuộc sống. Chính vì vậy, chữ Tín trong;

308


s ự BIỂN THIÊN CỦA QUAN NIÊM LUÂN THƯÒ'NG ĐAO LÝ NHO GIÁO.

văn hóa Nam Bộ đặc biệt được coi trọng, nó giúp cân đối, cung cố và gìn giữ sự
ôn định của cộng done xã hội Nam Bộ trons suốt mấy trăm năm qua. Đối với
người Việt Nam Bộ, họ sẵn sàne “bán anh em xa. mua láne 2 iền2 gần” khi hoàn
canh bắt buộc.
3.3.


Từ sự giáng cấp mạnh mẽ của tư tưởng Nho giáo, người Nam Bộ trở nên

dễ dãi hơn trong tiếp nhận các yếu tố văn hóa mới, cũne như dễ dãi hơn trone cung
cách tìm kiếm p hư ơns thức sống. Họ dề thay đổi, dễ di chuyến để tim kiếm nhữne
môi trường sống tốt đẹp hơn thực tại. Ngô Đức Thịnh (2004: 277) nhận định: "Ở
Nam Bộ, làng xóm cũng như cơ cấu xã hội nơi thôn dã cũna khôns lấy gì làm bền
chăc và chặt chẽ. cột chặt người nông dân ở lại với quê cha đất tổ” . Từ sau chiến
tranh chống Mỹ (1954 - 1975), một bộ phận rất lớn kiều bào Việt Nam di cư sang
các nước tiên tiến (Mỹ, Australia. Anh. Canada..), sau một thời gian đã quav về
nước đâu tư. thăm viếng, đã để lại một bức tranh tốt đẹp ở các nước nơi họ sống
trong tâm thức cư dân Nam Bộ. Thêm vào đó, hôn nhân liên tộc người Việt - Hoa,
Việt - Khơ Me, Hoa - Khơ Me tại Nam Bộ đã có lịch sử 300 năm nay luôn diễn ra
tôt đẹp, hâu như không có cản trở gì, đã tạo đà cho những mối quan hệ hôn nhân
quốc tế, đầu tiên là Việt Nam - Đài Loan, sau đến là Việt Nam - Hàn Quốc,... Nói
chung, người Nam Bộ luôn nhìn nhận tích cực về sự thay đổi, sự vươn lên tìm kiểm
các cư hội sông tôt hơn. Trong khi văn hóa dònẹ tộc lỏng lẻo với các mối quan hệ
mơ hồ đã cho phép người Nam Bộ dễ dàng chấp nhận người ngoài nhóm (out­
group) cũng như chấp nhận người trong nhóm (in-group) ròi khỏi nhóm của mình
để tham gia vào một nhóm khác. Đó chính là một trong nhừne cơ sở chính làm cho
các cuộc hôn nhân Việt - Đài hay Việt - Hàn phát triển rầm rộ trong hai thập niên
gần đây.
Hôn nhân xuyên quốc gia là một hiện tượng bình thường trong thời đại hội
nhập toàn cầu. Tuy nhiên, hôn nhân Việt - Đài hay Việt - Hàn trons những thời kỳ
khá dài khi sổ lượng các cuộc hôn nhân đột ngột tăng mạnh đến mức tạo thành
những "làn sóng" lớn, kéo theo các hệ quả xã hội về nhiều mặt cho cả hai phía Việt
Nam và Đài Loan, trong đó tiêu cực nhiều hơn tích cực. Tính đến nay, đã có khoảng
10 vạn cô dâu Việt Nam đang sinh sống ở Đài Loan và khoảng 6 vạn ỏ' Hàn Quốc,
cũna có nghĩa đây là một trone nhữne, kênh quan trọns để người Đài Loan và Hàn
Quốc tìm hiếu vê đất nước, con neười và nền văn hóa Việt Nam. Điều này dẫn đến

rất nhiều sai lệch trong nhận thức của cả các bên, hoàn toàn không có lợi cho quan
hệ aiao lưu văn hóa Việt - Đài hay Việt - Hàn.
Thứ nhất, 95% các cô dâu Việt Nam tại Đài Loan (cũng như tại Hàn Quốc) có
nguồn aốc từ Đ ồnạ bànơ sôns Cửu Lona, tiểu vùng văn hóa điển hình Nam Bộ nhất
ở Việt Nam. Trừ một bộ phận thuộc hàng kinh tế kém, phần đôns các cô dâu đến từ
309


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THỦ T ư

các gia đình bình thường, thậm chí là khá giả. Điều đáng nói là học lực của các cô
đa phần là rất thấp, ít khi hết bậc phổ thôns trung học. Học thức kém dẫn đen nhận
thức kém, eiá trị văn hóa mà các cô sáne tạo nên chắc chắn khône thể đầy đủ hệ
thống và hoàn thiện. Neười Đài Loan hay Hàn Quốc tiếp xúc với họ và nghĩ rằng họ
đại diện cho người Việt Nam hoặc qua họ đế hiểu văn hóa Việt Nam là điều hoàn
toàn sai lầm. Họ chỉ có thể đại diện cho một bộ phận tầne lớp thư ờns dân tại Nam
Bộ mà thôi.
Thứ hai, neười Việt Nam Bộ, trong đó có 89% cô dâu Việt Nam tại Đài Loan
(theo Phan Thị Thu Hiền, 2010), khôna, quen và khône thích nhữna quy định thứ
bậc và tính tôn ti quá nghiêm túc của tư tưởng Nho giáo. Ngược lại. họ trân trọng sự
độc lập của vai trò cá nhân và tính dân chủ - bình đẳng tương đổi trong quan hệ thân
tộc (bao £ồm ông bà, cha mẹ với con cái; giữa chồne với vợ). Điều này hoàn toàn
trái ngược với truyền thống Đài Loan, Hàn Quốc hay khu vực còn lại ở Đông Bắc
A. Các cô dâu Việt Nam vẫn kính trọng ôrm bà cha mẹ, sonẹ đó là kiêu kính trọng
mang tính tự nhiên thuần phác bắt nguồn từ công lao sinh thành dưỡng dục (ra
mình, hay chồng mình) chứ hoàn toàn không phải chữ Hiếu theo Nho gia, và do
vậy, nó ở mức vừa phải chứ không hoàn thiện như quan niệm chữ Hiếu. Trong quan
hệ vợ - chồng, tính bình đẳng nam - nữ trong văn hóa Nam Bộ là cao nhất Việt Nam,
và do vậy, đây cũng có thể là một trở ngại cho các cô dâu Việt Nam trong quá trình
hòa nhập eia đình chồne ở những vùng nông thôn - nơi các quan niệm Nho giáo

kiểu cũ vẫn còn sâu đậm.
Thứ ba, các cô dâu Việt rời Việt Nam đi lấy chồng nước ngoài với một động
lực và niềm tin tích cực là tìm kiếm một chân trời mới, một tương lai mới sáng sủa
hơn. đồng thời làm thỏa mãn nhu cầu bước ra với thể giới, hoặc ít nhất là không the
chỉ ở mài một nơi. Tâm li ấy bắt nguồn từ tính cách văn hóa Nam Bộ. Tổ tiên người
dân Nam Bộ ít nhất đã ba, bốn lần rời bỏ quê hương đi tìm vùng đất mới, nay các cô
dâu Việt Nam cũng không cảm thấy quá nhiều trở ngại để lấy chồng Đài Loan hay
Hàn Quốc. Người Việt Nam Bộ rất dễ hòa nhập với môi trường sống mới, dễ dàng
chấp nhận sự có mặt của người ngoài nhóm, sẵn lòng biến n 2ưò'i neoài nhóm thành
người trong nhóm nếu họ ứng xử có nghĩa, có tình. Mặt khác, với hơn 300 năm tồn
tại của kiểu văn hóa lấy eia đình hạt nhân làm trune tâm, người Nam Bộ khi đi lây
chồng nước ngoài rất coi írọng hạnh phúc gia đình cá nhân của mình, đặc biệt là
tình cảm đối với chồng và con. Họ sẽ là nhữne người con dâu hiền thảo, người vợ
chune thủy có nehĩa nếu như họ được sổne trorm môi trường đầy ắp sự yêu thương.

310


s ư BIỂN THIÊN CỦA QUAN NIÊM LUÂN THƯỜNG ĐAO LÝ NHO GIÁO.

Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Choi Byung Wook. 2011, Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng (Hoang Anh
Tuan dịch), Nxb Thế giới.
2. Huỳnh Lứa. 1987, Lịch sử khai phá vùng đất Nam Bộ, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Lê N g ọ c T huý, Bước thăng trầm của truyện Tàu trong đời sổng vãn hoá Nam Bộ

thế kỷ XX, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn.
4. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường, 1990, Vãn hoá và cư dân đồng
bằng sông Cửu Long, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Nguyễn Đình Tư, 2008, Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, Nxb Chính trị
quốc gia.
6. Nguyễn Tri Nguyên, 2010, “Văn minh sông Cửu Long - một cấu trúc mới của văn
minh sông nước”, Kỷ yếu Hội thảo Văn hóa phi vật thể người Việt miền Tây Nam Bộ,
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).
7. Phan An, Phan Quang Thịnh, Nguyễn Quới, 2005, Hiện tượng phụ nữ Việt Nam
lấy chồng Đài Loan, Nxb Trẻ.
8. Phan An, “Trở lại chuyện phụ nữ Việt Nam lấy chồng người Đài Loan”. Tập san
Khoa học xã hội và nhân văn, số 39. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).
9. Phan Ngọc, 2001, Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.
10. Phan Thị Thu Hiền, 2010, “Hôn nhân Việt - Đài dưới góc nhìn văn hóa” trong:
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế so sánh nhân văn Việt Nom - Đài Loan, Đại học Thành Công, Đài Loan).
11. Phan Văn Các, 2005, “Nghiên cứu nho giáo Việt Nam trong bối cảnh khu vực và
thời đại”, Tạp chí Triết học.
12. Sơn Nam, 2005, Nói về miền Nam và cá tính miền Nam, Nxb Trẻ.
13. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh, 1992, Văn hóa dân
gian người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Trần Hồng Vân, 2008, “Hiện trạng và đặc trưng hôn nhân xuyên biên giới vùng
Đông và Đông Nam Á”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 10 (122). Viện Khoa học xã hội Việt
Nam - Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ.
15. Trần Nmpc Thêm, 2004, Tìm về bản sắc văn hỏa Việt Nam, Nxb Thành phổ
HỒ Chí Minh.
16. Trần Ngọc Thêm, 2008, Tính cách văn hỏa Nam Bộ như một hệ thống,
/>311


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉƯ HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN TH Ứ T ư

17. Trần Ngọc Thêm, 2010, “Tính cách văn hóa vùng Tây Nam Bộ trong quan hệ với

các hệ thong tính cách văn hóa vùng, m iền Việt N a m ” , K ỷ yếu Hội thảo Văn hỏa p h i vật

thế người Việt m iền Tây N am Bộ, T rư ờ ng Đại học K h o a học x ã hội và nhân văn (Đại học

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh).
18. Trần Quốc Vượng, 2000, “Nho giáo và văn hóa Việt Nam” trong: Văn hóa Việt
Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, tr. 501 - 515.
19. Viện K h o a học xã hội Tp. Hồ Chí M inh, 1990, Văn hóa và cư dân đồng bằng

sông Cữu Long, N x b K hoa học xã hội.

20. Vũ Khiêu, 1997, Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội.
Tiếng Anh
1.Ha Thuc Minh, 2002. Vietnamese Confucianism as a philosophy o f life,
Confucianism in Vietnam. VNU-HCMC Publishing House.
2. Neil L. Jamieson, 1993, Understanding Vietnam, University of California Press,
Berkeley and Los Angeles.
3. Nguyen Tai Thu, 2002, Some distinctive features in the introduction and
development o f Confucianism in Vietnam, Confucianism in Vietnam, VNU-HCMC
Publishing House.
4. Phan Dai Doan, 2002, Some distinctive features o f Confucianism in Vietnam,
Confucianism in Vietnam, VNƯ-HCMC Publishing House.
5. Tran Van Doan, 2002, The ideological essence o f Vietnamese Confucianism,
Confucianism in Vietnam, VNU-HCMC Publishing House.
6. Tran Van Giau, 2002, A treatise on Vietnamese Confucianism, Confucianism in
Vietnam, VNƯ-HCMC Publishing House.
7. Trinh Doan Chinh, 2002, Confucictn philosophy o f education - training, its
significance in contemporary Vietnamese education, Confucianism in Vietnam. VNUHCMC Publishing House.

312




×