SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY TRẺ DÂN TỘC THIỂU SỐ 5 – 6 TUỔI Ở
VÙNG ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN HỌC TỪ VÀ NÓI MẠCH LẠC THEO
QUAN ĐIỂM LẤY TRẺ LÀM TRUNG TÂM”
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất. Ngôn ngữ chính thức của
dân tộc Việt Nam được dùng trong nhà trường và các cơ sở giáo dục từ mầm non
đến đại học chính là Tiếng Việt. Đặc biệt, trường Mầm non là môi trường đầu tiên
dạy cho trẻ về cách phát âm, nói như thế nào cho đúng ngơn ngữ phổ thông. Riêng
đối với trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số, tiếng Việt được coi là ngôn ngữ thứ hai
của trẻ, đóng một vai trị vơ cùng đặc biệt quan trọng trong việc phát triển tư duy,
hình thành và phát triển nhân cách; là công cụ để trẻ giao tiếp, học tập, vui chơi.
Tiếng Việt trong nhà trường tồn tại với hai tư cách: vừa là một môn học vừa
là công cụ giao tiếp, học tập của học sinh. Thực tế cho thấy chất lượng học tập của
học sinh dân tộc thiểu số phụ thuộc rất nhiều vào khả năng sử dụng tiếng Việt.
Những rào cản về mặt ngôn ngữ khiến trẻ càng thêm nhút nhát, rụt rè, khơng tự tin
nên để trẻ được nghe nói, giao tiếp tiếng Việt, tắm mình trong mơi trường tiếng nói
và chữ viết tiếng Việt trước khi vào lớp 1 sẽ vững vàng trong tiếp nhận kiến thức,
bình đẳng và phát triển ngơn ngữ.
Trường nơi tơi cơng tác là một xã có địa bàn vùng sâu có điều kiện kinh tế
khó khăn. Do địa hình ở vùng núi cách biệt, hiểm trở đến nay trường vẫn còn 3
điểm. Học sinh trong trường có đến 98% là đồng bào dân tộc Thái, trong những
năm qua tuy có sự phát triển và giao thoa văn hóa với các dân tộc khác, nhưng
người Thái nơi đây vẫn còn lưu giữ được những nét bản sắc riêng của dân tộc
mình. Người dân hầu như sử dụng tiếng Thái trong giao tiếp hàng ngày, thế nên
các cháu đến trường cũng thường xuyên giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ là
điều tất yếu. Đặc biệt là đối với trẻ 5 - 6 tuổi chuẩn bị có sự chuyển tiếp để bước
sang một cấp học mới nhưng vẫn cịn có nhiều trẻ chưa thực sự nói tiếng Việt một
cách lưu loát và thành thạo. Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ trong q trình phát
triển của trẻ và gây nhiều hạn chế trong việc nhận thức về các lĩnh vực của chương
trình chăm sóc giáo dục, đặc biệt theo chuyên đề “Lấy trẻ làm trung tâm”.
Trong quá trình chăm sóc giáo dục các cháu tơi thấy được mặc dù đã được
quan tâm về tăng cường tiếng Việt song trẻ chưa thật sự hứng thú để tiếp thu, nhận
thức của trẻ là người dân tộc thiểu số còn hạn chế vì vốn tiếng Việt chưa đáp ứng
được yêu cầu dẫn đến chất lượng dạy và học cịn thấp, các hình thức tổ chức vẫn
cịn bó hẹp chưa phát huy được tính tích cực sáng tạo và sự chủ động tiếp thu từ
trẻ...từ đó tơi đề ra cho mình nhiệm vụ là phải nghiên cứu giúp cho trẻ có thể nói
1
và giao tiếp bằng tiếng Việt để trẻ bước vào lớp 1 một cách tự tin và đạt kết quả tốt
nhất. Do đó tơi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp dạy trẻ dân tộc thiểu
số 5-6 tuổi ở vùng đặc biệt khó khăn học từ và nói mạch lạc theo quan điểm
lấy trẻ làm trung tâm” để các em tự tin trong giao tiếp và có kiến thức cơ bản
trước khi bước vào lớp 1.
PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. CƠ SỞ KHOA HỌC
1. Cơ sở lý luận
Thực hiện Nghị quyết số 1008/QĐ- TTG về việc phê duyệt đề án lồng ghép
tăng cường Tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh vùng dân tộc thiểu số giai đoạn
2016-2020, định hướng 2025 với mục tiêu tập trung tăng cường Tiếng Việt cho trẻ
mầm non, học sinh tiểu học vùng dân tộc thiểu số, đảm bảo các em có kỹ năng cơ
bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hồn thành chương trình giáo dục mầm non,
tạo điều kiện để học tập lĩnh hội tri thức ở các cấp học tiếp theo góp phần nâng cao
chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số góp phần vào sự
tiến bộ và phát triển đất nước.
V.I.Lênin từng khẳng định: “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của con người”. Sử dụng ngôn ngữ tốt khơng thể khơng kể đến q trình học
từ và yếu tố mạch lạc. Ngôn ngữ mạch lạc là ngôn ngữ có nội dung rõ ràng, cụ thể,
trình tự, logic, có thể sử dụng hỗ trợ bằng các quan hệ từ, câu chuyển ý,… được
người nghe lĩnh hội và hiểu đúng. Sử dụng ngôn ngữ mạch lạc đúng phổ thông
tiếng Việt cũng thể hiện được năng lực tư duy và hiểu vấn đề của trẻ.
Trẻ càng lớn vốn từ càng tăng nhanh, khi trẻ 5 tuổi là 200 từ và khi lên 6
tuổi trẻ đạt đến 500 từ. Độ tuổi 5-6 tuổi là giai đoạn trẻ dần hoàn thiện về mọi
phương diện của hoạt động tâm lý: nhận thức, tình cảm và ý chí... để hồn thành
những cơ sở ban đầu về nhân cách con người. Tuy nhiên đa số trẻ vùng sâu, vùng
dân tộc thiểu số trước khi đến trường thường chỉ sống ở gia đình, các thơn bản nhỏ,
trong môi trường tiếng mẹ đẻ do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu
ngữ, do vậy tiếng Việt không phải là phương tiện sử dụng dễ dàng đối với trẻ dân
tộc thiểu số.
Vì vậy, cung cấp từ và dạy trẻ nói mạch lạc là hoạt động cần thiết đối với trẻ
dân tộc, giúp học sinh chưa biết hoặc biết ít tiếng Việt học tập và sử dụng tiếng
Việt một cách đơn giản hơn.
2. Cơ sở thực tiễn
Tăng cường năng lực về tiếng Việt cho trẻ mầm non dân tộc thiểu số là một
trong những yếu tố giúp nâng cao chất lượng giáo dục ở miền núi. Vấn đề này đã
được Phòng Giáo Dục và Đào tạo huyện Quỳ Hợp triển khai nhiều năm nay, được
sự quan tâm của các đồn thể chính quyền địa phương và giáo viên người dạy. Mặc
2
dù đã có chuyển biến tích cực, tuy nhiên kết quả đạt được vẫn chưa thực sự như
mong muốn.
Trường chúng tôi các cháu học sinh là người dân tộc Thái, với văn hóa bản
địa, đặc trưng ngơn ngữ và khả năng tiếp nhận tiếng Việt khác nhau. Các cháu đi
học đa số trẻ chỉ biết nói một số từ tiếng Việt thơng dụng số cịn lại chưa biết từ
nào hoặc biết rất ít. Các cháu cũng đang ở độ tuổi hồn thiện phát âm, nên hầu như
nói lệch chuẩn tiếng Việt. Giáo viên phải mất hàng tháng trời mới tập cho các cháu
quen với môi trường sinh hoạt tập thể và đặc biệt các em có hồn cảnh gia đình
khó khăn, trình độ dân trí thấp nhận thức về giáo dục và chăm lo việc học của trẻ
còn hạn chế vì vậy việc phối hợp với cha mẹ trẻ để nâng cao chất lượng giáo dục
trẻ gặp khơng ít khó khăn. Một điều đáng lưu ý là nhiều trẻ có bố mẹ đi làm ăn xa
gửi con lại cho ông bà, khiến nhà trường gặp khó khăn trong phối hợp với gia đình
tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
Những năm vừa qua xã cũng đã có nhiều sự thay đổi, đường xá đi lại thuận
tiện hơn, có nhiều giáo viên người kinh từ miền xuôi lên công tác. Nhưng sự bất
đồng ngôn ngữ hay chưa hiểu biết nhiều về phong tục tập quán địa phương gây nên
những bất cập trong công tác tăng cường tiếng Việt nâng cao chất lượng dạy học
cho trẻ dân tộc thiểu số. Nhiều cô giáo trẻ mới vào nghề chưa có nhiều kinh
nghiệm về chun mơn nên cịn gặp nhiều khó khăn trong cơng tác tổ chức các
hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số.
Trong toàn huyện nhiều giáo viên cũng đã đưa ra được các sáng kiến hay về
việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ trong trường mầm non. Tuy nhiên các sáng kiến
chưa chú trọng đến việc “dạy trẻ dân tộc thiểu số 5- 6 tuổi ở vùng đặc biệt khó
khăn học từ và nói mạch lạc theo quan điểm lấy trẻ làm trung tâm”. Vấn đề tưởng
chừng như đơn giản nhưng đây chính là mấu chốt để giúp trẻ nhỏ có thể lĩnh hội tri
thức do giáo viên truyền đạt, trẻ khơng chỉ nói rõ tiếng mẹ đẻ mà nhất thiết phải
nói và sử dụng Tiếng Việt thành thạo.
Để thực hiện và khắc phục các vấn đề đó tơi đưa ra một số giải pháp mà bản
thân đã tích lũy bằng những kinh nghiệm thực tế giảng dạy, phù hợp đối tượng,
điều kiện của đơn vị, địa phương để thực hiện hiệu quả việc tăng cường tiếng Việt
cho trẻ dân tộc thiểu số, nâng cao chất lượng giáo dục như: Xây dựng môi trường
tăng cường Tiếng việt phong phú, đa dạng, phù hợp với độ tuổi và nhận thức của
trẻ; Đổi mới hình thức tổ chức để dạy trẻ học từ và nói mạch lạc hợp lý vào các
hoạt động giáo dục trẻ trong ngày; Phát triển vốn từ và khả năng diễn đạt mạch
lạc thông qua các hoạt động tập thể; Tổ chức tốt các hoạt động tăng cường tiếng
việt cho trẻ.
II. THỰC TRẠNG
Tôi là một giáo viên đứng lớp cũng là người dân tộc thiệu số được nhà
trường phân công giảng dạy lớp mẫu giáo lớn, số học sinh được giao là 28 cháu
3
trong đó có 28/28 cháu là người dân tộc thái, chiếm tỷ lệ 100%; Qua q trình thực
hiện tơi nhận thấy có một số thực trạng như sau:
1. Thuận lợi:
- Nhà trường quan tâm tới công tác tăng cường tiếng Việt cho trẻ, xây dựng
được cơ sở vật chất khang trang, tương đối đảm bảo, diện tích lớp học đảm bảo,
thoáng mát.
- Bản thân là giáo viên người dân tộc thiểu số, có học thêm về có trình độ
chun mơn trên chuẩn, nắm bắt nhanh các nội dung, linh hoạt trong tổ chức hoạt
động giúp trẻ phát triển, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ và biết ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy.
- Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi, sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều
kiện của lớp và nhà trường.
- Phụ huynh đã quan tâm phối hợp cùng giáo viên trong công tác giáo dục.
2. Khó khăn:
* Về giáo viên:
- Giáo viên trực tiếp đứng lớp ít được tham gia học tập các tiết dạy.
- Một số giáo viên cịn sử dụng ngơn ngữ địa phương tiếng Nghệ khi dạy và
giao tiếp với trẻ hay một số giáo viên nói tiếng phổ thơng pha lẫn tiếng Thái như
thói quen của trẻ.
- Giáo viên chưa chú trọng việc xây dựng môi trường tiếng Việt cho trẻ theo
quan điểm xây dựng trường mầm non lấy trẻ làm trung tâm.
- Giáo viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch, chưa linh
hoạt sáng tạo để đổi mới hình thức tổ chức nhằm lồng ghép tăng cường tiếng Việt
cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày.
- Chưa thu hút được với phụ huynh phối hợp với giáo viên trong việc khai
thác và sử dụng môi trường địa phương.
* Về phía trẻ:
- Trẻ dân tộc thiểu số chiếm 98%. Trẻ đã có giao tiếp bằng tiếng Việt tuy
nhiên câu từ còn ngắn ngủn, cộc lốc, chưa lưu lốt...
- Trẻ ít được tiếp xúc với mơi trường xã hội xung quanh do đó vốn từ ít, khả
năng nghe nói hạn chế: Một số câu các trẻ đang sử dụng pha lẫn tiếng Thái và tiếng
Nghệ chưa chuẩn tiếng phổ thơng nên khó nghe như: “Đồ chơi của em ở mô ba?”,
“Mẹ làm chi pển?”, “Cái ni của em lợ bọ!”, “Cho em chơi chung với cọ”, “Không
được lấy dép em cọ nơ”,… Một số câu nói ngọng, dùng từ sai, phát âm không
chuẩn về âm đầu, vần, dấu thanh; cấu trúc khi nói thường ngược với cấu trúc tiếng
Việt.
4
- Nhiều em vẫn còn hạn chế trong việc giao tiếp và hiểu câu tiếng Việt nên
chưa thực sự hứng thú vào hoạt động của cô đưa ra.
- Trẻ chưa chủ động tham gia cùng cô trong các hoạt động xây dựng môi
trường tiếng Việt.
- Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid 19 nên tỉ lệ các cháu đến lớp chưa cao.
Vào đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ kết quả như sau:
Tổng số trẻ lớp MG Lớn: 28 cháu.
Nội dung khảo sát
- Trẻ nói thành thạo ngôn ngữ tiếng Việt.
Mạnh dạn, tự tin sử dụng tiếng Việt trao đổi,
trị chuyện cùng với cơ, với mọi người xung
quanh.
- Trẻ biết nói các từ, các cụm từ tiếng việt, sử
dụng đa dạng các loại câu tiếng Việt.
Tổng Kết quả khảo sát
số
Đạt
Chưa đạt
trẻ Số trẻ % Số trẻ
%
28
- Trẻ đọc thơ và kể chuyện một cách mạch
lạc.
- Trẻ hứng thú, chủ động tham gia cùng cô
trong các hoạt động tăng cường tiếng Việt
theo hướng lấy trẻ làm trung tâm.
6
21
22
79
9
32
19
68
7
25
21
75
8
28
20
72
* Đối với phụ huynh:
- Do phong tục tập quán và cách sử dụng câu từ vì vậy một số phụ huynh khi
dạy trẻ cịn nói ngược câu, chưa chú ý sửa sai cho trẻ.
- Chưa thật sự chú trọng để phối hợp với giáo viên trong việc rèn các kĩ
năng nghe, hiểu, “đọc, viết” bằng tiếng Việt cho trẻ khi ở nhà.
- Đời sơng kinh tế khó khăn, “văn hóa đọc” của người dân cịn ít hạn chế
việc dạy trẻ phát triển câu ngôn từ mạch lạc.
III. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
Để giải quyết thực trạng trên tôi đã áp dụng một số biện pháp như sau:
Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động thân thiện cho trẻ.
Biện pháp 2: Đổi mới hình thức tổ chức để dạy trẻ học từ và nói mạch
lạc hợp lý vào các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày.
5
Biện pháp 3: Phát triển vốn từ và khả năng diễn đạt mạch lạc thông qua
các hoạt động tập thể.
Biện pháp 4: Tổ chức tốt các hoạt động tăng cường tiếng việt cho trẻ.
Biện pháp 5: Phối hợp tốt với phụ huynh và cộng đồng tăng cường tiếng
việt cho trẻ trong bối cảnh phòng dịch Covid-19.
Cụ thể:
1. Biện pháp 1: Tạo môi trường hoạt động thân thiện cho trẻ:
1.1. Xây dựng môi trường tăng cường Tiếng việt phong phú, đa dạng, phù
hợp với độ tuổi và nhận thức của trẻ.
Xây dựng môi trường vật chất cho trẻ:
Cơ sở vật chất là một trong những yếu tố cơ bản đẩy cho giáo viên có thể
thực hiện chương trình giảng dạy tại trường mầm non, là dụng cụ để giáo viên có
thể trực tiếp sử dụng cho quá trình giảng dạy của mình giúp cho các em có được
những bài giảng vơ cùng sinh động.
* Tổ chức môi trường lớp học:
Đối với dạy trẻ học từ và nói mạch lạc thì việc tạo môi trường lớp học cho
trẻ dân tộc thiểu số lại càng có ý nghĩa đối với trẻ. Trang trí môi trường giáo dục
theo chủ đề để lôi cuốn trẻ được nhà trường chúng tôi quan tâm, chỉ đạo tận dụng
tối đa môi trường không gian xung quanh lớp học, khai thác các thiết bị, đồ dùng
sẵn có, bổ sung thêm thiết bị, đồ dùng tự làm bằng nguyên phế liệu địa phương,...
+ Môi trường trong lớp học: Được xây dựng phù hợp với nội dung giáo dục
của trẻ 5-6 tuổi, sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng, đảm bảo yêu cầu về xây dựng moi
trường vật chất. Từng chủ đề phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu, nội dung
giáo dục dạy tăng cường Tiếng Việt. Các góc tơi tạo cho trẻ có nhiều cơ hội học tập
và được hoạt động với môi trường tiếng Việt. Đồ dùng, các thiết bị trong lớp được
dán ký hiệu bằng các chữ cái, chữ số; các mảng tường có sử dụng đa dạng các kiểu
chữ cái và các chữ số treo/ dán trong lớp, trẻ thường xuyên được tiếp xúc với các
kiểu màu sắc, kích thước khác nhau... giúp trẻ nhận ra một số chữ cái và cách phát
âm chữ cái tiếng việt rõ ràng tròn vành, rõ chữ, phát triển được kĩ năng “nghe” và
kĩ năng “nói”.
6
Khơng gian lớp học có chữ cái, chữ số
Việc sắp xếp các góc hoạt động trong lớp phải hợp lí, tuân thủ nguyên tắc
động tĩnh, phù hợp với các tiêu chí xây dựng trường mầm non lấy trẻ là trung tâm.
Tơi trang trí các góc theo hướng mở, bố trí phù hợp thuận tiện cho trẻ khi chơi, đồ
dùng đồ chơi phong phú, chủ yếu là đồ dùng tự làm và các nguyên phế liệu địa
phương.
Cô và trẻ cùng trang trí các góc xây dựng
Đối với mảng chủ đề chính là góc thể hiện nổi bật nhất chủ đề trẻ đang học,
tơi chọn vị trí trung tâm trong lớp học, trang trí ảnh bác, một số hình ảnh rõ ràng
sắc nét giúp cho trẻ dễ hiểu. Mảng chủ đề tôi sử dụng chất liệu có bề mặt trơn,
nhẵn, để bóc, dán, dễ dàng thay đổi. Tơi trang trí gởi ý một số chi tiết và để khoảng
trống để trẻ tham gia. Mỗi chủ đề tơi đều thay đổi hình ảnh phù hợp chủ đề và cho
trẻ tham gia vào để vừa giảng cho trẻ hiểu từ đồng thời trẻ vừa được trải nghiệm,
thực hành.
Ví dụ: Chủ đề “Tết và mùa xuân”, trong chủ đề này trẻ được tìm hiểu về
ngày tết truyền thống của dân tộc. Mảng chủ đề chính tơi đã gắn những tranh hoạt
động trong ngày tết có ghi chữ: trang trí nhà, làm bánh trưng, chơi các trò chơi
trong dịp tết,… hay cùng trẻ làm câu đối, gắn cành đào, cành mai. Trẻ sẽ được
nhìn, ơn lại các chữ cái đã học và làm quen với các chữ cái mới.
7
Mảng chủ đề chính “Tết và mùa xuân”
Các mảng tường và các giá đồ chơi để thiết kế thành những góc hoạt động
cho trẻ. Thiết kế phù hợp với chiều cao để trẻ dễ dàng lấy, cất và tự ý bày biện đồ
chơi theo ý thích của mình. Các góc trong lớp còn liên kết mật thiết với nhau và
được đặt những cái tên gần gũi với các cháu. Khi trẻ chơi tơi gợi hỏi để trẻ gọi tên
trị chơi ở các góc, nhận biết chữ cái có trong tên các trị chơi.
Ví dụ: Kĩ năng nghe tiếng Việt phát triển khi trẻ nghe lời cơ và lời bạn nói,
nghe từ các phía khác nhau, nghe các ngữ điệu khác nhau, nghe lời nói khác nhau;
Kĩ năng nói tiếng việt được củng cố khi trẻ được trị chuyện cùng cơ và bạn trong
hoạt động; Kĩ năng đọc tiếng Việt sẽ phát triển thơng qua việc phỏng đốn nội
dung bức tranh hoặc câu truyện tranh, nhận biết các kí hiệu gần gũi xung quanh ;
Kĩ năng “viết” của trẻ phát triển khi trẻ thực hiện các nét vẽ trong tạo hình, vẽ theo
ý thích, chơi trị chơi ngón tay để rèn luyện vận động tinh,…tất cả sẽ được thể hiện
trong các góc, tạo ra mơi trường phong phú, đa dạng để cho trẻ có thể học từ và nói
tiếng Việt.
+ Góc phân vai: Tôi xây dựng và mô phỏng đồ vật thật trong sinh hoạt hằng
ngày và các loại rau củ quả với cách làm mở sinh động. Được trang trí với nhiều
hình ảnh mơ phỏng các vật dụng, dụng cụ khác nhau, có quầy bán hàng và được
bày bán nhiều sản phẩm, có hàng rào ngăn cách, cây cỏ, thực phẩm phục vụ để ăn
uống, có các quy trình chế biến các món ăn,... và rất nhiều đồ chơi khác nhau tùy
theo chủ đề mà các bé sẽ được phân vai theo nhân vật nào, tích hợp chữ cái và chữ
số để trẻ có thể nhận biết mọi lúc mọi nơi, gắn tên các bài tập, phía dưới là kí hiệu
tên và tên biển chỉ dẫn của các loại sản phẩm. Đây cũng là góc có nhiều đồ dùng
và nguyên vật liệu. Khi sử dụng đồ dùng đồ chơi tôi đều dán tên để trẻ nhận biết
khi chơi.
Ví dụ: Trong chủ đề gia đình: cái bát, cái đĩa, ghế mây, ép xôi, cối, chày giã
gạo, cối hông xôi, cái chảo, bánh sừng trâu, cơm lam,...tất cả là những đồ dùng,
món ăn gần gũi với trẻ. Quá trình chơi trẻ giao tiếp với nhau, cô gợi ý cho trẻ đặt
các câu bằng tiếng Việt để trẻ phải suy nghĩ và trả lời, trẻ sẽ nhìn vào vật thật trẻ đã
trả lời câu hỏi của cô và tiếp xúc với chữ viết hàng ngày sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếng
thu hơn trong việc học chữ cái.
8
Trẻ tham gia chơi ở góc phân vai
Góc phân vai cịn có trị chơi bác sỹ, để tăng cường về nhận biết và phát âm
chữ cái Tiếng Việt ở trò chơi này tôi sử dụng các chữ cái từ lớn đến bé gắn vào tạo
ra trò chơi khám mắt, sử dụng các hình ảnh về triệu chứng bệnh, đánh tên các loại
bệnh vào dưới hình ảnh và hình ảnh lời khuyên của bác sỹ khi trị bệnh. Trong bối
cảnh phải sống chung với dịch covid 19 thơng qua trị chơi bác sỹ không những
dạy trẻ học tiếng Việt mà tôi có thể tuyên truyền và hướng dẫn trẻ về các thực hiện
5K bảo vệ sức khỏe.
Trẻ đóng vai bác sỹ khám chữa bệnh
+ Góc học tập: Là góc thực sự cần thiết để chuẩn bị cho việc phát triển nhận
thức và tốn học. Để tăng cường tiếng Việt, tơi căn cứ vào nội dung chủ đề, nội
dung ở các môn học khác và các biểu tượng, các kiến thức, kĩ năng cần cung cấp,
ôn luyện mà thiết kế môi trường góc cho phù hợp.
Góc học tập của bé
Các bài tập mở đều được treo, dán các nội dung về môi trường xung quanh,
làm quen với toán, làm quen văn học và chữ viết,.. được viết tên như: Tuần này bé
học gì? bé u khám phá, phân nhóm, thêm bớt cho đủ số lượng, bé hãy sắp xếp
9
theo quy tắc, bé hãy xâu hạt tương ứng với chữ số hay trị chơi ghép tranh,... có thể
sử dụng vào tất cả các chủ đề trong năm học vì được thiết kế theo hướng mở, trẻ là
người chủ động khi chơi các trò chơi và chủ động giao tiếp với nhau bằng tiếng
Việt nhiều hơn. Tôi cũng chuẩn bị các tranh thơ, các loại hột hạt, các bài tập mở,
bài tập sàn,... Từ bài tập góc trẻ được hoạt động tích cực và phát triển ngơn ngữ thứ
2 tiếng Việt nhiều hơn. Các bài tập sẽ thay đổi sau mỗi chủ đề để tránh sự nhàm
chán cho trẻ. Khi hướng dẫn trẻ chơi tôi luôn chú ý yêu cầu trẻ phát âm tên gọi các
hình ảnh.
Ví dụ: Góc học tập dán những ơ bìa gương để gắn chữ cái, số thay đổi theo
chủ đề. Chủ đề nào học đến chữ cái nào thì gắn chữ cái đó kết hợp với tranh có từ,
hay ở góc sách trẻ học đến bài thơ nào thì dán bài thơ đó lên.
+ Góc xây dựng: Góc xây dựng gồm các cây xanh, bộ ghép hàng rào, cổng,
các nguyên vật liệu, các đồ dùng, đồ chơi phong phú và đa dạng về chủ đề đang
học: Bằng nhựa, bằng gỗ, bằng tre, trúc… có kính thước khác nhau, khối, hình to,
nhỏ, bộ xếp hình xây dựng đầy đủ các chi tiết; các phương tiện giao thông, các loại
cỏ cây hoa lá, các động vật nuôi trong gia đình, động vật sống trên rừng, dưới
biển,... Khi chơi trẻ được phân công nhiệm vụ, tập trung xây dựng cơng trình được
giao. Mỗi đồ dùng đồ chơi đều gắn tên và kí hiệu để trẻ tiếp xúc hàng ngày, giúp
trẻ nhận diện được mặt chữ, trẻ thỏa mãn được nhu cầu tìm hiểu về đặc điểm, tính
chất của thế giới xung quanh.
+ Góc nghệ thuật: là một trong những góc ưa thích của các cháu. Góc nghệ
thuật đối với trẻ mầm non được phân thành 2 góc nhỏ: Góc âm nhạc và góc tạo
hình.
Góc âm nhạc: Là nơi để trẻ thể hiện khả năng âm nhạc của bản thân. Tơi sưu
tầm các băng hình, băng nhạc, các thể loại nhạc khác nhau cùng các loại nhạc cụ
dân tộc trong đó có nội dung về dân ca địa phương, phong phú về các đồ dùng, đồ
chơi âm nhạc như míc, xúc xắc, đàn, trống con, phách gõ, xắc xơ,…đồ dùng, đồ
chơi để múa như quạt múa, mũ múa, áo váy múa, khăn, nơ,... tôi cũng sáng tạo bổ
sung một số nguồn âm thanh vui nhộn khác từ các loại lon, thùng, các dụng cụ nhà
bếp hay các loại váy nhằm phục vụ cho các hoạt động biểu diễn,...Trẻ được phát
triển các kỹ năng, làm quen với nền văn hoá dân tộc. Luyện tập cho các cháu bộc
lộ năng khiếu để tham gia vào các hoạt động chung hoặc các chương trình biểu
diễn văn nghệ của lớp, của trường. Rèn sự tự tin, khả năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ tiếng Việt cho trẻ.
Góc tạo hình: Ở góc này khơng chỉ trẻ được vẽ tranh, mà trẻ được sử dụng
bút và giấy, trải nghiệm cách cầm bút, giữ giấy và tạo thành các nét mà trẻ muốn
thể hiện. Việc làm này sẵn sàng cho việc học viết, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ
tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số. Thơng qua góc tạo hình trẻ sẽ tạo ra được những
sản phẩm ngộ nghĩnh, dễ thương, khắc họa lại trong tâm trí trẻ. Tơi lựa chọn và thu
thập thêm các vật liệu tạo hình bằng thiên nhiên gần gũi với trẻ như: mo cau, lá cọ,
10
hạt cọ, sỏi, đá cuội, lá cây...để trẻ tạo hình. Từ những vật liệu này trẻ có thể gọi tên,
biết được màu sắc.
* Mơi trường ngồi lớp:
Sau khi được sự hướng dẫn của chuyên môn trường phân chia theo các khu
vực, tôi tận dụng các không gian, các điều kiện cơ sở vật chất sẵn có của trường,
các nguyên vật liệu để cho trẻ hoạt động và đảm bảo an tồn tuyệt đối cho trẻ. Tơi
phối hợp với các giáo viên sắp xếp hợp lý các khu vực cho trẻ được trải nghiệm,
phát triển vận động, phát triển thể chất, có biển chỉ dẫn, dễ quan sát trẻ, tuân theo
nguyên tắc đảm bảo nhiều cơ hội cho trẻ hoạt động, sáng tạo, mục đích chơi, theo
độ tuổi, phù hợp với diện tích, dưới bóng mát.
+ Khu trải nghiệm của bé:
- Khu vực vườn rau: Để tạo cảm giác gần gũi với thiên nhiên cổng
vào vườn được trang trí sinh động, mang thơng điệp “Cây cũng giống như bé, cần
chăm sóc yêu thương”. Tôi tận dụng các nguyên phế liệu để xây dựng thành khu
vực riêng, có in tên cho khu vực, cỡ chữ to rõ ràng; phía trên mảng tường có chứa
các hình ảnh về các loại rau và có biển gắn tên phía dưới; một mảng tơi tạo ra bài
tập mở sự phát triển của cây từ hạt, hình ảnh được vẽ vào bìa xốp, dưới mỗi tranh
có gắn chữ (hạt, hạt nảy mầm...) có các số thứ tự được làm riêng lẻ để trẻ nhận biết
và gắn khi chơi trị chơi.
Tơi phối hợp với giáo viên tận dụng khoảng đất trống bên trái dãy lớp học
của trường bố trí phù hợp với khn viên, chia đất thành luống nhỏ và lựa chọn đa
dạng các loại cây rau, cây cảnh, cây hoa,… đặc trưng, gần gũi với trẻ và có sự biến
đổi rõ ràng theo mùa... và đường đi lối lại cho trẻ dễ di chuyển trong quá trình
trồng, chăm sóc và quan sát khám phá. Khu vườn ươm được trang bị các dụng cụ
lao động như: ủng, cuốc, xẻng, phù hợp với trẻ. Trẻ được thực hành trải nghiệm
như cuốc đất; gieo hạt, trồng cây; tưới nước, nhổ cỏ, nhặt lá, bắt sâu…Trồng, chăm
sóc và quan sát sự phát triển của cây. Trẻ tự thao tác với các đồ dùng cá nhân, được
chăm sóc và quan sát cây lớn lên, được hóa thân thành “bác nơng dân”... trẻ sẽ cảm
nhận và khám phá, yêu hoạt động lao động, yêu thiên nhiên, được giao lưu vốn từ,
học thêm những từ mới từ cô và các bạn để tiếng Việt của trẻ ngày một phong phú.
11
Bé khám phá vườn rau
- Khu vực chơi trải nghiệm cát - nước: Tôi chuẩn bị rất nhiều đồ dùng cho
trẻ sử dụng để khi ra chơi trẻ được tự mình trải nghiệm. Tại đây trẻ được tiếp xúc
với cát, nước, sỏi, pha màu… chơi các trò chơi câu cá, nơm cá, thả vật chìm nổi,
đong,… giúp trẻ giao lưu tìm hiểu về đặc điểm tính chất của cát, sỏi, nước. Góc
khám phá khoa học trẻ được thực hành nhiều thí nghiệm như: pha màu nước, một
số chất tan trong nước, vật chìm vật nổi. Gieo hạt, tưới nước và quan sát q trình
nảy mầm của cây từ hạt. Tơi tận dụng các bảng biểu, lối chỉ dẫn, các dụng cụ và
các hoạt động để tăng cường Tiếng việt cho trẻ.
Bé trải nghiệm khu vực cát – nước
12
+ Khu vực vườn cổ tích: Để tạo ra mơi trường tiếng Việt cho trẻ tôi sử dụng
các chữ cái cỡ lớn đính vào các viên đá bỏ vào vừa trang trí vừa làm khu vực để
ngăn cách, tơi cũng vẽ lên đá các hình ảnh khác nhau để trẻ ghép và kể chuyện
sáng tạo, trẻ được ngắm nhìn gọi tên những nhân vật cổ tích, khi được xem sách
tranh trẻ chỉ trỏ và kể lại chuyện theo cách của mình phát triển ngơn ngữ tiếng Việt
cho trẻ. Ngồi ra tôi cũng chuẩn bị thêm một bộ bàn ghế để trẻ xem và “đọc” sách,
qua đó tơi khơi gợi các tình huống để trẻ có thể trả lời và sự dụng ngơn ngữ tiếng
Việt.
Vườn cổ tích bé u
+ Khu vực phát triển vận động: Để phục vụ tốt cho chuyên đề phát triển vận
động, nhà trường có khu vực vui chơi phát triển vận động cho trẻ với các đồ chơi
vận động hỗ trợ cho các vận động như chạy, bò trườn, trèo, tung ném bắt, thang leo
chữ A, cổng chui, đấm bốc, cầu thăng bằng cố định,... do đó khi tăng cường tiếng
Việt tôi cho trẻ nhắc lại từ, được tiếp xúc qua tên của các đồ dùng đồ chơi.
Trẻ chơi các trò chơi vận động
13
+ Khu chợ quê: Đến với “chợ quê” trẻ cảm nhận nét bình dị của mỗi miền
quê Việt, đặc biệt trường vùng núi như trường chúng tôi lại thêm đậm đà bản sắc
dân tộc của đồng bào. “Chợ quê” được tôi và một số giáo viên trong cụm kết hợp
với phụ huynh làm bằng các nguyên vật liệu mở sẵn có ở địa phương như tre, nứa,
lá cọ để làm nhà chòi, làm bàn, ghế; trong khu chợ quê sẽ bày bán các sản phẩm
địa phương, do cô và trẻ tự làm phù hợp với từng chủ đề và được bày bán ở khu
chợ, trên mỗi sản phẩm đều có dán tên nhãn mác đầy đủ rõ ràng, có đa dạng các
mặt hàng nên trẻ cũng được tiếp xúc với rất nhiều loại câu từ, trẻ quan sát, thể hiên
vai chơi và sử dụng ngôn ngữ giao tiếp với nhau để phát triển ngôn ngữ mạch lạc.
Bé vui “phiên chợ quê”
b. Xây dựng môi trường giao tiếp phong phú hấp dẫn, kích thích trẻ hoạt
động.
Để xây dựng được mơi trường giao tiếp ngơn ngữ tích cực có hiệu quả, tơi
xác định được vai trò của giáo viên rất quan trọng, là người tạo ra được những mối
quan hệ và tương tác tích cực giữa giáo viên với trẻ, giữa trẻ với trẻ và giữa người
lớn với trẻ.
Xây dựng môi trường xã hội thân thiện: Đối với trẻ mầm non, cô chính là
hình mẫu để trẻ bắt chước, bởi thế tơi luôn cố gắng tạo ra các mối quan hệ nồng
ấm, là tấm gương mẫu mực cho trẻ noi theo.
14
Cơ niềm nở đón chào trẻ
Tạo sự gần gũi, thoải mái và an toàn cho trẻ, để trẻ đều cảm thấy được cô
yêu và đối xử công bằng, biết cách lắng nghe trẻ, chia sẻ cảm xúc kinh nghiệm,
chia sẻ ý tưởng…, qua đó tơi khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và tự tin
diễn đạt trước đám đông, động viên trẻ tự tin vào bản thân bằng các câu nói “Con
sắp làm được rồi”, “ Khơng sao đâu”,…Trong giao tiếp với trẻ tôi đưa ra các yêu
cầu để trẻ thực hiện, tơi giải thích từng bước rõ ràng điều mình muốn trẻ thực hiện
và kiên nhẫn trả lời câu hỏi của trẻ. Tạo nhiều cơ hội để giúp trẻ giao tiếp ở mọi
lúc mọi nơi.
Ví dụ: Có nhiều trẻ khi giao tiếp cịn lúng túng, ngơn ngữ chưa lưu lốt, do
đó khi giao tiếp tơi khơng u cầu trẻ nói câu dài, khơng bắt trẻ lặp đi lặp lại câu
nói đúng quá nhiều lần khi trẻ nói sai điều đó sẽ gây ra nhà chán cho trẻ. Đối với
những trẻ cịn nhút nhát, tơi động viên trẻ và thường xuyên đặt câu hỏi với trẻ và
trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn tự tin hơn.
Tạo ra bầu khơng khí vui vẻ qua vui chơi, học bằng chơi trong lớp: Tôi đã
xây dựng và tạo ra nhiều trò chơi thú vị khác nhau luyện kĩ năng nghe - nói thu hút
trẻ tham gia hoạt động, hướng trẻ đến những cảm xúc tích cực để trẻ cởi mở và
chia sẻ cùng cô và các bạn trong lớp học. Hoặc tôi sử dụng các bài tập thực hành
cuộc sống giúp trẻ phát triển ngơn ngữ.
Ví dụ: Tùy vào thời gian và các hoạt động khác nhau, tôi cho trẻ chơi các trị
chơi như: Nói chuyện vịng trịn, đối tác chuyện trị, bảng “nói chuyện” hàng ngày
(Ngày/tháng/thời tiết/sinh nhật), xúc sắc kỳ diệu, trị chơi đóng vai, bàn cờ chữ cái,
cánh cửa kỳ diệu, tập làm phóng viên,…
Tơi ln chủ động trong việc trò chuyện cùng trẻ, xem tranh và nói về
những bức tranh. Tạo cơ hội cho tơi để gần gũi trị chuyện tích cực với từng trẻ,
nắm bắt tâm lý trẻ nhỏ, hiểu được đặc điểm và vốn ngơn ngữ mà trẻ có.
15
Cơ quan tâm chăm sóc trẻ bằng tình u thương
1.2. Xây dựng và sử dụng hiệu quả thư viện xanh trong và ngồi nhóm
lớp.
Đầu năm học, ban lãnh đạo và chun mơn nhà trường đã chỉ đạo các nhóm
lớp tích cực xây dựng góc thư viện trong các lớp học, tạo mơi trường giúp trẻ tích
cực, chủ động làm quen với “Văn hoá đọc”, làm quen với cách “đọc” sách, làm
quen với các câu chuyện, bài thơ….một cách tự nhiên và hứng thú hơn.
Thư viện trong lớp học: Trẻ được tham gia các hoạt động cùng những cuốn
sách nói về các chủ đề, các câu chuyện và cả những nội dung về thế giới xung
quanh giúp trẻ dễ dàng trải nghiệm. Trẻ được tăng cường kĩ năng đọc, thông qua
việc nhận biết các ký hiệu, chữ viết có ý nghĩa, quy luật đọc sách (từ trái sang phải,
từ trên xuống dưới, từ trang đầu đến trang cuối), sự liên tục của câu chuyện. Trẻ
lắng nghe cô và bạn kể chuyện, bắt chước những từ hoặc câu nói trong truyện, tự
kể lại truyện, trả lời những câu hỏi,… giúp trẻ hoàn thiện và phát triển ngôn ngữ
tốt hơn.
16
Bé cùng đọc sách ở góc thư viện
Tơi sử dụng các hình ảnh phù hợp nội dung để trang trí trên tường xây dựng
góc thư viện trong lớp như hình ảnh rời khác nhau có thể tháo lắp tạo thành các câu
chuyện khác nhau theo ý thích, sưu tầm hình ảnh về quê hương Qùy Hợp, sản
phẩm địa phương, các món ăn gần gũi với trẻ, trẻ xem tranh và kể chuyện sáng tạo.
Bố trí giá kệ để sắp xếp sách truyện tranh, bộ sưu tập tranh do cô và trẻ cùng làm
theo chủ đề; chuyện kể sáng tạo theo tranh dán tường; sắp xếp một số đồ vật, con
rối để đóng kịch các tác phẩm văn học, viết rõ ràng tên sách, tên nhân vật đồ dùng
của nó vào bên dưới.
Tôi hướng dẫn trẻ cách dùng tay lật từng trang sách, giữ gìn sách, hướng dẫn
trẻ kỹ năng đọc sách. Tiếp theo tơi khuyến khích trẻ mang những cuốn truyện hay
từ nhà đến lớp để cùng chia sẻ (nếu trẻ có). Và đặt các cuốn truyện phù hợp với
chủ đề, tạo ra những khung rối làm từ các vỏ thùng carton, những cuốn sách làm từ
những bìa lịch cũ, những con rối que, rối bóng, rối ngón tay cho trẻ diễn rối, tập
đóng kịch… để trẻ có thể lựa chọn nhiều hoạt động để phát triển ngôn ngữ tiếng
Việt.
Để trẻ được nghe các giọng đọc khác nhau và bắt chước giọng kể, tôi cũng
sử dụng một cái đài để mở cho trẻ nghe đọc các câu chuyện. Chuẩn bị thêm một số
nguyên vật liệu như bút chì, bút màu, giấy A4, kéo hồ dán, họa báo… cho trẻ tự do
vẽ, tô hoặc tạo ra các quyển sách khác nhau theo chủ đề để phát triển ngơn ngữ.
Ví dụ: Kể chuyện sáng tạo về nghề dệt vải: Tôi chuẩn bị một số sản phẩm
nghề dệt vải như khăn Piêu, váy thái, cái quay tơ…để trẻ có thể tưởng tượng và
sáng tạo ra câu chuyện của mình như “Đây là cái váy thái của mẹ mình, chiếc váy
này được làm bằng sợi tơ, do bà mình dệt tặng mẹ. Mẹ mình cũng dệt vải đẹp lắm,
mình cũng được mẹ tặng cho chiếc váy thái đẹp ơi là đẹp”.
Thư viện ngoài lớp học: Nhà trường đã tận dụng khoảng sân nhỏ nối 2 dãy
lớp học làm nơi sinh hoạt của trẻ với sách, địa điểm đảm bảo an toàn, đủ ánh sáng
cho trẻ dễ dàng hoạt động, trẻ có thể chọn tư thế thoải mái để đọc sách, ngồi ra cơ
cịn dành thời gian đọc sách, kể chuyện cho trẻ nghe.
17
Góc thư viện ngồi trời
Tơi tạo ra nhiều trị chơi, chuẩn bị nhiều đồ dùng đồ chơi: sử dụng những
tấm vải nỉ để tạo ra các bài tập mở cho trẻ, tấm bìa carton để tạo ra những hình ảnh
trị chơi dân gian, sử dụng hộp giấy, sơ chế trang trí gắn vào tường để làm nơi đựng
những cuốn sách cho trẻ, hay những chiếc nón được các cơ tạo nên những câu
chuyện cho trẻ học. Tận dụng nguyên vật liệu địa phương như ống tre, nứa đã tạo
nên một bộ học về các chữ cái đáng yêu và đầy màu sắc, những chiếc lá cọ được
cắt tỉa tạo nên những hình dáng bắt mắt thu hút trẻ,…sử dụng những can dầu cỡ
lớn, trang trí hình ảnh đẹp mắt để đựng: Kéo, hồ dán, giấy màu, giấy A4, các loại
họa báo màu sáp, màu nước..; Tôi đặt những chiếc bàn để trẻ ngồi đọc sách, tạo ra
các quyển sách khác nhau và làm các bài tập theo sở thích. Phối hợp với giáo viên
khác để chuẩn bị thêm sân khấu rối, các nhân vật từ câu chuyện để trẻ có thể tham
gia đóng kịch, đa dạng các góc như có góc nghệ thuật, góc cha mẹ đọc cùng con,
bảng hoa chữ cái…. cho trẻ được hoạt động cá nhân và theo nhóm. Làm các cây
chữ cái chữ số để trưng bày các sản phẩm của trẻ khi trẻ ra góc thư viện.
1.3. Xây dựng, khai thác triệt để môi trường văn hóa địa phương.
Qua những buổi chun đề tơi đã được nâng cao năng lực về phương pháp
điều chỉnh bài giảng theo hướng phù hợp với bối cảnh địa phương thể hiện qua
việc cải thiện đồ dùng dạy và học tập theo hướng tăng cường sử dụng các đồ dùng,
vật liệu từ văn hóa địa phương như nguyên vật liệu, các sản phẩm, nhạc cụ dân tộc,
trang phục, kiến trúc, món ăn đặc trưng, lễ hội,… nhằm phát triển ngơn ngữ cho
trẻ.
Góc địa phương của bé
Đầu tiên, tơi xây dựng và khái thác triệt để mơi trường văn hóa địa phương
qua việc sử dụng các nguyên vật liệu và sản phẩm của địa phương. Tất cả các đồ
dùng, vật thật trong góc địa phương có chú thích tên gọi bằng tiếng Việt (chữ in
thường) bên dưới mỗi hình ảnh, để trẻ làm quen với chữ viết tiếng Việt; đồng thời
cô sẽ dạy trẻ diễn đạt song song các nội dung đó bằng ngơn ngữ tiếng Việt và tiếng
mẹ đẻ mang lại cảm giác gần gũi cho trẻ.
18
Ví dụ: Góc nghệ thuật có: Rơm rạ, đá, các loại lá cây, hoa quả khô, mo cau,
các loại hột hạt, các loại nhạc cụ dân tộc: khèn, đàn T.rưng, váy áo thái, khăn
Piêu....Góc phân vai: có bánh sừng trâu, bàn ghế, gối, các món ăn đặc trưng người
thái, các sản phẩm phù hợp với từng chủ đề. Góc xây dựng: Các loại ống trẻ to
nhỏ, nhà sàn, hạt cọ, các trò chơi người thái phù hợp chủ đề: nhảy sạp, khung cửi,
cối giã gạo...Góc học tập: Lá cọ, hoa quả khơ, khối bằng gỗ, các hình học từ mo
cau... Góc kỹ năng: Có một số sản phẩm nơng sản địa phương để trẻ khám phá và
trải nghiệm.
Thứ hai, tôi phát triển tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số qua khai thác và sử
dụng văn hóa địa phương vào các hoạt động như lồng ghép vào góc trong lớp và ở
ngồi trời.
Tơi đã đưa một số nét văn hóa đồng bào Thái vào xây dựng trong các không
gian lớp học như: những bộ trang phục “xứa cóm – áo Thái”, “xín xeo – váy thêu”,
“Khắn tải- khăn piêu”… các loại trang sức như hoa tai, vòng cổ, vòng tay… Làm
những đồ dùng đồ chơi mô phỏng giới thiệu sản phẩm đặc sắc của đồng bào dân
tộc như “khấu bén- bánh sừng trâu”, “khấu tốm- bánh chưng”, ngồi ra cịn có các
sản phẩm như khoai, sắn,…một số đồ dùng trong gia đình như nồi đồ xơi, “ép
khấu- đồ đựng xơi”… hay các nhạc cụ như đàn tính tẩu, khèn bè, sáo, pí... tùy từng
chủ đề tơi sử dụng các loại sản phẩm khác nhau.
Ví dụ: Chủ đề gia đình tơi sử dụng bàn ghế, gối, các loại gùi giỏ, hay một số
mơ hình ngơi nhà sàn,... để cho trẻ biết đồ dùng sinh hoạt của người thái hay những
ngôi nhà bé đang ở; Chủ đề nghề nghiệp cho trẻ tìm hiểu qua các sản phẩm: lúa,
khoai sắn, các dụng cụ của người nơng, món ăn đặc trưng,...
Ở phía ngồi trời, tôi chuẩn bị các nguyên vật liệu và là các đồ dùng đồ chơi
cho trẻ thực hiện ở khu vực vận động như ném cịn, nhảy sạp, đẩy gậy, ơ ăn quan,
đi cà kheo, dùng lá cọ chơi trò chơi kéo ngựa...Sử dụng các loại bế, rổ, rá, gùi để
đựng các đồ dùng, dụng cụ phát triển vận động.
19
Góc vận động sử dụng nguyên phế liệu địa phương
Nhằm khai thác triệt để văn hóa bản địa vào trường học, chúng tôi đã sử
dụng nguyên vật liệu địa phương xây dựng nên chịi tre mà chúng tơi gọi là “Chợ
phiên” – một nét văn hóa đặc sắc của vùng cao.
Thứ ba, tôi giao lưu với trẻ bằng ngôn ngữ dân tộc Thái nhằm cung cấp thêm
vốn từ giúp trẻ phát triển song ngữ “tiếng Thái và tiếng Việt”.
Là giáo viên người bản địa tơi có thể lắng nghe những tâm tư nguyện vọng
hay những khó khăn mà các cháu đang gặp phải dễ dàng hơn. Những trẻ nhút nhát
ngại giao tiếp khi được tơi trị chuyện bằng tiếng dân tộc các cháu liền hào hứng
cởi mở, đặc biệt trẻ lớp tơi có đặc điểm sử dụng ngơn ngữ tiếng Việt pha lẫn tiếng
Thái và tiếng Nghê An. Điều đó tạo nên sự khó hiểu trong giao tiếp nên tơi đã cung
cấp cho trẻ thêm một số từ đệm của địa phương bằng tiếng phổ thơng.
Ví dụ:
Tiếng dân tộc Thái
Tiếng phổ thơng
Tiếng Nghệ An
Tiếng phổ thơng
Lè
Gì
mơ
Đâu
Nọ
Nha
tê
Kia
răng
Sao
(páy nọ)
Cọ
(Dep chí nọng cọ)
( Đi nha)
Đó
(dép của em đó)
nơ
Đó nha
Rứa
Thế
Pển
Gì đó
Nỏ
Khơng
Chi,…
Gì,…
(ắn lờ pển)
Lớ ba,…
(Cái gì đó)
Đâu đó,…
(Lớp noọng ca lớ (Lớp em ở đâu
ba)
đó)
Tơi cũng thơng qua các góc tăng cường Tiếng việt cho trẻ bằng tiếng dân tộc
với các hoạt động cụ thể.
Ví dụ: Chủ đề Ngành nghề, tôi chuẩn bị các kiến thức cũng như ngôn ngữ
tiếng Thái về chủ đề; Sưu tầm các trò chơi, bài hát...của dân tộc thái để lựa chọn
đưa vào kế hoạch giảng dạy; Giới thiệu cho trẻ bằng tiếng Việt về các vật liệu có
tại góc như: các sản phẩm nghề đan lát: mẹt, rổ, ép xôi, bàn ghế mây; sản phẩm
nghề dệt vải: váy thái, áo thái, khăn Piêu... ; Tôi cho trẻ phát âm nhắc lại các từ đó
bằng tiếng việt: Con hãy nhắc lại cho cơ đây là cái gì? váy thái là trang phục của
dân tộc nào? thường được mặc vào những dịp nào? các con hãy hát một bài hát dân
ca thái được khơng? Từ đó tơi cung cấp được cho trẻ các từ mới bằng tiếng Việt
20
như từ “váy thái, áo thái, khăn Piêu, cái bế, nhảy sạp, chơi ném còn, giã gạo, dệt
vải,…
Qua một số buổi giao lưu chúng tôi xây dựng được một câu lạc bộ “dân ca
Thái”. Những bài hát dân ca thái được hát bằng 2 thứ tiếng (tiếng Thái, tiếng Việt),
đặc biệt điệu múa đặc trưng của dân tộc Thái (múa xịe) được các cháu u thích.
Trẻ sử dụng điệu múa xịe trong “Lễ tổng kết”
Biện pháp 2: Đổi mới hình thức tổ chức để dạy trẻ học từ và nói mạch
lạc hợp lý vào các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày.
2.1. Đổi mới hình thức tổ chức thơng qua việc ứng dụng công nghệ thông
tin.
Sự phát triển và bùng nổ của cơng nghệ thơng tin (CNTT) có tác động tích
cực đến mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có giáo dục. Dựa vào tình hình của
lớp, tơi ứng dụng linh hoạt CNTT vào dạy từ và giúp trẻ nói một cách mạch lạc
bằng hai hình thức chính: Hình thức trong giờ hoạt động học và các hoạt động
khác.
Đầu tiên, tơi đổi mới hình thức tổ chức để dạy trẻ học từ và nói mạch lạc
thơng qua ứng dụng CNTT vào các tiết học chuyên biệt như tiết học cho trẻ làm
quen với chữ cái, tiết học có ưu thế phát triển lời nói như cho trẻ làm quen với môi
trường xung quanh, cho trẻ làm quen với văn học và các tiết học khác như cho trẻ
làm quen với tốn, tổ chức hoạt động tạo hình, giáo dục âm nhạc… đều được sử
dụng CNTT để giúp cho khả năng quan sát, mở rộng tư duy của trẻ được tốt hơn
thơng qua các hình ảnh, âm thanh, hoạt hình… Mọi tiết học đều được khéo léo ứng
dụng CNTT vào để có cơ hội để phát triển tiếng nói cung cấp vốn từ cho trẻ.
Đối với tiết học làm quen chữ cái, tôi cho trẻ làm quen với chữ cái giúp trẻ
nhận biết và phát âm chính xác 29 chữ cái Tiếng Việt, nhận biết chữ cái trong từ,
cụm từ. Lựa chọn và cài đặt các hình ảnh rõ nét, hiệu ứng phù hợp, đơn giản để dễ
thu hút trẻ. Khi cho trẻ lên chọn các chữ cái đã học, ngoài việc sử dụng các thẻ chữ
21
để ghép ở ngồi bảng tơi cho trẻ lên thao tác với chuột để chọn các chữ cái đã học,
nếu trẻ tìm đúng chữ thì bấm chuột trái vào chữ cái thì chữ cái đó biến mất. Hay
khi cho trẻ làm quen với cấu tạo chữ, tôi cho từng nét xuất hiện, dừng lại phân tích,
rồi các nét ghép lại tạo thành chữ cái hoàn chỉnh. Trẻ được phát âm, được rèn
luyện ngôn ngữ khi trả lời, được tri giác đọc rõ các nét chữ, chữ cái. Qua đó mà tơi
cung cấp cho trẻ chính xác các kiểu chữ cái mà trẻ làm quen, đó là kiểu chữ in
thường, viết thường và in hoa.
Ứng dụng CNTT thông qua môn học làm quen văn học: Tơi thường kết hợp
slide hình ảnh để thu hút trẻ tập trung chú ý, khích lệ trẻ chăm chú lắng nghe, để
lĩnh hội từng câu, từng lời của cơ. Sau đó tơi cho trẻ nói tên nhân vật trong thơ,
truyện qua hình ảnh. Qua những việc làm đó học sinh dân tộc của lớp tơi so với
trước vốn từ được tăng lên rất nhiều.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy thơ
Trong hoạt động khám phá khoa học ứng dụng cơng nghệ thơng tin thay vì
sử dụng các bức tranh tĩnh, tôi khai thác trên mạng những hình ảnh động diễn tả
được quá trình chuyển động của sự vật hiện tượng, các cháu hứng thú và say mê
học hơn khi quan sát hình ảnh động qua màn ảnh tivi. Qua các câu hỏi của cơ, qua
hình ảnh trẻ quan sát được trẻ đã được bổ sung thêm vốn từ và trả lời cơ một cách
mạch lạc.
Ví dụ: Trong tiết dạy môi trường xung quanh “một số con vật sống dưới
nước” thay vì dùng tranh vẽ con cá heo, tôi cho trẻ quan sát một đoạn phim cá heo
với một số hoạt động như bơi, đớp mồi, nhảy lên…trong nước. Khi đó trẻ được
quan sát đầy đủ các hoạt động của cá qua đó tơi cung cấp từ cho các hoạt động đó
một cách chính xác đến với trẻ. Khi muốn trẻ quan sát kỹ hơn một bộ phận nào đó
của cá heo tơi cho dừng lại ở bộ phận đó, rồi lại tiếp tục quan sát tiếp.
Với tiết học cho trẻ làm quen với toán nhờ ứng dụng CNTT, tiết học trở nên
thú vị, hấp dẫn hơn. Bằng việc kết hợp đa phương tiện những con số cứng nhắc có
thể nhảy múa theo âm nhạc, làm tăng sự thích thú nhờ hình ảnh minh họa độc đáo.
Tôi đã thiết kế slide dạy trẻ đếm kèm theo hiệu ứng đếm để thay thế đồ dùng của
22
cơ. Phần chơi củng cố tơi thiết kế tạo nhóm các con vật, đồ vật, hình dạng, hình
khối… có số lượng khác nhau để trẻ đếm và chọn theo yêu cầu của cô phù hợp với
chủ đề dạy trẻ trang bị cho trẻ những hiểu biết đơn giản để trẻ bước vào lớp một tốt
hơn. Qua đó mà trẻ cũng được bổ sung vốn từ, nói một cách mạch lạc trong giờ
học có sử dụng cơng nghệ thơng tin.
Ví dụ: Chủ đề “bản thân” với đề tài ôn số lượng trong phạm vi 5 so sánh số
lượng 5. Tôi đã vận dụng trị chơi ơn luyện ở trên máy tính qua trị chơi “nhìn
nhanh nói khẽ”, tơi cho trẻ bấm chuột chỉ lần lượt các bộ phận trên cơ thể trẻ sẽ nói
nhanh về số lượng như chuột bấm vào bàn tay trẻ sẽ nói nhanh “5 ngón tay”… Hay
hỏi những bộ phận trên cơ thể ít hơn 5, trẻ sẽ vừa điều khiển chuột và trả lời. Củng
cố kiến thức mà khơng bị nhàm chán, trẻ rèn luyện tính nhanh nhẹn, làm giàu vốn
từ và trả lời về kiến thức chủ đề mạch lạc.
Đối với hoạt động âm nhạc: Tơi tìm kiếm trên mạng những bài hát về chủ
đề, một số video múa, các loại nhạc cụ, các trang phục múa, hình ảnh liên quan đến
nội dung minh hoa,…giúp trẻ giữ lại từ ngữ và cách diễn đạt hiệu quả. Nhịp điệu
của âm nhạc, cũng như các mẫu lặp đi lặp lại trong bài hát, giúp các cháu ghi nhớ
các từ. Ngay cả khi hầu hết các từ không quen thuộc lúc đầu, việc bắt chước các từ
trong bài hát có thể giúp trẻ thực hành tạo ra âm thanh trong ngơn ngữ mới. Cịn
hoạt động tạo hình: trong trường mầm non nhờ ứng dụng CNTT mà các tranh (vật)
mẫu của cô sặc sỡ, màu sắc rõ nét hài hịa. Thu hút chú ý của trẻ, kích thích trí
tượng óc sáng tạo cho trẻ.
Ngồi ra thay đổi hình thức ở các tiết học có sử dụng CNTT, tơi cũng linh
hoạt sử dụng CNTT ở một số hoạt động khác nhằm dạy trẻ học từ và nói mạch lạc
hợp lý bằng cách: Tơi chèn nhạc, hình ảnh, sử dụng một số phần mềm hỗ trợ khác
~để tạo hoạt cảnh, xây dựng những tình huống bằng các nhân vật hoạt hình, tạo
video vào bài giảng và thiết kế đa dạng các trò chơi để mang lại sự hứng thú trong
các hoạt động như hoạt động góc được tơi sử dụng nhằm hướng dẫn trẻ chơi, yêu
cầu quy tắc chơi ở các góc… thơng qua các video hướng dẫn, minh họa. Hoạt động
chiều cũng sử dụng bằng cách ứng dụng CNTT để giúp trẻ ôn tập, củng cố những
nội dung đã học, đã trải nghiệm ở buổi sáng. Hay hoạt động ngày hội, ngày lễ được
sử dụng để thiết kế các hình thức, hoạt động nghệ thuật như: Đêm hội trăng rằm
(video về sự tích Chú cuội cung trăng, Ngày hội đến trường của bé…). Bên cạnh
đó, tơi cịn thiết kế nhiều bài giảng về kĩ năng sống để giáo dục cho trẻ.
Đặc biệt, thời gian toàn ngành thực hiện giãn cách xã hội theo chủ trương
của Thủ tướng Chính phủ để phịng, chống dịch Covid-19, lợi ích từ việc ứng dụng
cơng nghệ thông tin mang lại trong hoạt động giáo dục là rất lớn. Tôi đã ứng dụng
công nghệ thông tin hướng dẫn phụ huynh cài phần mềm Zoom trên điện thoại và
máy tính, thiết kế bài giảng với kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho
trẻ dễ thấy, dễ tiếp thu. Tôi cũng quay một số video dạy trẻ học từ, video hướng
dẫn trẻ dân tộc thiểu số làm quen chữ viết, video tăng cường tiếng việt thông qua
các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ tại nhà.
23
2.2. Đổi mới hình thức tổ chức thơng qua việc khai thác các nguyên phế
liệu địa phương.
Bám sát vào kế hoạch chung của nhà trường tôi xây dựng kế hoạch của cá
nhân sao cho sát thực với lớp mình và có hiệu quả cao. Chú trọng tìm kiếm ngun
phế liệu mọi lúc mọi nơi và có sử dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên. Các
nguyên vật liệu là phế thải được tôi sưu tầm phong phú để làm các đồ dùng đồ chơi
phục vụ cho việc dạy trẻ học từ và nói mạch lạc.
Tơi phối kết hợp với phụ huynh tuyên truyền và đóng góp nguyên vật liệu
phế thải và đồ vật sẵn có trong cuộc sống hằng ngày để làm đồ dùng đồ chơi thông
qua học cách làm qua tivi, sách báo, tập sách giáo dục mầm non, qua việc tham
quan trường bạn,… Sau đó phân loại, làm sạch nguyên phế liệu để đảm bảo an
toàn khi sử dụng, định hình sản phẩm để tạo thành đồ dùng đồ chơi cho đẹp mắt.
Tùy theo từng nội dung, từng chủ đề, thời điểm mà có sự lựa chọn một số đồ dùng
– đồ chơi và nguyên vật liệu làm cho phù hợp với nội dung và chủ đề, qua đó rèn
khả năng tiếng việt cũng như làm giàu vốn từ cho trẻ.
Ví dụ: Đầu năm học khả năng của trẻ cịn hạn chế, nên tơi chọn những
ngun vật liệu có thể sử dụng được ln như tận dụng hộp thuốc rỗng hay lon bia
và ít viên sỏi và đóng nắp lại trẻ sẽ có ngay một dụng cụng âm nhạc phát ra âm
thanh nghe vui tai và lạ mắt. Cịn sau khi trẻ học được một kỳ tơi sử dụng nguyên
phế liệu tạo sẵn để trẻ gắn kết thành một món đồ chơi ưng ý. Đến cuối học kỳ dưới
sự chỉ dẫn của cơ trẻ có thể tự tạo được một món đồ dùng đồ chơi.
Đối với đồ dùng phục vụ hoạt động vệ sinh, lao động: Tôi tận dụng những
can nước rửa bát cắt làm gàu hốt rác, làm những chiếc chổi lúa từ rơm nếp, làm
bình tưới từ những hộp sữa bột to…
24
Trong các hoạt động học: tôi cũng tận dụng làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi
thú vị và bổ ích như được cô và trẻ sử dụng “làm những con vật” trong hoạt động
tạo hình, làm quen với tốn, hoạt động góc và sử dụng những con vật này làm nhân
vật truyện trong làm quen với văn học; Với hoạt động khám phá môi trường xung
quanh, phát triển thể chất: tận dụng xốp ép, xốp màu, bột màu thùng cát tơng to, lõi
vệ sinh, bóng nhựa cũ, hộp sữa,… để tạo thành “mơ hình động vật sống trong
rừng” có nhiều nấm, cà rốt hay những con vi, hươu được tạo bằng những hộp sữa
tươi bằng giấy, thùng carton, cành cây khơ,… cho trẻ tìm hiểu khám pha, chơi trị
chơi…
Một số phương tiên giao thông từ nguyên phế liệu trong hoạt động học
Và có một số loại đồ dùng đồ chơi phục vụ hoạt động vui chơi, hoạt động
một số góc như: Góc tạo hình, góc nấu ăn, góc bán hàng, góc bác sỹ, góc học tập,
góc xây dựng… thiết kế dạng mở, tạo thành các sản phẩm nổi bật phục vụ cho các
chủ đề.
Phía bên ngồi lớp học tơi cũng phối hợp với các cô trong cụm và phụ
huynh tạo ra môi trường phong phú, sáng tạo từ nguyên phế liệu bằng những chất
liệu phù hợp với chủ đề, thẩm mỹ cho lớp, trường.
Năm học này do dịch bệnh Covid-19, nên trẻ đến trường muộn hơn so với
những năm trước. Tranh thủ thời gian nghỉ dịch, tôi cùng các giáo viên trong
trường đã tự làm thêm các đồ chơi từ vật dụng hư hỏng trong nhà trường như: bàn,
ghế… thu gom thêm các phế liệu để làm đô chơi và đồ dùng học sinh cho trẻ, có
nhiều bộ đồ chơi để tăng cường hoạt động ngoài trời sẵn sàng để đón các cháu trở
lại trường.
25