Bả
o
BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
----------
ật
KHOA VĂN HÓA HỌC
m
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA TP.HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Môn: PHONG TỤC VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Lễ hội Chùa Ông ở thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hịa, huyện Tư Nghĩa,
tỉnh Quảng Ngãi.
GVHD: PGS.TS. TRẦN
HỒI ANH
SVTH
VÕ THỊ NGỌC TRÂM
MSSV
D19VH081
Lớp
19DVH
TP. HỒ CHÍ MINH – T5/2022
1
Bả
o
m
MỤC LỤC
ật
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................2
A. LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................3
Lý do chọn đề tài...................................................................................................3
B. NỘI DUNG.....................................................................................................5
I. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT THU XÀ, XÃ NGHĨA HỊA, HUYỆN TƯ
NGHĨA, TỈNH QUẢNG NGÃI..........................................................................5
1.
Vị trí địa lý................................................................................................5
2.
Điều kiện tự nhiên.....................................................................................5
3.
Điền kiện về kinh tế - xã hội.....................................................................5
4.
Điều kiện văn hóa.....................................................................................6
5.
Vùng đất Thu Xà, xã Nghĩa Hịa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.....6
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHÙA ƠNG VÀ KIẾN TRÚC CHÙA ƠNG
THU XÀ................................................................................................................7
1.
Lịch sử hình thành....................................................................................7
2.
Kiến trúc chùa Ông...................................................................................8
III. LỄ HỘI CHÙA ÔNG Ở THU XÀ, HUYỆN TƯ NGHĨA, TỈNH
QUẢNG NGÃI...................................................................................................12
1.
Lễ Túc yết...............................................................................................13
2.
Lễ Dâng hương.......................................................................................13
3.
Lễ tế Quan Thánh và lễ tế tiền hiền........................................................13
4.
Lễ tế thập loại chúng sinh.......................................................................14
5.
Lễ rước xe hoa........................................................................................14
6.
Lễ Hoa Đăng...........................................................................................15
KẾT LUẬN........................................................................................................16
Phụ Lục Hình Ảnh............................................................................................17
Danh mục tài liệu tham khảo...........................................................................18
1
Bả
o
m
LỜI CẢM ƠN
ật
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tơi đã nhận được sự chỉ bảo nhiệt
tình của thầy giáo và bạn bè để hoàn thành bài tiểu luận này. Mặc dù đã có nhiều
cố gắng, nỗ lực trong suốt quá trình thực hiện đề tài, song giới hạn về kiến thức
có những mặt hạn chế và thiếu sót. Tơi rất mong nhận được ý kiến đóng góp và
sự chỉ dẫn của thầy giáo để có thể hồn thiện bài tiểu luận kết thúc học phần tốt
hơn. Với tình cảm chân thành, tơi bày tỏ lịng biết ơn đối với Ban giám hiệu,
Khoa Văn hóa học – Trường Đại học Văn hóa TP.HCM và PGS.TS. TRẦN
HỒI ANH đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện:
VÕ THỊ NGỌC TRÂM
2
Bả
o
A. LỜI MỞ ĐẦU
m
Lý do chọn đề tài
ật
Chùa Ơng (cịn gọi là đền Quan Thánh) là một trong nhiều chùa ở Thu Xà
xưa, một thương cảng nổi tiếng của tỉnh Quảng Ngãi, nơi cộng cư giữa cộng
đồng người Hoa và người Việt. Trải qua gần 200 năm tồn tại, chùa Ông vẫn còn
giữ lại nguyên vẹn những giá trị văn hóa lịch sử của nó. Có thể nói, chùa Ơng là
một ngôi chùa cổ hiếm hoi ở Quảng Ngãi, mang nét độc đáo của sự kết hợp hài
hòa giữa hai nền văn hóa Việt - Hoa trong nghệ thuật trang trí kiến trúc và điêu
khắc của chùa Ơng Thu Xà - Quảng Ngãi trong dòng chảy mỹ thuật Việt Nam.
Chùa Ông được biết đến là mảnh đất vô cùng linh thiêng và chùa Ông dần dần trở
thành một trong những nơi thờ phụng thu hút nhiều người tín tâm đến để chiêm
bái, xin xăm, gieo quẻ, tham quan,…
Phong tục đi “ Hái lộc đầu năm, xin xăm ngày tết” đã ăn sâu vào trong sinh
hoạt văn hóa của mọi tầng lớp nhân dân ở nhiều địa phương nói chung và người
dân tỉnh Quảng Ngãi nói riêng. Nó đã trở thành một nếp sinh hoạt của đời sống
tinh thần với đủ màu sắc phong phú. Bởi thế cứ mỗi dịp tết đến xuân về, dịp lễ
hội và kể cả những ngày bình thường, khi có lịng thành kính nguyện ước điều gì
hay muốn biết vận mệnh tương lai của mình ra sao người dân lại tìm về chùa
Ơng để khấn vái, xin xăm, xin keo.
Ngồi ra chùa Ơng cịn có các lễ hội truyền thống như: lễ tế vào ngày vía
Thánh, lễ hội Xô cổ, Chưng cộ, Hoa đăng… mang nặng yếu tố giao lưu văn hóa
Hoa - Việt được thể hiện qua các hình thức như: chưng, rước cộ và được diễn ra
trong ngày rằm tháng 7 ( hay ngày lễ Vu Lan), với sự tham gia của mọi nhân dân
người Hoa hay người Việt, là lễ hội được tổ chức chu đáo phục vụ cho đời sống
sinh hoạt văn hóa tâm linh. Và việc phục dựng lễ hội chùa Ơng khơng chỉ để góp
phần bảo tồn một di tích lịch sử quốc gia mà cịn góp phần sống lại một thời phồn
hoa nơi cảng biển xưa. Lễ hội chùa Ơng khơng chỉ mang nét văn hóa tín ngưỡng
3
Bả
o
của người Hoa, người Việt mà cịn cả tín ngưỡng của cộng đồng cư dân vùng ven
m
biển miền Trung.
ật
Chính vì những điều kiện và thực tiễn như trên, tôi quyết định chọn đề tài “Lễ
hội Chùa Ông ở thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi.”
làm bài thi tiểu luận kết thúc học phần môn phong tục và lễ hội dân gian Việt
Nam, chuyên ngành Văn hóa Việt Nam.
4
Bả
o
B. NỘI DUNG
m
ật
I. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT THU XÀ, XÃ NGHĨA HỊA, HUYỆN TƯ
NGHĨA, TỈNH QUẢNG NGÃI
1. Vị trí địa lý
Quảng Ngãi là một tỉnh miền Trung ở Việt Nam, nằm ở vùng Duyên Hải
Nam Trung Bộ, lưng tựa vào dãy Trường Sơn, mặt hướng ra biển Đơng, phía
Bắc giáp Quảng Nam, phía Nam giáp Bình Định, phía Tây nam giáp Kon Tum,
phía Đơng giáp với biển Đơng. Quảng Ngãi có bờ biển dài và nhiều sơng lớn
chảy qua nên giao thông đường thủy rất phát triển.
2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Địa hình có 4 vùng: vùng núi, vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng hải
đảo. Đồi núi chiếm tới gần 2/3 lãnh thổ của Quảng Ngãi. Địa hình tương đối
phức tạp, phân hóa theo chiều Đơng sang Tây và tạo thành vùng: vùng đồng
bằng ven biển ở phía Đơng và vùng đồi núi rộng lớn chạy dọc phía Tây với
những đỉnh nhơ cao trên 1.000m.
Khí hậu
Quảng Ngãi nằm trong đới nội chí tuyến với khí hậu nhiệt đới gió mùa, nên
nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú. Một năm có
hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa nắng.
Nhiệt độ trung bình năm đạt 25,6°C– 26,9°C, nhiệt độ cao nhất lên tới 41°C.
3. Điền kiện về kinh tế-xã hội
Về kinh tế: Quãng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, có
khu vực Dung Quất là một cảng lớn có độ sâu lý tưởng để xây dựng nhà máy lọc
dầu đầu tiên của cả nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa. Quảng Ngãi
5
Bả
o
mảnh đất giàu tiềm năng đang chờ đợi đầu tư hơn nữa để trở thành một trong
m
những trung tâm phát triển ở miền Trung và là điểm du lịch thu hút khách trong
ật
và ngoài nước.
Về xã hội: Theo số liệu điều tra năm 2019, dân số khoảng 1.231.697 người.
Trong đó, dân số ở thành thị có 201.019 người (tổng 16,3%); dân số ở nơng thơn
có 1.030.678 người (tổng 83,7%). Như vậy mật độ dân số của tỉnh là 253
người/km². Dân tộc chung sống bao gồm người Kinh, Hrê, Cor, Xơ Đăng,...
ngồi ra cịn một số dân tộc khác. Qua nhiều lần tách nhập, tỉnh Quảng Ngãi
hiện có 14 đơn vị hành chính gồm: 1 thành phố, 6 huyện miền núi (Trà Bồng,
Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ), 6 huyện đồng bằng (Bình Sơn,
Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ) và một huyện đảo Lý
Sơn. Tồn tỉnh có 180 xã, phường, thị trấn (162 xã, 10 thị trấn, 8 phường). Tỉnh
lỵ Quảng Ngãi đặt tại trung tâm thành phố Quảng Ngãi.
4. Điều kiện văn hóa
Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa
Chăm Pa và có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: “núi Ấn, sông Trà”,
“Cổ Luỹ cô thôn”, bãi biển Sa Huỳnh, di tích “Thành Châu Sa”, các di tích văn
hố Sa Huỳnh, mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng ở núi Thiên Ấn,… Đến Quảng Ngãi,
du khách có dịp thăm lại chiến trường xưa, những di tích lịch sử như căn cứ địa
Ba Tơ, chiếc nơi cách mạng ở miền Trung; chứng tích tội ác chiến tranh Sơn
Mỹ; di tích khởi nghĩa Trà Bồng, chiến thắng Ba Gia; chiến thắng Vạn Tường,
…
5. Vùng đất Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi
Thu Xà trước đây nay thuộc thôn Thu Xà, xã Nghĩa Hịa, huyện Tư Nghĩa, có
diện tích tự nhiên hơn 1 km2, dân số chừng 2.500 người. Thu Xà là một phần
của tỉnh Quảng Ngãi mang đặc trưng địa lý khá thuận lợi về đường thủy, đường
sông. Từ tên làng đầu tiên là Tiên Sà khi người Việt đến khai phá và định cư,
Thu Xà đã tiếp đón các thương nhân người Trung Hoa từ miền Hoa Nam đổ về,
6
Bả
o
ban đầu chỉ dựng lên những nhà kho để chứa hàng hóa trao đổi, dần dần, do vị
m
thế bn bán thuận lợi, kinh tế phát triển, một số trong họ đã định cư tại đây.
ật
Mặt khác, cùng với việc thi hành chính sách mở cửa phát triển ngoại thương của
nhà Nguyễn cuối thế kỉ XVI đầu thế kỉ XVII, đã tạo điều kiện thuận lợi cho
những thương nhân người Hoa buôn bán, cư trú lâu dài và họ cũng mang đến
những nét văn hóa, phong tục tập qn, tín ngưỡng đặc trưng của q hương
mình. Từ đó thương cảng và phố cổ Thu Xà được thành lập và ngày một phát
triển.
Người Hoa rất trọng lễ tiết, tư tưởng cội nguồn luôn tồn tại trong tâm thức
nên dù đi đâu, họ ln thể hiện đời sống văn hóa, tín ngưỡng ở nơi mình sinh
sống. Điều này lý giải vì sao ở Thu Xà có nhiều cơng trình kiến trúc mang đậm
phong cách Trung Hoa như: chùa Ông, chùa Bà cùng các hội quán của tứ bang
(Triều Châu, Quảng Đông, Hải Nam, Phúc Kiến)… Hầu hết các cơng trình này
đều bị tàn phá trong thời kỳ chiến tranh. Sau năm 1975, một số đền, chùa, miếu,
hội quán cũng đều bị xuống cấp vì khơng được bảo tồn, tơn tạo. Chỉ có chùa
Ơng cịn tương đối ngun vẹn và trở thành chứng tích cho sự giao lưu văn hóa
Việt - Hoa ở Quảng Ngãi.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH CHÙA ƠNG VÀ KIẾN TRÚC CHÙA ƠNG
THU XÀ.
1. Lịch sử hình thành
Chùa Ơng (Quan Thánh Tự) tọa lạc ở thị tứ Thu Xà, xã Nghĩa Hòa, huyện Tư
Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi; cách tỉnh lỵ Quảng Ngãi 10 km về hướng Đơng. Chùa
Ơng với sự kết hợp kiến trúc hài hồ giữa hai nền văn hố Hoa - Việt được
thành lập từ thế kỷ XVII bởi 4 tộc họ người Hoa Minh Hương sống tại vùng Thu
Xà kiến lập vào năm Minh Mạng thứ hai (năm 1821) gồm: Triều Châu, Phúc
Kiến, Quảng Đông và Hải Nam. Mặc dù đã trải qua 4 lần trùng tu vào các năm
1881, 1894, 1920 và năm 1991 với sự đóng góp tiền của quan lại ở triều nhà
Nguyễn, thương gia và dân chúng ở tỉnh Quảng Ngãi. Tuy trải qua nhiều binh
7
Bả
o
lửa, phố cổ Thu Xà đã bị chiến tranh tàn phá tan hoang, chùa chiền cũng bị hư
m
hỏng rất nhiều nhưng chùa Ông vẫn giữ được nguyên vẹn. Chùa thờ Quan Cơng
ật
là ở gian chính diện, Phật Quan Âm Nam Hải là ở gian hậu cung. Tổng thể
chung, chính điện và hậu cung vẫn liên kết trong một chỉnh thể kiến trúc thống
nhất, theo mơ hình “Tiền thánh hậu Phật” khá phổ biến trong các miếu mạo,
đình chùa của Việt Nam. Điều này thể hiện yếu tố văn hóa Việt đã ảnh hưởng rõ
nét đến việc thờ tự của người Hoa ở đây. Ngồi ra ở hậu cung cịn có cụm tượng
Thiên Hậu với Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ, Cửu Thiên Huyền Nữ và cụm
tượng Kim Đẩu cùng với 12 bà mụ.
Cộng đồng người gốc Hoa Nam, sống phiêu bạt ở nhiều nơi trên thế giới đặc
biệt tôn thờ và ngưỡng vọng Quan Vũ (hay gọi là Quan Công, hiệu Vân Trường,
vị tướng phò Lưu Huyền Đức nhà Thục Hán, thời Tam Quốc, bên Tàu), vì ơng
là người trung tín, trượng nghĩa, đây là những đức tính cần thiết giúp họ giữ mối
kết đoàn, tương trợ để tồn tại và vươn lên trong cuộc sống nhiều khó khăn, bất
trắc, gian nan.
Khi rời quê hương ra đi, hầu hết người Hoa Nam theo đường biển. Trong
cuộc hải hành nhiều ngày lênh đênh trên biển, họ luôn cầu khẩn Quán Thế Âm
Bồ tát (Phật Quan Âm Nam Hải) và Thiên Hậu thánh mẫu (bà Thiên Hậu) phù
hộ, độ trì để vượt qua sóng to, gió lớn để tìm được chốn an lành dung thân. Sự
tôn sùng của các bang hội Hoa Nam đối với Quan Vân Trường, Phật Quan Âm
Nam Hải và bà Thiên Hậu lại phù hợp với tín ngưỡng và niềm tin của người
Việt, đặc biệt là cư dân vùng ven biển. Chính vì vậy, chùa Ơng, tuy ban đầu do
tứ bang Minh hương tạo lập, nhưng dần đã trở thành nơi thờ phụng chung cho
người Việt lẫn người Hoa.
2. Kiến trúc chùa Ông
Theo hồ sơ của Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Quảng Ngãi, diện tích chùa Ơng là
4186 m2, bao gồm vườn chùa, tam quan, sân chùa và chùa. Tất cả được bao bọc
bởi một vòng thành cao 1,2 m và dày 0,5 m theo kiểu chấn song con tiện. Chùa
8
Bả
o
quay mặt về hướng Đơng. Từ ngồi vào, các cơng trình của chùa gồm tam quan,
m
bình phong và trụ biểu, lầu trống và lầu chng, chánh điện được bố trí theo một
ật
trục đạo với một bố cục chặt chẽ, đăng đối và tuần tự. Hai bên mặt tiền có hai
cổng phụ thấp, phía sau chùa là miếu thờ Tiêu Diện Đại Sỹ. Chùa được kiến trúc
theo kiểu chữ tam gồm ba ngôi nhà liên kết nhau: tiền đường, chánh điện và hậu
cung. Nghệ thuật trang trí ở chùa Ơng Thu Xà cũng đạt đến trình độ tinh xảo,
đặc biệt là các kỹ thuật chạm nổi, chạm thủng, chạm lộng trên các bình phong,
cột, khám thờ, tượng, diềm bia…
Về quy mơ, so với những ngôi chùa thờ Quan Công ở Hội An (Quảng Nam),
hay chùa Ơng ở Tp.HCM thì chùa Ơng có vẻ khiêm nhường, nhưng ở đây có sự
kết hợp hài hòa các yếu tố kiến trúc Việt - Hoa trong một tổng thể giàu tính
thẩm mỹ. Chùa Ơng Thu Xà đã được Bộ Văn hóa – Thể thao và du lịch cơng
nhận bằng di tích quốc gia theo quyết định số 43 VH QĐ ngày 7 tháng 1 năm
1993.
Cổng tam quan chùa có cấu trúc một gian, bốn cột, hai bộ vì chống rường trái
bí, theo lối tam hồnh. Hồnh thứ ba uốn cong hình thuyền trang trí đầu rồng
đi phượng. Các hồnh liên kết với nhau qua các vì chồng và gác qua đầu cột.
Mái tam quan lợp ngói âm dương, đỉnh mái uốn cong dáng thuyền, trang trí hình
rồng, đi phủ dây leo thực vật. Bờ mái trang trí dạng ơ hộc với năm ơ trang trí.
Hai bên tả hữu cổng tam quan là miếu thờ bà Thiên Hậu.
Bình phong cao 2m, bằng tam hợp chất, mặt trước đắp nổi hình mãnh hổ nhe
răng vểnh đi trơng rất sống động, mặt sau đắp nổi hình con ly trên cụm mái.
Hai bên bình phong là hai trụ biểu. Lầu chuông, lầu trống xây dựng đăng đối
qua trục đạo.
Chùa Ơng có kiến trúc tổng thể hình chữ tam (三 ) với ba ngôi nhà liên kết
nhau: tiền đường, chánh điện và hậu cung. Trên đỉnh bờ mái nhà tiền đường đắp
nổi ba chữ Hán “Quan Thánh Tự”. Mặt trước mở ba cửa lớn và hai cửa vòm
9
Bả
o
nhỏ. Trong nhà tiền đường có 18 cột chia làm ba gian, hai chái. Hàng cột hiên
m
gồm 6 cột thấp, nâng lên bởi các bệ đá hình cẩm đơn.
ật
Năm 1920, trùng tu thời Khải Định kiến trúc của chùa đã có sự thay đổi.
Chùa có 6 văn bia chữ Nho chia thành 2 loại: loại có niên hiệu Thành Thái thứ 7
(năm 1895) và văn bia niên hiệu Khải Định Canh Thân (năm 1920) là các năm
đã trùng tu chùa. Kết quả trùng tu này, nhằm đưa mặt tiền của kiều dáng nhà
rường lên cao hơn. Khung nhà gồm 4 bộ vì kèo vỏ cua kiểu chồng rường - giả
thủ, chạm nổi đầu rồng với các đám mây lửa, các đường viền dây leo thực vật.
Mặt hồnh chạm nổi hình hoa cúc tám cánh sắc nét và sinh động. Các vì kèo thả
xi từ vì vỏ cua gác qua đầu cột giữa và chốt mộng ở hàng cột hiên.
Vách tiền đường và mặt trước chánh điện là hai hệ thống cửa bàn khoa, một
kiểu cửa gỗ chấn song thấp thường gặp ở Quảng Ngãi trước đây. Trên đỉnh
khung cửa đính sáu mắt cửa hình trịn, giữa kht lịng chảo chấm đỏ, xung
quanh màu vàng. Phía trên của hệ thống mắt cửa là tam xà, đỡ hệ thống liên ba
đố bảng. Các liên ba đố bảng trang trí theo 3 nhóm: bát bửu, tứ linh và dây leo
thực vật, đăng đối ở 2 bên cửa vào. Các chủ đề trang trí được thể hiện bằng kỹ
thuật chạm thủng và chạm nổi ở từng ô bảng lồng. Phần giữa của hai dãy liên ba
đố bảng chạm nổi họa tiết trang trí lưỡng long tranh châu, bên dưới gắn bức
hoành phi bằng gỗ sơn son thiếp vàng với dòng chữ Hán “Hạo nhiên chánh khí Trung tâm quán nhựt”.
Nối liền nhà tiền đường và chánh điện là 4 bốn vì trính cầu. Các vì trính cầu
gác qua đầu cột vách của nhà tiền đường và hàng cột trước của nhà chánh điện
nhằm đỡ máng xối thốt nước.
Nhà chánh điện có 12 cột, được chia thành 3 gian: Gian thờ Quan Công ở
giữa, tạo sự riêng biệt bằng 4 cột to, cao. Đầu cột nâng bộ vì kèo chồng rường
chày cối (đâm trính), gắn “cánh dơi” (một bảng gỗ chỗi hình cánh dơi) ở đầu
10
Bả
o
trụ chồng gánh đỡ thượng lương, địn tay, tránh khơng cho đầu trụ chồng đụng
m
vào thượng lương, vì đây là điều kiêng kỵ.
ật
Đế trụ chồng hình khối, chạm nổi dây leo thực vật. Bộ vì kèo chồng rường
chày cối nâng mái lên cao đồng thời mở mái phía trước theo dạng chấn song con
tiện để đưa ánh sáng và không khí vào chánh điện.
Vách gỗ sau chánh điện trang trí ô hộc. Hai đầu vách là hai cánh cửa hông
nhỏ thông qua hậu cung, giữa vách là khám thờ Quan Công. Khám thờ cao hơn
2m, bằng gỗ, sơn son thiếp vàng, khắc chạm mơ típ lưỡng long tranh châu ở
đỉnh, hai bên chạm lộng mơ típ cành mai - hoa cúc, đầu rồng - đuôi dây leo.
Đây là một tác phẩm điêu khắc gỗ cơng phu, độc đáo, giàu tính thẩm mỹ.
Hình tượng thờ trên bệ, bên cạnh Quan Cơng có Chu Thương (đứng hầu bên
phải), Quan Bình (đứng hầu bên trái). Chu Thương là tướng của Quan Vũ, có
sức khỏe, giỏi bơi lội, tự vẫn khi Quan Vũ bị Đơng Ngơ sát hại. Quan Bình là
con ni và là tướng của Quan Vũ, cùng cha nuôi bị quân Đông Ngô chém chết
ở Lâm Thư. Cả 3 vị được xem là “tam vị thánh thần” trong tín ngưỡng của
người Hoa.
Bên tả và bên hữu thờ của gian thờ Quan Công là các gian thờ Thần tài, Thổ
trạch, ngựa xích thố, tả ban và hữu ban tùng tự.
Tiếp sau chánh điện là hậu cung, thông nhau bằng 2 cửa phụ. Nhà hậu cung
có 3 gian, bộ khung có 8 cột vng, chống đỡ 4 vì trính chuyền xun suốt lịng
nhà. Trính chuyền gác lên đầu cột và vách, đỡ bộ vì kèo cánh ác nhờ hai cột
trốn. Đỉnh vì kèo cánh ác có hồnh ngang giằng giữa hai bộ vì kèo và đỡ bộ vì
chồng rường trái bí. Bộ vì chồng rường trái bí có 3 vì chống ngắn đỡ thượng
lương và đòn tay hai bên. Vách sau hậu cung là cửa chấn song thấp. Vách hơng
có một cửa vịm nhỏ để ra vào.
11
Bả
o
Gian giữa của hậu cung thờ Quán Thế Âm Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát và
m
Chuẩn Đề Bồ Tát, giữa có bức họa Đạt Ma tổ sư qua sơng. Hai gian phụ hai bên
ật
thờ cụm tượng Thiên Hậu và Kim Đẩu. Cụm tượng Thiên Hậu có 5 tượng:
Thiên hậu, Cửu Thiên Huyền Nữ, Phán Quan, Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ.
Cụm tượng Kim Đẩu gồm: Kim Đẩu, Phán Quan và 12 bà mụ. Tượng thờ ở hậu
cung làm bằng đồng, gỗ hoặc đất nung, chế tác công phu, sinh động, nhiều kích
cỡ khác nhau, bài trí quay mặt ngược hướng tượng thờ ở gian chánh điện. Mặc
dù liên kết với nhà chánh điện trong một chỉnh thể kiến trúc, song hậu cung lại
là ngôi chùa thờ Phật, mặt tiền hướng về phía tây, có gắn ba chữ Quang Minh tự
(光 明 寺). Đối diện Quang Minh tự là am thờ Tiêu Diện Đại Sỹ - một hóa thân
của Quán Thế Âm Bồ Tát, chuyên hàng phục quỷ yêu, hóa độ chúng sanh.
Nhìn chung, nghệ thuật trang trí ở chùa Ơng đạt đến trình độ khá tinh xảo,
đặc biệt là kỹ thuật đắp nổi, chạm nổi, chạm thủng, chạm lộng trên các bình
phong, vách gỗ, khám thờ, vì kèo, bẫy hiên, trụ chồng, tượng, diềm bia...
Chùa Ơng có sự giao thoa, kết hợp hài hòa giữa các yếu tố kiến trúc của
người Việt và người Hoa. Bên cạnh cấu kiện và vật liệu chủ yếu của nhà rường
truyền thống ở miền Trung (các vì kèo chồng rường chày cối, vì kèo chồng
rường giả thủ) cịn có sự xuất hiện vì kèo trốn trính chuyền của đồng bằng Bắc
Bộ và bộ vì kèo chồng rường trái bí phong cách Hoa Bắc.
Hình thuyền rồng với các khoang thuyền mô tả rất cụ thể trên đỉnh mái tam
quan, sáu mắt cửa trên đỉnh hệ thống cửa chánh điện cho thấy các yếu tố tâm
linh - tín ngưỡng của cư dân vùng ven biển Hoa Nam.
III. LỄ HỘI CHÙA ÔNG Ở THU XÀ, HUYỆN TƯ NGHĨA, TỈNH
QUẢNG NGÃI
Chùa Ông là một trong những địa điểm sinh hoạt tín ngưỡng nổi tiếng nhất ở
tỉnh Quảng Ngãi, nơi đây thu hút nhiều người đến tham quan, chiêm bái, nhất là
vào các dịp tết Nguyên đán, tết Đoan ngọ, lễ Phật đản hay lễ Vu lan báo hiếu...
12
Bả
o
Hằng năm, nơi đây cịn có lễ hội chùa Ơng Thu Xà với nhiều hoạt động đậm sắc
m
màu văn hóa, tâm linh. Nội dung tổ chức của lễ hội, gồm có các hoạt động như:
ật
tổ chức những nghi thức tế lễ Quan Thánh, Tiền hiền ở bên trong chùa Ông và lễ
đăng đàn chẩn tế thập loại chúng sinh ở bên ngồi chùa Ơng và các phần hội
như: chưng và rước xe hoa dọc theo tuyến đường thôn Thu Xà, múa lân, thả hoa
đăng, phóng sinh, phát lộc và nghi thức diễu hành xe hoa dọc con đường thôn
Thu Xà. Lễ hội chùa Ông Thu Xà thấm đẫm tinh thần nhân văn (cầu quốc thái
dân an, tế cáo âm hồn…).
1. Lễ Túc yết
Lễ hội diễn ra từ ngày 14 và 15 tháng 7 âm lịch, thu hút đông đảo du khách
khắp nơi gần xa đổ về về hành hương, vãn cảnh, cầu nguyện. Trước ngày lễ
chính thức diễn ra, buổi chiều ngày 14, Ban tế tự chùa Ông sẽ tổ chức Lễ túc yết
để tế cáo Quan Thánh, thành hoàng bổn xứ và tiền hiền. Buổi tế sẽ được thực
hiện qua các bước sơ hiến, á hiến và chung hiến lễ. Sau đó đến nghi thức tế cáo
âm hồn ở ngoài sân.
2. Lễ Dâng hương
Khi kết thúc buổi tế nhân dân đến dự lễ sẽ dâng hương tại các ban thờ trong
chùa để cầu mong một cuộc sống bình yên và gửi gắm những ước nguyện tốt
đẹp đến các vị thần linh và đức Quan Thánh.
3. Lễ tế Quan Thánh và lễ tế tiền hiền
Sáng ngày 15 tháng 7, lễ hội sẽ chính thức được tổ chức với nghi thức múa
lân ở tại sân chùa, sau đó đến lễ tế Quan Thánh tại chánh điện và lễ tế tiền hiền.
Buổi lễ sẽ được thực hiện qua các bước tế như: sơ hiến, á hiến và chung hiến lễ.
Nhạc lễ sẽ được vang lên trong suốt thời gian tế lễ để phụ họa cho từng nghi
thức lễ, làm cho buổi tế thêm trang nghiêm và sinh động hơn. Trong thực hành
nghi lễ cịn có một đội học trị gia lễ di chuyển từ phía ngồi sân vào bên trong
chánh điện để dâng rượu, dâng trà theo mỗi bước tế.
13
Bả
o
Kết thúc nghi thức tế tại điện Quan Thánh là đến nghi thức tế tiến hiền tại
m
ban thờ tiền hiền ở tại Chánh điện. Sau khi kết thúc các nghi lễ ở bên trong chùa,
ật
nhân dân đến dự lễ sẽ vào dâng lễ vật và dâng hương tại các ban thờ Phật, Quan
Thánh, Tiền hiền, Hậu hiền.
4. Lễ tế thập loại chúng sinh
Nghi lễ tế thập loại chúng sinh ở phía bên ngồi sân được diễn ra vào buổi
chiều. Trước khi tế âm hồn người ta sẽ tổ chức lễ phóng sinh ở bên đàn tế, hàng
trăm lồi chim bồ câu, chim sẻ được phóng sinh trên bầu trời gửi theo những lời
cầu nguyện cho xóm làng được bình n, cho cuộc sống được hạnh phúc, ấm no
và bình yên. Đến giờ lành sẽ có 1 vị chủ tế và 2 người phụ tế (đọc kinh) và vị
chánh tế lễ hội sẽ bắt đầu thực hiện nghi lễ tế thập loại chúng sinh. Vị sư chủ tế
sẽ đăng đàn và ngồi đối diện với đàn tế, đứng bên cạnh đó là ông Chánh tế lễ hội
và ngồi đối diện với vị sư chủ tế sẽ là 2 vị sư phụ tế. Đặt ở trước mặt vị chủ tế là
1 bát gạo, 1 bát muối và 1 đĩa đặt những đồng tiền lẻ. Trong quá trình thực hiện
các nghi lễ, vị sư chủ tế sẽ trộn gạo với muối và tiền lẻ vãi ra xung quanh để
nhân dân dự lễ sẽ nhận lấy, theo quan niệm của những người dân việc giành lấy
được những đồng tiền lẻ, vài hạt gạo, vài hạt muối như đồng nghĩa với sự ban
lộc của thần Phật cho con người và con người sẽ gặp được nhiều may mắn trong
cuộc sống. Sau khi vị hòa thượng cúng xong dân làng sẽ đến xô cỗ và tranh
nhau giành lấy các lễ vật, hoa quả tạo nên một bức tranh sinh động và náo nhiệt.
5. Lễ rước xe hoa
Đến cuối buổi chiều, lúc ánh mặt trời vừa tắt, dân làng sẽ tiến hành tổ chức
lễ rước các xe hoa được trang trí các hình ảnh mang yếu tố Phật giáo đi khắp
con đường làng. Xe đầu tiên chưng cụm tượng Quan Thánh, xe thứ hai sẽ chưng
hình ảnh Phật bà Quan Âm, xe thứ 3 là xe chưng Mục Kiều Liên. Đồn rước
gồm có: đi đầu là một đội lân sư rồng, tiếp theo là 14 thanh niên tay cầm lỗ bộ,
10 thanh niên tay cầm cờ, 10 thanh niên tay cầm đuốc được thắp sáng và 10
thiếu nữ xinh đẹp sẽ gánh những chiếc đèn lồng lung linh tỏa sáng được trang trí
14
Bả
o
những bông hoa. Sau các thiếu nữ sẽ là 3 xe hoa rực rỡ ánh đèn, đi cuối cùng là
m
các chức sắc trong làng và dân chúng cùng tham gia diễu hành. Những chiếc xe
trong làng tạo nên một bầu khơng khí hội rất náo nhiệt và sơi động.
ật
được trang trí rất sinh động và đồn diễu hành được bắt đầu từ chùa Ông đi khắp
6. Lễ Hoa Đăng
Lễ Hoa Đăng diễn ra ở sông Vực Hồng, khi mọi dân làng đã tề tựu đông đủ,
ban tổ chức lễ sẽ ra hiệu cho các thuyền chở hoa đăng thả hàng trăm ngọn hoa
đăng nối đuôi nhau trôi lững lờ ở trên dịng sơng, tỏa ánh sáng lung linh xuống
dịng sơng để nhớ những người từng ngược xi trên dịng sơng đưa những
thương thuyền ra khơi xa, tỏa đi muôn nơi chở theo quế, sa nhân, đường phổi,
đường phèn và khi trở về đầy ắp tơ lụa bán cho dân trong vùng; những ngư dân
đã bỏ mình nơi biển cả... với những lời nguyện cầu cho linh hồn những người đã
khuất được siêu thốt và cầu mong cho gia đình, làng xóm ln được bình an và
sức khỏe. Sau lễ hoa đăng, đồn diễu hành sẽ quay trở về chùa Ơng và làm lễ an
vị Quan thánh tại chùa. Kết thúc lễ hội sôi động, ẩn chứa rất nhiều giá trị văn
hóa tâm linh và đầy tính nhân văn, vì vậy lễ hội chùa Ơng khơng chỉ mang nét
văn hóa tín ngưỡng của người Hoa, người Việt mà cịn cả tín ngưỡng của cộng
đồng cư dân vùng ven biển miền Trung.
15
Bả
o
KẾT LUẬN
m
Về huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), ngoài đặc sản kẹo gương Thu Xà nổi
ật
tiếng, chúng ta khoonh thể nào bỏ lỡ cơ hội đến vãn cảnh chùa Ông Thu Xà. Về
đây, chúng ta sẽ được chứng kiến những nét tinh hoa, nét độc đáo trong kiến
trúc chùa, được nghe các vị cao niên kể những giai thoại gắn với chùa và nhất là
cảm nhận được sự bình yên, thư thái trong tâm hồn. Chùa Ông Thu Xà là một
trong “ngũ đại danh tự” của tỉnh Quảng Ngãi (cùng với chùa Thiên Ấn, chùa
Hang Lý Sơn, chùa Hoa Nghiêm và chùa Diêm Điền), chùa Ơng được cơng
nhận là Di tích quốc gia vào năm 1993 và được mệnh danh là một trong những
ngôi chùa linh thiêng nhất ở Quảng Ngãi, nơi đây không những thu hút được
nhiều người dân ở địa phương mà cịn có sức hút đến tất cả người dân ở mọi
miền đất nước cùng về tham quan, vãn cảnh, cầu nguyện,… Chùa Ông dần trở
thành một trong những nơi thờ phụng trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thu hút
nhiều người tín tâm đến chiêm bái, xin xăm, gieo quẻ.
Ở chùa Ông nhiều thế kỷ trước năm nào cũng tổ chức lễ hội, thu hút mọi ánh
nhìn của người dân ở Thu Xà và mọi người khắp nơi gần xa đổ về. Người dân
thắp hương tế Đức Quan Thánh ở trong chùa, thắp hương dưới tượng Phật Bà
Quan Âm, bà Thiên Hậu và ngay cả dưới tượng ngựa Xích Thố của đức Quan
Thánh. Lễ hội truyền thống được tổ chức mỗi năm ở chùa Ông Thu Xà phải kế
đến lễ tế vào ngày vía Thánh, lễ hội Xơ cổ, Chưng cộ, Hoa đăng… Lễ hội mang
nặng yếu tố giao lưu văn hóa Hoa - Việt. Vì vậy, lễ hội chùa Ơng Thu Xà khơng
chỉ mang nét văn hóa tín ngưỡng của người Hoa, người Việt mà cịn cả tín
ngưỡng của cộng đồng cư dân vùng ven biển miền Trung.
16
Bả
o
Phụ Lục Hình Ảnh
m
ật
Hình 1, 2. Chùa Ơng Thu Xà và Tượng ngựa Xích thố thờ trong chùa Ơng
(Ảnh: Nguồn internet.)
Hình 3, 4. Gian chính điện thờ Quan Cơng và Gian chính hậu cung thờ Phật
Bà Quan Âm Nam Hải (Ảnh: Nguồn internet.)
17
Bả
o
Danh mục tài liệu tham khảo
m
ật
Nguồn internet:
1. . Truy cập ngày 5/5/2022.
2. . Truy cập ngày 5/5/2022.
3. />gidzl=rQHAIWDKZGJMkqX914kB1z6vJqqOGOjNoBL7IKv7YWQGv
HqOGXROLf7WJab44Di4bBKSHcJdmVHx05E81m. . Truy cập ngày
5/5/2022.
4. o/quang-ngai/le-hoi-chua-ong-thu-xa-tai-quang-ngai-j2 .
Truy cập ngày 5/5/2022.
5. />Truy cập ngày 5/5/2022.
6. . Truy cập ngày 5/5/2022.
7. . Truy cập ngày 5/5/2022.
18
.