Tải bản đầy đủ (.pdf) (132 trang)

Chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.34 MB, 132 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỜ CHÍ MINH

DANH NGỌC BÌNH

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở KHI LY HÔN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỜ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở KHI LY HÔN
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Định hướng ứng dụng
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học : TS. Lê Vĩnh Châu
Học viên
: Danh Ngọc Bình
Lớp
: Cao học Luật, Kiên Giang Khóa 1

TP. HỜ CHÍ MINH, NĂM 2022




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sĩ “Chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử
dụng đất ở khi ly hơn” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của của TS. Lê Vĩnh Châu. Nội dung Luận văn do tôi nghiên cứu và soạn
thảo một cách độc lập, không sao chép bất kỳ Luận án, Luận văn hay các loại văn
bản tương tự khác. Tất cả những nội dung tham khảo, kế thừa đều được trích dẫn và
tham chiếu đầy đủ. Các dữ liệu và thông tin trong Luận văn hồn tồn trung thực.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về các cam đoan nêu trên của mình.
Tác giả

Danh Ngọc Bình


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TT

CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

1

Bộ luật Dân sự

BLDS

2


Bộ luật Tố tụng dân sự

Bộ Luật TTDS

3

Luật Hơn nhân và gia đình

Luật HNGĐ

4

Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định
Nghị định 43/2014/NĐ-CP
chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai

5

Tịa án nhân dân

6

Thơng tư liên tịch số 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06
tháng 01 năm 2016 của Tịa án nhân
Thơng tư liên tịch 01/2016/TTLTdân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
TANDTC-VKSNDTC-BTP
tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dẫn thi

hành một số quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình

TAND


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. XÁC ĐỊNH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở LÀ TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG .....................................................................................................7
1.1. Xác định quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng căn cứ
vào nguồn gốc tài sản..........................................................................................7
1.2. Xác định quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng căn cứ
vào thời kỳ hôn nhân ........................................................................................13
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................22
CHƯƠNG 2. CĂN CỨ VÀ PHƯƠNG THỨC CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở KHI LY HÔN ............................23
2.1. Căn cứ chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly
hôn ......................................................................................................................23
2.2. Phương thức chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở
khi ly hôn ...........................................................................................................30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................40
KẾT LUẬN ..............................................................................................................41
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn, là sự tự nguyện liên
kết bền vững giữa một người nam và một người nữ trên nguyên tắc hoàn toàn tự
nguyện, bình đẳng, tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật. Sự tự nguyện này
với ý chí cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền
vững. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quan hệ hôn nhân chịu sự tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan đã không giữ được ý nghĩa như mong muốn
ban đầu dẫn đến đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích hơn nhân khơng đạt
được và xảy ra tình trạng ly hơn.
Kết hơn là một hiện tượng bình thường nhằm xác lập quan hệ vợ chồng thì ly
hơn là một hiện tượng bất bình thường, là mặt trái hơn nhân nhưng đó lại là mặt
không thể thiếu khi hôn nhân tan vỡ. Vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng thì ly hơn là
sự cần thiết cho cả hai, vì nó giải phóng cho hai vợ chồng, các con cũng như thành
viên khác trong gia đình khỏi mâu thuẫn, xung đột, bế tắc trong cuộc sống.
Khi ly hôn, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt đồng thời cũng đặt
ra các vấn đề về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng cần được giải quyết. Quyền sử
dụng đất ở với tư cách là quyền tài sản, được phép tham gia trong giao lưu dân sự,
từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ liên quan. Nội dung quyền này không chỉ được
quy định cụ thể trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, mà cịn có
một số nội dung quy định khá cụ thể trong chế định ly hôn của Luật Hơn nhân và
gia đình năm 2014. Tuy nhiên do quyền sử dụng đất ở là một loại tài sản mang tính
chất đặc biệt, thường có giá trị thực tế và giá trị sử dụng lớn, có ý nghĩa quan trọng
trong khối tài sản chung của vợ chồng nên tranh chấp về tài sản chung là quyền sử
dụng đất ở khi ly hôn diễn ra khá phổ biến về số lượng và phức tạp về nội dung.
Thực tế giải quyết loại tài sản này trong những năm vừa qua cho thấy Tồ án gặp
khơng ít khó khăn, một trong những ngun nhân chính dẫn đến tình trạng này là do
còn tồn tại một số bất cập từ pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng, trong đó
bao gồm chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở, như:
Một là, pháp luật quy định chưa cụ thể về xác định cơng sức đóng góp của vợ,
chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Đặc biệt là trường
hợp vợ chồng sống cùng gia đình khi ly hơn u cầu chia tài sản là nhà ở, quyền sử

dụng đất chung của gia đình.


2
Hai là, pháp luật hiện hành chưa quy định hình thức của thoả thuận phân chia
tài sản chung của vợ, chồng khi ly hôn là quyền sử dụng đất ở.
Ba là, nhận định của các cấp Tịa án chưa có sự thống nhất, đồng bộ trong
việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở bằng hiện vật hay bằng
giá trị.
Bốn là, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở bằng hiện vật
vẫn còn một số vụ án áp dụng chưa thống nhất và đồng bộ. Trong đó, việc chia tài
sản chung của vợ chồng bằng hiện vật khi một bên là người nước ngồi vẫn cịn
những tồn tại, hạn chế.
Đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về chia tài sản chung của vợ
chồng, trong đó cũng đã có các cơng trình nghiên cứu chun sâu về chia tài sản
chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất, tuy nhiên, số lượng cơng trình nghiên
cứu về chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở chưa nhiều.
Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích để làm sáng tỏ những quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình hiện hành về chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử
dụng đất ở là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Từ thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài “Chia tài sản chung của vợ chồng là
quyền sử dụng đất ở khi ly hôn” để làm luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu, thời gian qua việc nghiên cứu về đề tài “Chia tài sản chung của
vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn” đã được nhiều tác giả trong giới khoa
học pháp lý nói đến qua nhiều cơng trình, ở các cấp độ khác nhau như:
(i) Nhóm giáo trình và sách chuyên khảo
- Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Giáo trình Luật
Hơn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam. Nội
dung của giáo trình có đề cập đến những vấn đề chung về hôn nhân và gia đình,

chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn, đặc biệt là các vấn đề pháp lý liên quan đến
chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Cơng trình đã nêu ra những vấn
đề mang tính chất giáo khoa về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, đây là
nguồn tư liệu quan trọng để tác giả triển khai một số vấn đề cần nghiên cứu trong
luận văn của mình.
- Lê Vĩnh Châu (Chủ biên), (2018), Sách tình huống (bình luận bản án)
Luật Hơn nhân và gia đình, Nxb. Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam. Cuốn sách
này là tập hợp những bản án, quyết định mà nhóm tác giả đã lựa chọn liên quan


3
đến những vấn đề pháp lý phát sinh trong lĩnh vực Hơn nhân và gia đình, đặc biệt
là vấn đề liên quan phương thức chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, xác
định tài sản chung của vợ chồng do được tặng cho, xác định tài sản chung và tài
sản riêng khi giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng. Đây là nguồn tài liệu có
giá trị thực tiễn cao và thật sự rất hữu ích cho người viết tham khảo trong quá trình
tham gia nghiên cứu.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình
Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân. Giáo trình cũng trình bày các vấn đề pháp lý cơ
bản về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn nói chung cũng như vấn đề chia
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Tuy nhiên, nghiên cứu này hướng đến
việc phục vụ cho việc giảng dạy trong cơ sở đào tạo Luật, vì vậy chưa đánh giá thực
tiễn, chỉ ra bất cập, vướng mắc.
(ii) Nhóm bài viết nghiên cứu, bài báo trên tạp chí
Nguyễn Xuân Bình, Lê Vân Anh (2019), “Nguyên tắc chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hơn”, Tạp chí Tịa án nhân dân. Bài viết có nội dung phân tích quy
định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn, đồng thời chỉ ra những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.
Vũ Thị Thanh Huyền (2018), “Thỏa thuận về tài sản chung của vợ chồng khi
ly hơn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (318). Bài viết đã phân tích về chế định

thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và phân chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn.
Đỗ Văn Nhật (2012), “Một số vấn đề về chia tài sản của vợ chồng khi ly
hôn”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 3 (240). Bài viết có phân tích quy định
pháp luật, nêu lên một số quan điểm liên quan đến chia tài sản của vợ chồng khi ly
hôn. Tuy nhiên, các vấn đề phân tích trên được thể hiện ở thời điểm Luật Hơn nhân
và gia đình năm 2000 có hiệu lực.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề pháp
lý cơ bản, nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong đó có
quyền sử dụng đất, tuy nhiên quyền sử dụng đất ở với những đặc điểm pháp lý riêng
được quy định tại Luật Đất đai lại chưa được nghiên cứu một cách cụ thể, chi tiết
với tư cách là một quyền tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ được phân chia
như thế nào. Do đó, việc nghiên cứu chuyên sâu phạm trù quy định này sẽ tạo thuận
lợi nhất định, giúp cho quá trình xác định và phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn được giải quyết nhanh chóng, bảo vệ hài hịa lợi ích của các bên.


4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích lý luận, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, chỉ ra bất
cập, vướng mắc về chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly
hôn, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất ở của vợ chồng khi ly hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ phân tích, đánh giá làm
sáng tỏ các vấn đề sau:
- Phân tích, làm sáng tỏ các quy định pháp luật hiện hành về cách xác định tài
sản chung là quyền sử dụng đất ở của vợ chồng khi ly hôn; nguyên tắc chia tài sản
chung là quyền sử dụng đất ở của vợ chồng khi ly hôn;

- Phân tích, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành,
chỉ ra các bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về xác định, phân
chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn;
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xác
định, phân chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quy định của pháp luật về căn cứ, phương thức chia
tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn. Các quy định này
được điều chỉnh trong Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014, Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về các luật trên.
Thực tiễn thi hành, vướng mắc, bất cập về việc chia tài sản chung của vợ chồng là
quyền sử dụng đất ở khi ly hôn qua các vụ án dân sự cũng được khắc họa để làm
căn cứ kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Cơng trình chỉ nghiên cứu về việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền
sử dụng đất ở khi ly hôn. Trọng tâm là ở quan điểm áp dụng pháp luật khi xét xử
của hai cấp Tòa sơ thẩm và phúc thẩm.
Nghiên cứu của tác giả dựa trên quy định của pháp luật hơn nhân và gia đình
năm 2014 cùng văn bản hướng dẫn cho Luật này. Tuy nhiên để làm rõ hơn từng vấn
đề pháp lý nêu ra, tác giả có sử dụng quy định của pháp luật dân sự, pháp luật đất
đai cũng như các văn bản pháp luật hơn nhân và gia đình các giai đoạn trước đây


5
Về địa bàn, tác giả nghiên cứu ở nhiều địa phương khác nhau qua các vụ án
dân sự.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Thực tiễn áp dụng pháp luật từ 2014 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được triển khai trên cơ sở vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp

nghiên cứu khoa học khác nhau như phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải,
phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh, phương pháp tổng hợp. Dựa trên
kết cấu thành hai chương của đề tài là xác định và phân chia tài sản chung của vợ
chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn. Mỗi chương sẽ giải quyết dứt điểm một
vấn đề, do đó trong từng chương tác giả sẽ sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
khác nhau, cụ thể như sau:
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh,
phương pháp tổng hợp được sử dụng ở Chương 1 để: Phân tích các quy định của
các điều luật có liên quan, chỉ ra những vấn đề còn chưa rõ ràng, đi sâu làm rõ việc
xác định tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn; dùng
phương pháp chứng minh để chứng minh cho các nhận định, lập luận của tác giả;
sau cùng là sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng kết lại những vấn đề, lập luận
mà tác giả đã nêu tra trong các tiểu mục và toàn chương, nêu ra quan điểm cá nhân
về các vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp phân tích, diễn giải, phương pháp chứng minh, phương pháp
tổng hợp được sử dụng ở Chương 2, việc sử dụng kết hợp tương tự như ở Chương
1, trong đó tác giả sẽ sử dụng phương pháp diễn giải khi trình bày nội dung được
nêu ra trong vấn đề cần giải quyết, diễn giải về nội dung điều luật; sử dụng phương
pháp chứng minh để chứng minh cho những điều vừa diễn giải, chứng minh cho
những lập luận, nhận định và quan điểm của tác giả; phương pháp phân tích dùng để
phân tích các nội dung của bản án làm rõ thêm vấn đề pháp lý được nêu ra trong các
dẫn chứng là các bản án thực tế; phương pháp tổng hợp để đúc, rút lại vấn đề và đưa
ra kết luận.
Phương pháp tổng hợp để đúc kết lại các vấn đề đã giải quyết tại phần Tổng
kết Chương 1, Tổng kết Chương 2 và Tổng kết toàn luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo cho cá nhân, tổ chức
trong công tác nghiên cứu, học tập, áp dụng thực tiễn trong việc giải quyết các vấn đề
liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn.



6
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cái nhìn sâu và thực tế
đối với việc chia tài sản chung của vợ là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn.
Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật, đảm bảo tính thi hành cao trong thực tế về việc chia tài sản chung
của vợ chồng là quyền sử dụng đất ở khi ly hôn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
bao gồm 02 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Xác định quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng.
Chương 2: Căn cứ và phương thức chia tài sản chung của vợ chồng là quyền
sử dụng đất ở khi ly hôn.


7
CHƯƠNG 1
XÁC ĐỊNH QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở
LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Tài sản chung của vợ chồng được quy định tại Điều 33 của Luật HNGĐ năm
2014, cụ thể:
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do
lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định
tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc
được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hơn là tài sản chung
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để

bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp khơng có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang
có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Từ quy định trên có thể thấy, tài sản chung của vợ chồng có thể được hình
thành từ các căn cứ: Căn cứ vào thời kỳ hôn nhân, căn cứ vào ý chí của vợ chồng,
căn cứ vào nguồn gốc của tài sản và căn cứ vào sự suy đoán pháp lý, đó là trường
hợp vợ, chồng khơng chứng minh được là tài sản riêng của các bên khi có tranh
chấp, thì tài sản này cũng được xác định là tài sản chung. Với quy định trên của
Luật về tài sản chung, trong thực tiễn giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn là
quyền sử dụng đất ở, việc xác định quyền sử dụng đất ở khi được người khác tặng
cho có là tài sản chung của vợ chồng hay không; xác định quyền sử dụng đất ở của
vợ chồng trong khối tài sản chung với gia đình và xác định thế nào là tài sản có
được trong thời kỳ hơn nhân là những vấn đề khó khăn, vướng mắc nhất. Vì vậy
trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu về các nội dung này.
1.1. Xác định quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng căn cứ
vào nguồn gốc tài sản
Việc tặng cho một tài sản chung cho cả vợ và chồng rất thường được ghi
nhận trong thực tiễn Việt Nam. Người tặng cho thường là cha mẹ của vợ hoặc
chồng và việc tặng cho được thực hiện như một biện pháp khích lệ đối với cả vợ và
chồng trong việc duy trì và củng cố cuộc sống chung.


8
Theo quy định của Luật HNGĐ năm 2014: tài sản mà vợ chồng được tặng cho
chung là tài sản chung của vợ chồng. Tài sản mà vợ chồng được tặng cho riêng là tài
sản riêng1. Đối với việc tặng cho nhà ở, quyền sử dụng đất, phải lập thành văn bản,
hợp đồng phải được công chứng chứng thực trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Theo quy định tại Điều 459 của BLDS năm 2015 “Tặng cho bất động sản
phải được lập thành văn bản có cơng chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu
theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.”

Tuy nhiên, thực tế ở nước ta hiện nay, rất nhiều trường hợp ông bà, cha mẹ
tặng cho con cháu tài sản, đặc biệt là quyền sử dụng đất ở lại không lập thành văn
bản mà chỉ thực hiện thông qua lời nói hoặc hành vi. Vì vậy, khi vợ chồng người
con, người cháu ly hôn và xảy ra tranh chấp giữa gia đình chồng (hay gia đình vợ)
với con dâu (hay rể) về việc đã cho hay chưa cho tài sản. Đó là một trong những
vấn đề có rất nhiều vướng mắc, rất khó giải quyết. Từ thực tế này, câu hỏi đặt ra
“Pháp luật có thừa nhận việc tặng cho thực tế quyền sử dụng đất, nhà ở? Nếu việc
tặng cho vi phạm quy định về hình thức xử lý như thế nào?”.
Luật HNGĐ hiện hành không quy định cụ thể vấn đề này. Tuy nhiên, Luật
Dân sự và Luật Đất đai có điều chỉnh vấn đề này, cụ thể:
(i) Theo Điều 129 BLDS năm 2015 quy định “Giao dịch dân sự vi phạm quy
định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vơ hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng
văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất
hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tịa án ra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó.
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định
bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất
hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tịa án ra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này,
các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”
(ii) Tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP và Nghị định 01/2017/NĐ-CP của Chính
phủ hướng dẫn Luật Đất đai quy định như sau: “Các trường hợp đang sử dụng đất
sau đây mà chưa được cấp Giấy chứng nhận và không thuộc trường hợp quy định
tại khoản 2 Điều này thì người đang sử dụng đất thực hiện thủ tục đăng ký đất đai,
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
1

Điều 33, Điều 43 và Điều 44 Luật HNGĐ năm 2014.



9
liền với đất lần đầu theo quy định của Luật Đất đai và quy định tại Nghị định này
mà không phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; cơ quan tiếp nhận hồ sơ
không được yêu cầu người nhận chuyển quyền sử dụng đất nộp hợp đồng, văn bản
chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật:
a) Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất
trước ngày 01 tháng 01 năm 2008;
b) Sử dụng đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất từ
ngày 01 tháng 01 năm 2008 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014 mà có giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai và Điều 18 của Nghị định này.
Trong thực tiễn xét xử, điển hình cho trường hợp tranh chấp trên, với phán
quyết trong Án lệ 03/2016/AL được Hội đồng thẩm phán TAND tối cao thông qua
ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06
tháng 4 năm 2016 của Chánh án TAND tối cao cũng đã thừa nhận tặng cho thực tế
đối với nhà ở, quyền sử dụng đất.
Cụ thể nội dung vụ án trên, xét Quyết định Giám đốc thẩm số 208/2013/DSGĐT ngày 03/5/2013 của Tòa dân sự TAND tối cao2 về vụ án ly hôn tại Hà Nội
giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng với bị đơn là anh Phạm Gia Nam, trong đó hai
bên hai bên vợ chồng trong quá trình chung sống đã xây dựng được căn nhà 02 tầng
trên thửa đất 80m2. Khi ly hôn, hai bên vợ chồng đã thống nhất căn nhà là tài sản
chung của hai vợ chồng. Riêng về đất thì các bên khơng thống nhất được với nhau.
Theo chị Hồng, đất có nguồn gốc là của gia đình ơng Phạm Gia Phác (bố đẻ anh
Nam) được cấp đất giãn dân năm 1992, sau đó gia đình ơng Phác đã họp và tuyên
bố cho vợ chồng chị diện tích đất và không làm giấy tờ. Năm 2001, ông Phác sang
báo và anh Nam đi làm thủ tục cấp sổ đỏ nên đã được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đứng tên hộ anh Phạm Gia Nam nên đất này là tài sản chung. Theo anh
Nam, thửa đất này, bố mẹ anh được cấp giãn dân năm 1992. Bố mẹ anh chỉ cho vợ
chồng ở nhờ chứ chưa cho vì gia đình anh đơng anh em. Năm 2001, anh tự kê khai
làm giấy tờ đất, gia đình anh khơng biết. Quan điểm anh là đất trả lại ông Phác.
Trong vụ việc này, tại Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày

17/5/2011, TAND huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội đã quyết định: Xác nhận
ngôi nhà là tài sản chung của chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam. Xác nhận
quyền sử dụng đất 80m2 đất thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo,
Án lệ số 03/2016/AL được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh
án TAND tối cao (Phụ lục 1).

2


10
huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội thuộc hộ gia đình ơng Phạm Gia Phác. Buộc
chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia Nam phải trả lại cho hộ gia đình ơng Phạm Gia
Phác quyền sử dụng 80m2 thửa số 63 tờ bản đồ số 5 ở Vân Hòa, xã Vân Tảo, huyện
Thường Tín, thành phố Hà Nội. Giao hộ gia đình ơng Phạm Gia Phác được quyền
sở hữu tồn bộ tài sản trên thửa đất này gồm nhà hai tầng và cơng trình trên đất.
Buộc ơng Phạm Gia Phác phải thanh toán trả chị Đỗ Thị Hồng và anh Phạm Gia
Nam mỗi người 237.932.500 đồng.
Tại Bản án phúc thẩm số 105/2011/LHPT ngày 30/8/2011 và ngày 06/9/2011
TAND thành phố Hà Nội đã quyết định: Giữ nguyên Bản án hôn nhân và gia đình
sơ thẩm số 03/2011/HNGĐ-ST ngày 17/5/2011 của TAND huyện Thường Tín,
thành phố Hà Nội (như đã nêu ở trên).
Tại Quyết định Giám đốc thẩm số 208/2013/DS-GĐT ngày 03/5/2013 của
Tòa dân sự TAND tối cao đã quyết định: Hủy Bản án hơn nhân gia đình phúc thẩm
số 105/2011/LH-PT ngày 30/8/2011 và ngày 06/9/2011 của TAND thành phố Hà
Nội và Bản án hơn nhân gia đình sơ thẩm số 03/2011/HNGĐST ngày 17/5/2011 của
TAND huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội về phần quan hệ tài sản, đã giải quyết
vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn là chị Đỗ Thị Hồng và bị đơn là anh Phạm Gia
Nam; Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội xét xử sơ
thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Thông qua nội dung phán quyết của vụ án trên, ta có thể thấy, Tịa án đã thừa

nhận việc cha mẹ tặng cho con bất động sản mặc dù việc tặng cho khơng có văn bản
cơng chứng, chứng thực. Theo đó, trong trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người
con một diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích
đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những
người khác trong gia đình khơng có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử
dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành kê khai đất, được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ chồng người con đã được tặng
cho quyền sử dụng đất.
Qua thực tiễn trên, tác giả nhận thấy, đối với các trường hợp tặng cho quyền
sử dụng đất vi phạm quy định về hình thức thì vẫn có thể công nhận trong những
trường hợp sau:
(i) Trường hợp thứ nhất, người tặng cho viết giấy tặng cho quyền sử dụng đất
nhưng khơng có cơng chứng, chứng thực thì được cơng nhận khi người được tặng
cho đã nhận đất, sử dụng ổn định và đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


11
(ii) Trường hợp thứ hai, tặng cho bằng miệng (có đủ căn cứ xác định) thì
được cơng nhận khi người được tặng cho đã nhận đất, sử dụng ổn định, đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi người được tặng cho quyền sử dụng đất kê
khai, đăng ký, được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người tặng cho biết
nhưng khơng có khiếu nại gì (phải bằng đơn khởi kiện).
Tuy nhiên, việc công nhận hiệu lực của giao dịch tặng cho có vi phạm về
hình thức thông qua nội dung của án lệ số 03/2016/AL phải đáp ứng các đặc trưng
quan trọng là: (i) Người được tặng cho đã xây dựng nhà và sinh sống ở đó một cách
cơng khai nhưng người tặng cho biết nhưng không phản đối; (ii) Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã được cấp hợp pháp cho người được tặng cho kê khai đất và
khơng có tranh chấp tại thời điểm làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.
Vụ việc được giải quyết tại Án lệ số 03/2016/AL là tài sản đã đứng tên quyền
sở hữu, quyền sử dụng của vợ chồng người con. Vậy, nếu tài sản trong trường hợp

vợ chồng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở thì Tịa án sẽ phải
giải quyết như thế nào?
Thực tiễn xét xử, xét tại Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT ngày
16/12/2020 của TAND tỉnh Bình Định về việc giải quyết tranh chấp chia tài sản sau
khi ly hôn giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim P và anh Phan Cao H3. Theo chị P,
Chị và anh H kết hôn năm 1993, đến 17/6/2014 hai vợ chồng ly hôn theo Bản án số
399/2014/HNGĐ-ST của TAND thành phố Q. Về tài sản chung, sau khi kết hôn chị
và anh H sống chung với cha mẹ chồng là ông Q và bà Y. Đến năm 2010, nhà nước
thu hồi đất của Ơng Q và bà Y và có cấp lại cho ông bà lô đất số 37Đ4. Sau khi nhà
nước cấp đất, ông Q và bà Y cho vợ chồng chị, khi cho chỉ nói miệng, khơng có giấy
tờ gì. Nay chị P và anh H đã ly hôn, chị yêu cầu chia nhà và đất mỗi người ½, chị là
người nhận nhà và đất, thanh toán lại cho anh H ½ nhà và đất trên theo định giá.
Trong khi đó, anh H cho rằng: Nguồn gốc lơ đất trên là của ông Q và bà được
nhà nước cấp cho sau khi thu hồi đất. Ông Q và bà Y có cho vợ chồng anh chị,
nhưng chỉ nói miệng khơng có giấy tờ gì. Hiện nay ơng Q và bà Y cịn nợ tiền sử
dụng của lơ đất trên và chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguồn
tiền cất nhà là tiền của bà Y đưa cho anh khi nhận được tiền đền bù của Nhà nước.
Nhà và đất là của ông Q và bà Y không phải là tài sản chung anh H và chị P.
Tại Bản án Hơn nhân và Gia đình sơ thẩm số 739A/2020/HNGĐ-ST ngày
20/8/2020 của TAND thành phố Q, tỉnh Bình Định đã quyết định: Hợp đồng tặng
3

Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT ngày 16 tháng 12 năm 2020 của TAND tỉnh Bình Định (Phụ lục 2).


12
cho lô đất số 37Đ4 giữa vợ chồng ông Phan Cao Q, bà Cao Thị Y và anh Phan Cao
H, chị Nguyễn Thị Kim P chưa hồn thành. Khơng chấp nhận yêu cầu của chị P cho
rằng đất 37Đ4 là tài sản chung của chị và anh H trong thời kỳ hôn nhân.
Tại Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT ngày 16/12/2020 của TAND

tỉnh Bình Định đã quyết định giữ nguyên quyết định của Bản án Hơn nhân và Gia
đình sơ thẩm số 739A/2020/HNGĐ-ST ngày 20/8/2020 của TAND thành phố Q,
tỉnh Bình Định, tun xử Hợp đồng tặng cho lơ đất số 37Đ4 giữa vợ chồng ông
Phan Cao Q, bà Cao Thị Y và anh Phan Cao H, chị Nguyễn Thị Kim P chưa hồn
thành. Khơng chấp nhận u cầu của chị P cho rằng đất 37Đ4 là tài sản chung của
chị và anh H trong thời kỳ hôn nhân.
Qua vụ việc trên, tác giả đồng tình với phán quyết của TAND tỉnh Bình Định
tại Bản án phúc thẩm số 08/2020/HNGĐ-PT ngày 16/12/2020. Vì theo quy định của
Luật Dân sự, khoản 1 Điều 129 Luật Đất đai năm 2003, điểm a khoản 3 Điều 167,
khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 thì việc tặng cho quyền sử dụng đất và tài
sản trên đất phải lập thành văn bản và phải có cơng chứng, chứng thực theo quy
định của pháp luật và phải đăng ký tại cơ quan đăng ký đất đai. Hơn nữa, theo quy
định tại khoản 1 Điều 168, khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định
43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai và Nghị
định 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất thì
người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải thực hiện
xong nghĩa vụ tài chính trước khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại, tặng cho, thế chấp. Tuy nhiên, tại bản án trên, ông Q và bà Y chưa thực
hiện xong nghĩa vụ đóng tiền sử dụng đất. Vì vậy việc vợ chồng ông Q và bà Y cho
lô đất 37Đ4 cho vợ chồng anh H và chị P là chưa đúng quy định pháp luật.
Tự vụ việc trên tác giả nhận thấy: nếu quyền sử dụng đất có nguồn gốc của
cha mẹ (hoặc cha mẹ nhận chuyển nhượng với mục đích tặng cho vợ chồng người
con) đã giao cho người con sử dụng nhưng không thành lập văn bản và cũng không
công chứng, chứng thực, khi ly hôn, nếu cha mẹ địi lại thì quyền sử dụng đất vẫn
thuộc về cha mẹ.
Từ thực tiễn trên, tác giả nhận thấy: một loại tranh chấp phổ biến hiện nay
trong các tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng là khi ly hơn thì bố mẹ chồng
hoặc vợ cho rằng quyền sử dụng đất là bố mẹ cho mượn hoặc chỉ cho con trai hoặc
con gái mà không cho con dâu hoặc con rể. Trong khi đó, hiện nay, chưa có văn bản
pháp luật nào chính thức quy định về vấn đề này mà chỉ có án lệ của TAND tối cao.



13
Kiến nghị:
Để việc xét xử được thống nhất, làm cơ sở giải quyết chia tài sản của vợ
chồng khi ly hôn trong trường hợp được cha mẹ tặng cho quyền sử dụng đất, tác giả
đề xuất TAND tối cao cần có văn bản hướng dẫn vấn đề này theo hướng:
Nếu quyền sử dụng đất ở có nguồn gốc của cha mẹ (hoặc cha mẹ nhận
chuyển nhượng với mục đích tặng cho vợ chồng người con) đã giao cho người con
sử dụng nhưng nếu người con chưa kê khai, chưa đứng tên trong sổ địa chính hoặc
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì khi ly hơn, nếu cha mẹ địi lại
thì phải phân biệt: (i) nếu cha mẹ cho vợ chồng người con có lập văn bản và cơng
chứng, chứng thực thì cơng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
người con; (ii) nếu không thành lập văn bản và cũng không công chứng, chứng thực
thì quyền sử dụng đất ở này vẫn thuộc về cha mẹ.
Án lệ số 03/2016/AL đã phần nào tháo gỡ được một số vướng mắc liên quan
đến trường hợp cha, mẹ tặng cho con quyền sử dụng đất ở, tuy nhiên, người viết có
một số kiến nghị như sau:
- Thứ nhất, cần mở rộng đối tượng áp dụng vì Án lệ số 03/2016/AL chỉ đề
cập đến chủ thể tặng cho là cha, mẹ mà không đề cập đến các chủ thể khác, như
ông, bà, anh, chị, em…
- Thứ hai, nên giới hạn phạm vi thời gian áp dụng vì các quy định liên quan
đến hình thức của hợp đồng đã được ban hành và áp dụng nhiều năm ở Việt Nam,
đồng thời trình độ dân trí, nhận thức, hiểu biết pháp luật của người dân ngày càng
cao. Vì vậy, đối với trường hợp tặng cha, mẹ tặng cho con quyền sử dụng đất ở vi
phạm quy định của pháp luật về hình thức chỉ nên thừa nhận giá trị của việc tặng
cho thực tế trong một khoảng thời gian nhất định.
1.2. Xác định quyền sử dụng đất ở là tài sản chung của vợ chồng căn cứ
vào thời kỳ hơn nhân
- Tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân

Luật HNGĐ năm 2014 quy định tài sản chung, tài sản riêng, cụ thể:
Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và
thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại
khoản 1 Điều 40 của Luật HNGĐ năm 2014; tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung


14
của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng hoặc có được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.
Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn;
tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được
chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật HNGD
năm 2014; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo
quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Tài sản được hình thành
từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng.
Theo đó, tài sản mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hơn sẽ được xác
định là tài sản riêng của chính người đó, tài sản này chỉ có thể trở thành tài sản
chung của vợ chồng khi họ thỏa thuận nhập vào tài sản chung.
Như vậy, tài sản mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn là tài sản riêng, tài
sản mà vợ hoặc chồng có được trong thời kỳ hơn nhân về nguyên tắc được xác định là
tài sản chung. Tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hơn nhân, tức là sau khi họ
thành vợ chồng. Nếu một tài sản mà người vợ hoặc người chồng có được trước khi họ
thành vợ hoặc chồng là của riêng người đó. Luật HNGĐ năm 2000 trước đây cũng xác
định những tài sản này là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, khi áp dụng Luật
HNGĐ năm 2000 đã phát sinh vấn đề gây tranh luận: trước khi trở thành vợ chồng của
nhau, người chồng hoặc người vợ thực hiện một giao dịch bằng chính tài sản riêng của
mình, nhưng giao dịch này lại hoàn thành khi họ đã là vợ, chồng. Vậy tài sản đó được

hiểu như thế nào? Có quan điểm cho rằng, tài sản có được từ những giao dịch này là
sản chung hiểu theo nghĩa “có được trong thời kỳ hôn nhân”, trong trường hợp này,
mặc dù, người chồng hoặc người vợ thực hiện giao dịch trước khi kết hơn nhưng giao
dịch được hồn thành trong thời kỳ hôn nhân, tức là dựa vào thời điểm hồn thành của
giao dịch. Có quan điểm cho rằng, tài sản này phải được xác định là tài sản riêng của
người chồng hoặc người vợ, mặc dù, giao dịch được hồn thành khi anh ta kết hơn
nhưng được mua bằng tài sản riêng của người chồng hoặc vợ. Như vậy, cụm từ “có
được trong thời kỳ hơn nhân” cần điểm xem xét vào thời điểm vợ, chồng xác lập giao
dịch chứ khơng phải thời điểm hồn thành giao dịch4. Hiện nay, Luật HNGĐ hiện hành
năm 2014 đã xác định: Tài sản hình thành từ tài sản riêng là tài sản riêng.5 Vì vậy,
trong tình huống trên, tài sản là của riêng người vợ hoặc chồng.
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018), Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb.Hồng Đức, Hội Luật gia Việt Nam, tr. 211.
5
Khoản 2, Điều 43 Luật HNGD năm 2014
4


15
Tuy nhiên trên thực tiễn, các Tòa án vẫn gặp khó khăn trong việc xác định tài
sản chung, tài sản riêng của vợ chồng đối với tài sản “có được trong thời kỳ hôn
nhân” khi xảy ra tranh chấp. Chẳng hạn:
Tình huống: Bản án phúc thẩm số 25/2021/HNGĐ-PT ngày 25/10/2021 của
Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ về ly hôn, tranh chấp chia tài sản khi ly hôn
giữa nguyên đơn Bà Hồ Thị H và bị đơn Ông Nguyễn Bảo T6. Theo đó:
Bà H với ơng T sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1991, đăng ký kết
hôn ngày 16/01/2008 tại Ủy ban nhân dân xã Tr, huyện T. Vợ chồng chung sống có
với nhau 01 con chung tên Nguyễn Bảo Kh, sinh ngày 03/2/1995. Đến năm 2017 thì
phát sinh mâu thuẫn do ơng T tính tình thay đổi, nóng tính, xúc phạm bên gia đình
bà và đã ly thân từ tháng 6/2018. Nay bà khơng cịn tình cảm với ơng T, bà u cầu

ly hơn và chia ½ quyền sử dụng đất tại thửa số 642, 655, 301 cấp ngày 16/3/2010,
đất tọa lạc tại ấp Tr, xã T, huyện T, thành phố Cần Thơ do ông Nguyễn Bảo T đứng
tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên thửa đất 301 có 01 căn nhà như đã
thẩm định ngày 07/12/2020 và định giá ngày 04/3/2021, bà đồng ý giao căn nhà cho
ông T sử dụng nhưng ông T phải chia ½ giá trị căn nhà.
Theo ông H, ơng thống nhất lời trình bày của bà H về quan hệ hôn nhân, con
chung. Tuy nhiên về tài sản: (i) Đối với các thửa đất 642, 655 là tài sản riêng của
ơng có từ trước khi kết hơn với bà H, ông không đồng ý chia cho bà H. (ii) Riêng
thửa đất 301 cũng là tài sản riêng của ông, hiện ông đứng tên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, ơng đồng ý chia cho bà H ½ diện tích, ơng u cầu được sử
dụng phần đất bên khơng có căn nhà. (iii) Đối với căn nhà, vật kiến trúc trên đất tại
thửa số 301, ông thừa nhận căn nhà xây dựng năm 2000 là tài sản chung của vợ
chồng, ông đồng ý để cho bà H sử dụng căn nhà, bà H phải có trách nhiệm trả cho
ơng ½ giá trị căn nhà như giá đã định.
Tại Bản án Hơn nhân gia đình sơ thẩm số 44/2021/HNGĐ-ST ngày 11/6/2021
của Tòa án nhân dân huyện Thới Lai đã quyết định: Về phần tài sản, buộc ông
Nguyễn Bảo T có trách nhiệm chia cho bà Hồ Thị H quyền sử dụng đất như sau:
(i) Bà H được nhận là vị trí B, diện tích 998,0 m2 (loại đất CLN), theo trích
đo địa chính số 33/TTKTTNMT ngày 22/4/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Giấy chứng nhận số CH00073, thửa số
642 diện tích đo đạc thực tế 1.975,4 m2, loại đất CLN, cấp ngày 16/3/2010.
6

truy cập lúc 09h00 ngày 12/4/2022 (phụ lục 3).


16
(ii) Bà H được nhận là vị trí B, diện tích 940,0 m2(loại đất LUC), theo trích
đo địa chính số 32/TTKTTNMT ngày 22/4/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Giấy chứng nhận số CH00072, thửa đất

số 655, diện tích đo đạc thực tế 2.036,5 m2, loại đất LUC, cấp ngày 16/3/2010.
(iii) Bà H được nhận là vị trí B, diện tích 344,5 m2 (loại đất ONT), theo trích
đo địa chính số 34/TTKTTNMT ngày 22/4/2021 của Trung tâm kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ. Giấy chứng nhận số CH00074, thửa đất
số 301 đo đạc thực tế 715,4 m2, loại đất ONT, cấp ngày 16/3/2010.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông T kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chia đôi 03 thửa đất, do
đây là tài sản riêng của ơng có trước hơn nhân.
Ngày 22/6/2021, Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai kháng
nghị, đề nghị cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn về việc yêu cầu chia thửa đất 642 và 645, do đây là tài sản riêng
của ơng Tồn.
Tại phiên tịa phúc thẩm, Tịa án nhân dân Thành phố Cần Thơ nhận định:
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Lai là có căn cứ. Theo đó, về
nguồn gốc tài sản tranh chấp, theo thừa nhận của các đương sự và các tài liệu chứng
cứ có trong hồ sơ thể hiện, nguồn gốc 03 thửa đất là của cha mẹ ông T cho ông T
trước năm 1991, năm 1991 ông T kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 000209 ngày 12/11/1992, đến năm 2010 ông
T đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được cấp lại giấy chứng nhận nêu
trên. Hôn nhân giữa bà H và ông T được xác lập năm 2008, theo Điều 32 Luật
HNGĐ năm 2000, Điều 43, 44 Luật HNGĐ năm 2014 qui định:“ Tài sản riêng của
vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hơn;...Vợ, chồng có quyền
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng của mình; nhập hoặc khơng nhập tài sản
riêng vào tài sản chung.” Ơng T khơng đồng ý và cũng khơng có văn bản đồng ý
nhập tài sản riêng vào tài sản chung nên cần xác định đây là tài sản riêng của ông T.
Cấp sơ thẩm cho rằng ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời
kỳ chung sống với bà H để xác định là tài sản chung là không phù hợp pháp luật.
Qua vụ việc trên tác giả nhận thấy, trong thực tiễn xét xử của Tòa án vẫn tồn
tại các quan điểm khác nhau về tài sản “có được trong thời kỳ hơn nhân” , cụ thể7:
Lê Vĩnh Châu (Chủ biên), (2014), Sách tình huống (bình luận bản án) Luật Hơn nhân và gia đình, Nxb.

Hồng Đức, Hội luật gia Việt Nam, tr. 121.
7


17
(i) Quan điểm thứ nhất cho rằng: xác định tài sản mà vợ hoặc chồng có được
trong thời kỳ hơn nhân là tài sản chung cần dựa vào thời điểm họ được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng.
(ii) Quan điểm thứ hai cho rằng: xác định tài sản mà vợ chồng có được trong
thời kỳ hơn nhân cần dựa vào thời điểm họ thực hiện giao dịch.
Qua vụ việc trên, tác giả đồng ý với quyết định tại Bản án phúc thẩm số
25/2021/HNGĐ-PT ngày 25/10/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ, theo
đó, nguồn gốc 03 thửa đất là của cha mẹ ông T cho ông T trước năm 1991, năm 1991
ông T kê khai đăng ký quyền sử dụng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 000209 ngày 12/11/1992, đến năm 2010 ông T đổi lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và được cấp lại giấy chứng nhận nêu trên. Việc Tòa án cấp sơ
thẩm căn cứ việc ông T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong thời kỳ
chung sống bà H để xác định 03 thửa đất là tài sản chung là chưa phù hợp pháp luật.
Kiến nghị:
Từ thực tiễn trên, tác giả đề xuất TAND tối cao theo hướng:
Thứ nhất, Luật hơn nhân và gia đình khơng quy định cụ thể và các văn bản
hướng dẫn thi hành cũng khơng có bất kỳ quy định nào hướng dẫn về thời điểm xác
định khối tài sản riêng của vợ chồng. Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về thời
điểm “có” tài sản. Nếu áp dụng quy định của Bộ Luật Dân sự để xác định tài sản thì
khơng đảm bảo được quyền lợi cho chủ sở hữu và không phù hợp với căn cứ xác
lập tài sản chung. Do đó, theo tác giả để tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật
và đảm bảo được quyền lợi của vợ chồng - chủ tài sản khi ly hơn thì pháp luật cần
bổ sung quy định, hướng dẫn theo hướng công nhận thời điểm xác lập tài sản riêng
là thời điểm “có” tài sản trên thực tế. Theo đó, tại khoản 1 Điều 43 Luật HNGĐ
năm 2014 cần sửa đổi như sau “1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi

người có trên thực tế trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho
riêng trong thời kỳ hôn nhân;.....”
Thứ hai, các quy định về việc nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản
chung của vợ chồng cần phải có sự quy định rõ ràng thể thức của thỏa thuận sáp
nhập tài sản đó. Đối với những quan hệ sáp nhập tài sản riêng vào tài sản chung
trước khi Luật HNGĐ năm 2014 có hiệu lực cũng như các quy định khác về đăng
ký tài sản, các nhà làm luật cần xây dựng các án lệ để tạo ra những quy tắc chung
giúp các Tịa có căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng trong những tình huống
như trên.


18
- Xác định quyền sử dụng đất ở trong trường hợp vợ chồng sống chung với
gia đình là tài sản chung của vợ chồng
Ở Việt Nam có rất nhiều cặp vợ chồng sống chung với gia đình bên vợ hoặc
gia đình bên chồng và kéo dài cho đến ngày chấm dứt hơn nhân. Trong q trình
chung sống, vợ chồng và các thành viên khác cùng lao động tạo lập khối tài sản
chung của đại gia đình. Trong trường hợp này, nếu như hai vợ chồng ly hơn sẽ gây
khơng ít khó khăn trong q trình chia tài sản chung của vợ chồng, đặc biệt là chia
quyền sử đất của vợ chồng nằm trong khối tài sản chung của gia đình. Theo quy
định của Luật HNGĐ hiện hành, việc phân chia tài sản của vợ chồng trong trường
hợp này tùy thuộc vào tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có
xác định được hay khơng mà sẽ có cách chia khác nhau như sau:
(i) Trường hợp, tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia
đình khơng xác định được.
Theo khoản 1 Điều 61 Luật HNGĐ năm 2014 quy định, trường hợp vợ chồng
sống chung với gia đình mà ly hơn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chng
của gia đình khơng xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối
tài sản chung của gia đình căn cứ vào cơng sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo
lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung của gia đình. Việc chia một phần trong

khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu khơng thỏa thuận được
thì u cầu Tịa án giải quyết.
(ii) Trường hợp tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có
thể xác định theo phần.
Theo khoản 2 Điều 61 Luật HNGĐ năm 2014 quy định, trường hợp vợ chồng
sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình
có thể xác định được theo thành phần thì khi khi ly hơn, phần tài sản của vợ chồng
được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định tài Điều 59 của Luật này.
Tuy nhiên trên thực tế, việc giải quyết tài sản của vợ chồng trong khối tài sản
chung của gia đình có thể xác định theo phần thì tương đối đơn giản. Ngược lại,
trong trường hợp tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản của gia đình khơng
xác định được theo phần, thì Tịa án căn cứ vào cơng sức đóng góp của vợ chồng
vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống của gia
đình để phân chia một phần tài sản trong khối tài sản chung đó cho bên ra đi. Tuy
nhiên, việc xác định một cách chính xác cơng sức đóng góp của một bên trong việc
phát triển khối tài sản chung thì khơng đơn giản.


19
Ví dụ như: vợ chồng góp tiền cùng cha mẹ chồng nhận chuyển nhượng đất
ở nhưng khi đăng ký quyền sử dụng đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất chỉ ghi tên cha mẹ chồng. Khi ly hôn, việc chia quyền sử dụng đất đó sẽ do
vợ chồng thỏa thuận với gia đình. Trong trường hợp khơng thỏa thuận được thì
u cầu tịa án giải quyết. Khi Tịa án giải quyết vụ việc, vợ chồng cần chứng
minh được hành vi họ góp tiền cùng với cha mẹ chồng để nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Tòa án sẽ căn cứ vào số tiền mà vợ chồng đã đóng góp để
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cơng sức đóng góp của vợ chồng vào
việc duy trì phát triển mảnh đất đó cũng như vào đời sống chung của gia đình để
chia một phần quyền sử dụng đất đó cho người vợ (là người không đứng tên trực
tiếp trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với

gia đình chồng).
Theo quy định trên, khi khơng thể xác định được quyền sử dụng đất chung
của vợ chồng trong quyền sử dụng đất chung của hộ gia đình thì buộc vợ, chồng
phải chứng minh cơng sức đóng góp của họ vào việc tạo lập, duy trì phát triển
mảnh đất đó. Điều này là hợp lý, tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp khơng
thể chứng minh được, đặc biệt khi vợ chồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất chung với gia đình. Bởi lẽ, khi gia đình cịn êm ấm, vợ chồng người con cùng
với cha mẹ chồng (hoặc cha mẹ vợ) góp tiền của để nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là một việc bình thường, không ai nghĩ đến việc phải làm giấy tờ chứng
minh ai đã góp bao nhiêu để tạo lập mảnh đất đó. Mặt khác, khi vợ chồng ly hơn
thường xảy ra tình trạng người vợ hoặc chồng cùng với cha mẹ ruột phủ nhận
cơng sức đóng góp của người chồng hoặc vợ trong việc tạo lập mảnh đất là tài sản
chung của gia đình dẫn đến việc chứng minh càng khó khăn và phức tạp.
Ví dụ: Bản án số 01/2019 HNGĐ-ST, ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân
tỉnh Trà Vinh về việc ly hôn, chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản chung trong hộ gia
đình giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ch và bị đơn ông Nguyễn Văn C8. Theo đó,
bà Ch u cầu Tịa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn C và yêu
cầu chia tài sản chung là diện tích đất 4.580m2, thửa số 224, loại đất trồng lúa, tờ
bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp L, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Trong tổng diện tích 4.580 m2, thửa số 224, loại đất trồng lúa, tờ bản đồ số
01, tọa lạc tại ấp L, xã B, huyện C, tỉnh Trà Vinh thì Hội đồng xét xử đã xác định:
Bản án sơ thẩm số 01/2019 HNGĐ-ST, ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh
(Phụ lục 4).
8


20
(i) Tài sản chung của vợ chồng chị là 3.200 m2 nằm trong tổng diện tích
4.580 m2, thửa số 224. Căn cứ khoản 2 Điều 59 của Luật HNGĐ năm 2014 quy
định: “Tài sản chung của vợ chồng được chia đơi nhưng có tính đến yếu tố hồn

cảnh gia đình của vợ, chồng, cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy
trì và phát triển khối tài sản chung…”. TAND tỉnh Trà vinh đã quyết định chia diện
tích đất 3.200 m2 cho chị Ch được hưởng ½ (Một phần hai) bằng 1.600 m2, cùng với
các loại cây ăn trái có trên diện tích đất.
(ii) Bên cạnh, diện tích đất 3.200 m2 là tài sản chung của vợ chồng chị Ch và
anh C, phần diện tích đất cịn lại trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là
1.300m2, thửa số 224. Theo tư liệu đo đạc và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
vào năm 1996, là cấp cho hộ bà B (BL 191); theo Công văn số 64/CAH ngày
29/4/2016 của Công an huyện C, vào thời điểm năm 1996 chị Ch là thành viên trong
hộ gia đình của bà B (BL 186). Hơn thế, chị Ch về làm dâu, sống chung với gia đình
bà B từ năm 1987; chị Ch và anh C tiến hành cải tạo đất, từ đất trồng lúa thành đất
trồng cây ăn trái (Đất vườn). Căn cứ theo Điều 61 của Luật HNGĐ năm 2014 quy
định “Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hơn, nếu tài sản của
vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào cơng sức đóng góp của vợ
chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống
chung của gia đình…”. TAND tỉnh Trà Vinh đã quyết định chia diện tích đất còn lại
là 1.300 m2, thửa số 224 cho chị Ch được hưởng một phần, tương ứng với tỷ lệ 30%
bằng 400m2, cùng với các loại cây ăn trái có trên diện tích đất.
Như vậy, tổng diện tích đất chị Ch được chia trong khối tài sản chung của vợ
chồng và diện tích đất chị Ch được chia trong khối tài sản chung của gia đình bằng
2.000 m2 (1.600 m2 + 400 m2 = 2.000 m2), cùng với các loại cây ăn trái có trên diện
tích đất chiết thửa số 224, loại đất trồng lúa, tờ bản đồ số 01, tọa lạc tại ấp L, xã B,
huyện C, tỉnh Trà Vinh.
Ngoài ra, trên thực tế cịn có trường hợp vợ chồng sống chung với cha mẹ vợ
hoặc cha mẹ chồng dưới cùng một mái nhà, căn nhà gắn liền với quyền sử dụng đất
là tài sản duy nhất của vợ chồng nhưng lại là tài sản chung của cả hộ gia đình và
phần tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung đó khơng xác định được. Khi vợ
chồng ly hôn, nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất đó sẽ được chia như thế nào?
Trường hợp này áp dụng tương tự pháp luật của khoản 3 Điều 62 của Luật HNGĐ
năm 2014 khi ly hôn quyền lợi của bên khơng có quyền sử dụng đất và khơng tiếp

tục sống chung với gia đình được giải quyết theo khoản 1 Điều 62 của Luật HNGĐ


×