MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1 ................................................................................................................ 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA vợ CHỔNG KHI LY HÔN.................................. 9
1.1. Khái niệm chung về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn....................... 9
1.1.1. Khái niệm ly hôn............................................................................................... 9
1.1.2. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng............................................................ 12
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.................................. 14
1.2. Khái lược quy định chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo hệ thống
pháp luật hơn nhân và gia đình của Nhà nước ta.......................................................17
1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành vê chia tài sản chung của vợ chông khi ly hôn .21
1.3.1. Chia tài sản chung của vợ chông khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo thoả thuận...........................................................................21
Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung cùa vợ chồng theo thỏa thuận (có thỏa
thuận tài sản) thì khi ly hơn việc phân chia tài sản theo thoa thuận đó; nếu thỏa
thuận khơng đầy đủ, khơng rõ ràng thì áp dụng các quy định tương ứng của luật
định để phân chia........................................................................................................ 21
1.3.2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng lựa
chọn chế độ tài sản theo luật định..............................................................................23
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................................... 35
CHƯƠNG 2.............................................................................................................. 36
CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA vợ CHỒNG KHI LY HƠN TÙ' THựC TIÊN ÁP
DỤNG CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN TẠI THÀNH PHỔ HẢI PHÒNG VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN
CHUNG CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN............................................................. 36
\
9
\
ỉ
ỉ
2.1. Khái quát vê đặc diêm điêu kiện tự nhiên, kinh tê - xã hội ảnh hưởng đên việc
ly hôn và chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố
Hải Phòng................................................................................................................... 36
2.2. Thực trạng chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn của Tòa án nhân dân tại
thành phố Hải Phòng.................................................................................................. 39
2.2.1. Số liệu các vụ án ly hơn................................................................................... 39
2.2.2. Tính chất phức tạp trong xác định tài sản chung của vợ chồng để chia khi có
tranh chấp.................................................................................................................. 42
2.3 Một số trường hợp cụ thể chia tài sản chung của VỌ’ chồng khi ly hơn của Tịa án
nhân dân tại thành phố Hải Phòng........................................................................... 48
2.3.1. Một số vụ việc điển hình..................................................................................48
2.3.2. Một số nhận xét................................................................................................ 59
2.4. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn............................ 60
2.4.1. Kiến nghi hoàn thiện quy định pháp luật về tài sản và chia tài sản chung của
vợ chồng..................................................................................................................... 60
2.4.2. Kiến nghị giải pháp bảo đảm hiệu quả chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn.............................................................................................................................. 67
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................... 71
KẾT LUẬN................................................................................................................ 73
DANH MỤC TÀILIỆU THAM KHẢO................................................................. 75
DANH MỤC TỪ VIẾT TẲT
TÊN ĐẦY ĐỦ
TÊN TÙ VIẾT TẮT
BLDS
Bơ• lt
• Dân sư•
BLTTDS
Bộ luật Tố tụng Dân sự
BTP
Bộ Tư pháp
HN&GĐ
HĐND
Hơn nhân và gia đình
Hội đồng nhân dân
HĐTP
Hội đồng thẩm phán
Nxb
QSDĐ
Nhà xuất bản
Quyền sử dụng đất
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
TNHH
Trách nhiêm
• hữu han
•
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
VKSNDTC
Viên
• kiểm sát nhân dân tối cao
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1
Công tác giải quyết các vụ việc HN&GĐ tại Hải Phòng
39
Bảng 2.2
Báo cáo số liệu án HN&GĐ của TAND quận Đồ Sơn, thành
40
phố Hải Phòng
MỞ ĐÀU
Im ĩ-_ 1 -
.
F
-Ã
A1
•
r
A
_
_
• A _
_
1_ • A
_
r
->
4 A •
Tính cap thiêt ciía việc nghiên cứu đê tài
Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt; xã hội tốt
thì gia đình càng tốt (Hồ Chủ Tịch). Gia đình là một thiết chế xã hội, là mơi
trường hình thành, ni dưỡng và giáo dục thể chất, nhân cách đạo đức con
người. Lợi ích của nhà nước, của xã hội luôn ấn chứa trong từng quan hệ gia
đình - hạt nhân của xã hội. Chính vì vậy, Nhà nước ln bằng pháp luật điều
chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình (HN&GĐ); bão đảm lợi ích của các
thành viên gia đình; bảo đàm sự tồn tại bền vững của gia đình. Mặc dù hơn
nhân ln có tính chất tồn tại lâu dài, bền vững; Tuy nhiên, do nhiều yếu tố
tác động dẫn đến mâu thuẫn, xung đột giữa vợ chồng và khi không cịn tình
cảm u thương gắn bó giũa vợ chồng thì ly hôn được đặt ra nhằm chấm dứt
quan hệ vợ chồng như một yếu tố khách quan.
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định cỏ
hiệu lực pháp luật của Tòa án . Ly hôn là mặt trái cũa quan hệ hôn nhân
nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. vấn đề ly
hơn được Tịa án giải quyết đều thể hiện trên hai phương diện tích cực và tiêu
cực. Ly hơn thực chất nhằm giải phóng cho vợ chồng thốt khỏi xung đột,
mâu thuẫn gia đình; nhưng cũng đồng thời làm chấm dứt quan hệ vợ chồng,
dẫn đến tinh trạng “tan đàn, xẻ nghé”; ly tán giữa cha mẹ với các con. Hậu
quả pháp lý của việc ly hôn thường ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích
chính đáng của vợ chồng và các con. Do vậy, pháp luật ln định rõ trong
trường hợp nào thì vợ chồng được ly hôn và giải quyết hậu quả của ly hôn
như thế nào.
Vấn đề ly hôn ở nước ta trong những năm gần đây gia tăng về số lượng,
phức tạp khi giải quyết hậu quả pháp lý, trong đó việc chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn thường có tranh chấp gay gắt, kẻo dài; nhất là việc xác
định tài sản chung của vợ chồng. Thực tiễn những năm qua cho thấy nhiều
1 Khoản 14 Điều 3 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014
trường hợp khi ly hôn, vợ chông không thỏa thuận được với nhau vê việc chia
tài sản chung, vợ chồng thường xảy ra các tranh chấp liên quan đến các quyền
dân sự như quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong đó đặc biệt các tranh
chấp về quyền tài sản rất phức tạp bởi đặc tính pháp lý của sở hữu chung giữa
vợ chồng. Quan hệ giữa vợ chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân thân,
tồn tại trong thời kỳ hôn nhân và nhiều khi không xác định được cơng sức
đóng góp cụ thể của các bên nên khi xảy ra tranh chấp thì việc phân chia tài
sản chung của vợ chồng là rất khó khăn. Khi gia đình hạnh phúc ranh giới
giữa tài sản chung và tài sản riêng ít người để ý và quan tâm. Khi tình cảm vợ
chồng rạn nứt, đổ vỡ, vợ chồng có quyền tự thỏa thuận chia tài sản chung của
họ, nhưng khi họ khơng thỏa thuận được thì Tịa án quyết định khi vợ chồng
có yêu cầu giải quyết, việc vận dụng những quy định của pháp luật Hôn nhân
và gia đình để giải quyết tranh chấp chia tài sản của vợ chồng là điều cần thiết
để đảm bảo quyền, lợi ích của các bên.
Kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời, Nhà nước đã tuyên truyền và
phổ biến rộng rãi để mọi người dân hiểu biết trong việc bảo vệ quyền lợi của
mỗi thành viên và xây dựng gia đình hạnh phúc. Việc phân chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn đã được quy định trong Luật Hơn nhân và gia đình.
Xuất phát từ thực tế, Luật HN&GĐ năm 2014 trên cơ sở kế thừa Luật
HN&GĐ trước đó, tiếp tục quy định về việc phân chia tài sản chung của vợ
chồng. Trong nhiều năm qua, chế định này đã từng bước đi vào cuộc sống
phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng, cũng cố chế độ
HN&GĐ Việt Nam. Trên thực tế nhiều Tòa án địa phương trong khi thụ lý,
xét xử giải quyết tranh chấp về phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn đã được đánh giá khách quan là phương hướng giải quyết phù hợp đảm
bảo chính sách pháp luật, quan tâm đúng mức quyền lợi của người vợ và con
cái, phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, trong thực tế giải quyết việc chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn cho thấy vẫn cịn có những vướng mắc, bất
cập trong việc xác định và giải quyết hậu quả pháp lý về chia tài sản chung
2
của vợ chơng. Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích đê làm sáng tỏ những quy
định của Luật HN&GĐ năm 2014 về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hơn là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, có tính thời sự.
Đặc biệt, nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn tại
thành phố Hải Phịng, một địa phương có sự phát triển về kinh tế, xã hội của
cả nước. Một mặt nhằm luận giải các quy định của pháp luật liên quan đến
chia tài sàn chung của vợ chồng khi ly hơn, mặt khác, góp phần kiến nghị
hoàn thiện các quy định của pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn là rất cần thiết. Xuất phát từ lý do nêu trên, học viên đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn
xét xử của Tòa án nhân dân tại thành phố Hải Phòng” đề thực hiện luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cún đề tài
Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn nói chung đã được
nhiều tác giả nghiên cứu, bởi tính thời sự và phức tạp của nó. Từ các quy định
của pháp luật đến việc áp dụng trong thực tiễn vẫn còn có những “khoảng
cách” nhất định, vẫn cịn nhiều những quan điểm, nhận định, đánh giá khác
nhau từ phía những nhà nghiên cứu và thực tiễn áp dụng liên quan đến việc
chia tài sản chung cúa vợ chồng khi ly hôn. Kể từ khi ban hành Luật HN&GĐ
năm 2000, đặc biệt từ ngày Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực (từ ngày
01/01/2015), đã có một số cơng trình nghiên cúu tiêu biểu sau:
Nhóm luận án, luận văn:
- Nguyễn Văn Cừ (2005), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Thanh Mai (2012), “Cơ sở lý luận và thực tiễn điều chỉnh
quan hệ tài sản của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”,
Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
3
- Đinh Thị Minh Mần (2014), “Giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc
gia Hà Nội;
- Lã Thị Tuyền (2014), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật
HN&GĐ Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Chu Minh Khôi (2015), “Các trường hợp chia tài sản chung của vợ
chồng”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Lò Thị Thu Hoa (2016), “Áp dụng pháp luật chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn tại tinh Son La”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà
Nội;
- Nguyễn Thanh Hà (2016), “Sở hữu chung của vợ chồng và việc chia
tài sản chung cùa vợ chồng”, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Lữ Thu Thùy Dung (2019), “Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn theo pháp luật Việt Nam và thực trạng xét xử tại Tòa án”, Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Lộc Sơn Thái (2020), “Thực tiễn áp dụng các trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng tại Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn thạc sĩ,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nhóm giáo trình, sách tham khảo, sách chuyên khăo:
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), “Giáo trình Luật HN&GĐ Việt
nam”;
- Nguyễn Văn Cừ, Ngô Thị Hường (2002), “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Điện (2004), “Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2000”, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh;
- Học viện Tư pháp (2007), “Giáo trình Kỹ năng giải quyết các vụ việc
dân sự|, , Nxb Công an nhân dân;
- Nguyễn Văn Cừ (2008), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật
Việt Nam”, Nxb Tư pháp;
4
Các cơng trình này đều đề cập nghiên cứu đến các nội dung pháp lý cơ
bản và khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng, về các truờng hợp chia tài
sản chung của vợ chồng (chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ,
chồng chết trước; chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân và
khi vợ chồng ly hơn).
Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng trên các Tạp chí chuyên ngành
pháp luật như:
- Nguyễn Hồng Nam, “Chia nhà, đất khi vợ chồng ly hơn”, Tạp chí
TAND số 06/2006;
- Ngơ Thị Hường, “Đăng ký quyền sở hữu tài sản và việc xác định tài
sản chung, riêng của vợ chồng”, Tạp chí Luật học số 10/2008;
- Nguyễn Văn Cừ, “Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hơn nhân”, Tạp chí Luật học số 10/2012;
- Thu Hương, Duy Kiên (2013), “Một số vấn đề cơ bản về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ, thực tiễn giải quyết”, Tạp
chí TAND số 4;
- Nguyễn Hồng Long (2015), “Bàn về cơng sức trong vụ án
HN&GĐ”, Tạp chí TAND, số tháng 5;
- Nguyễn Văn Cừ (2015), “Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận
trong Luật HN&GĐ năm 2014”, Tạp chí Luật học, số 4...
Các bài viết này đã đề cập một cách khái quát về các căn cứ xác lập tài
sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; các trường hợp chia tài sản chung của
vợ chồng; chưa đi sâu nghiên cứu việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại
một địa phương cụ thể như thành phố Hải Phịng. Các cơng trình nghiên cứu
kể trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho học viên trong quá trình thực hiện
luận văn, với việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại thành phố Hải
Phòng; hy vọng luận văn sẽ là cơng trình khoa học nghiên cứu đi sâu phân
5
tích vê việc áp dụng pháp luật vê chia tài sản chung của vợ chông khi ly hôn ở
một địa phương cụ thể - thành phố Hải Phịng.
3. Nhiệm
cứu
• vụ• và mục
• đích nghiên
—
* Mục đích nghiên cứu của luận vãn:
Luận văn phân tích, luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản và
nội dung các quy định pháp luật hiện hành; luận văn phân tích và đánh giá
thực tiễn áp dụng, giải quyết các vụ việc chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn của TAND tại thành phố Hải Phòng; nhận biết một số nội dung cịn có
hạn chế, bất cập trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn giải quyết của Tòa
án, đồng thời kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhàm hoàn thiện và nâng cao
chất lượng, hiệu quả áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án ly hơn
hiện nay nói chung và của TAND tại thành phố Hải Phịng nói riêng.
*Nhìệm vụ của luận văn:
•
_____
•
•
9
Đê đạt được mục đích trên, Luận văn thực hiện với nhiệm vụ nghiên
•
•
•
X
9
9
9
9
9
<^x
cứu sau:
- Phân tích, luận giải để làm rõ một số vấn đề lý luận về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn;
- Phân tích nội dung quy định của pháp luật hiện hành về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hơn;
- Phân tích để làm rõ thực trạng cũng như nêu ra các vướng mắc, bất
cập trong quá trình áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hôn từ thực tiễn xét xử của TAND tại thành phố Hải Phòng;
- Từ đó, Luận văn đê xt một sơ giãi pháp, kiên nghị góp phân hồn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn hiện nay.
4. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đoi tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các cơng trình nghiên cúu khoa học, các quy định
pháp luật về giải quyết các vụ việc điển hình qua thực tế một so bản án, quyết
6
định vê giải quyêt chia tài sản chung của vợ chơng khi ly hơn do TAND tại
thành phố Hải Phịng đã thụ lý, giải quyết.
*Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014. Luận văn không nghiên
cứu vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn có yếu tổ nước ngoài,
mà chi tập trung nghiên cứu vấn đề chia tài sản chung cùa vợ chồng khi ly
hôn đối với quan hệ hôn nhân trong nước theo pháp luật Việt Nam từ thực
tiễn xét xử của TAND tại thành phố Hải Phòng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
*Phươngpháp luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế,
về cải cách tư pháp; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
nam trong tình hình mới.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được thực hiện với các phương pháp nghiên cứu truyền
thống trong nghiên cứu khoa học, như:
- Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp được áp dụng đế nghiên
cứu các giai đoạn, quá trình về giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi
ly hơn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng
chủ yếu khi phân tích các vấn đề liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được
nghiên cứu trong luận văn.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được áp dụng khi xem xét
các vấn đề về nội dung giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
theo Luât HN&GĐ Viêt Nam.
7
- Phương pháp thông kê: Phương pháp này được thê hiện trong quá
trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của Tịa án nói chung, của TAND tại
thành phố Hải Phịng nói riêng; với các số liệu cụ thế giải quyết các tranh
chấp chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn, tìm ra mối liên hệ giữa các
quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa, từ đó, xem
xét nội dung quy định của pháp luật về vấn đề chia tài sản của vợ chồng khi ly
hôn với thực tiễn của đời sống xã hội.
6. Ý nghĩa
khoa học
và thực
tiễn của luận
văn
CT
•
•
•
Nội dung Luận văn khi hoàn thành nhằm trang bị thêm kiến thức
chuyên sâu cho bản thân, đồng thời có thế là tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hơn tại Tồ án. Từ đó luận văn đề xuất một số kiến nghị để
giải quyết những vướng mắc, bất cập và hoàn thiện pháp luật về giải quyết
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Luận văn như một tài liệu tham
khảo trong quá trình nghiên cứ, giảng dạy, cũng như kiến nghị sửa đổi, bổ
sung các quy định của pháp luật liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày với nội dung the hiện trong 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chia tài sản chung của vợ chồng
khi ly hôn.
Chương 2: Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn từ thực tiễn áp
dụng của Tịa án nhân dân tại thành phố Hải Phòng.
8
CHƯƠNG 1
MỘT SÓ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA vợ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm chung về chia tài sàn chung của vợ chồng khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hơn
Dưới góc độ xã hội: Ly hơn được hiểu là một hình thức chính thức
nhằm chấm dứt việc xác lập quan hệ là vợ chồng.
Khái niệm dưới góc độ pháp lý: Trong các văn bản pháp luật, ly hôn có
thể được xem xét với tư cách là một sự kiện pháp lý hoặc là một chế định
•
•
•
•
X
X
•
•
•
pháp lý.
Với ỷ nghĩa là một sự kiện pháp lý: Ly hôn là một thuật ngữ pháp lý
được sử dụng trong pháp luật hơn nhân và gia đình như một trong những
trường hợp làm chấm dứt quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng, trên cơ sở đỏ
quyền và nghĩa vụ của người ly hôn được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “chế định” có thể được hiểu theo hai
nghĩa: Thứ nhất, nghĩa là chế ước, quy định; Thứ hai, có thể được hiểu là
“định chế” (Institute), tức là một bộ phận cấu thành của một ngành luật, tiếp
cận theo cấu trúc bên trong của hệ thống ngành luật cụ thể nào đó.Mỗi chế
định có những quy phạm pháp luật và mỗi quy phạm có ba yếu tố cấu thành là
giả định, quy định và chế tài.
Trong phạm vi luận văn này, chế định ly hôn được tiếp cận theo nghĩa
thứ nhất, tức là những quy định về ly hôn.
Chế định ly hôn trong luật HN&GĐ là tổng thể nhóm các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành, nhàm điều chỉnh việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng khi hai người còn sống do một bên yêu cầu hoặc do cã hai bên thuận
tình, bao gồm các quy phạm pháp luật quy định về quyền yêu cầu và các
trường hợp ly hôn, căn cứ ly hôn cùng các vấn đề hậu quả pháp lý khi ly hôn
9
phát sinh vê quyên và nghĩa vụ giữa cha, mẹ và con, hình thức xử lý đơi với
các trường hợp ly hôn, phân chia tài sản chung khi ly hôn...
Chế định ly hôn bao gồm các vấn đề:
- Quyền yêu cầu ly hôn, nhũng trường hợp hạn chế quyền yêu cầu ly
hôn và thẩm quyền giải quyết ly hôn
- Căn cứ giải quyết ly hôn và các trường hợp ly hôn
- Hậu quả pháp lý của ly hôn về con cái và tài sản
Ly hôn là một mặt của quan hệ hôn nhân nhưng là mật không thể thiếu
được khi quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Trong trường hợp đó, ly hơn là
một việc làm cần thiết cho cả vợ chồng và cho xã hội vì nó giải phóng cho tất
cả các cặp vợ chồng, các con cũng như các thành viên khác trong gia đình
thốt khỏi xung đột mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống.
Từ khi xã hội phân chia giai cấp thì pháp luật bao giờ cũng bảo vệ
quyền lợi của giai cấp thống trị. Ở mỗi xã hội, mồi giai cấp đều cỏ quan điểm
riêng về HN&GĐ. Quan điểm về HN&GĐ của giai cấp thống trị được thể
hiện rõ nhất thông qua sự điều chỉnh bằng hệ thống pháp luật. Hôn nhân dưới
thời phong kiến thường dựa trên cơ sở cưỡng ép “c/zư mẹ đặt đâu con ngồi
đẩy”. Pháp luật của Nhà nước phong kiến thừa nhận quan hệ bất bình đẳng
giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền gia trưởng trọng nam, khinh
nữ, coi người đàn ông là trụ cột, coi rẻ quyền lợi của người phụ nữ và con cái.
Luật pháp phong kiến quy định ly hôn như một đặc quyền của người đàn ông.
Pháp luật của Nhà nước tư sản lại coi hôn nhân như là một hợp đồng dân sự
do hai bên đương sự thỏa thuận. Sự thỏa thuận đó được xác lập giữa nam và
nữ, dù muốn hay khơng cũng khơng thể thốt khởi những ràng buộc về kinh
tế và địa vị giai cấp. Nghĩa vụ của vợ chồng cũng giống như nghĩa vụ của chủ
thể của hai bên chủ thể của hợp đồng. Việc chấm dứt hôn nhân cũng giống
như việc hủy hợp đồng khi một bên đương sự vi phạm hợp đồng, nghĩa là một
bên vợ hay chồng phải có lồi. Chính vì coi hôn nhân như một hợp đồng nên
10
giai cấp tư sàn quy định việc chấm dứt quan hệ hôn nhân dựa trên cơ sớ lỗi
của các bên.
Như vậy trong xã hội có giai cấp, pháp luật về HN&GĐ cũng thể hiện
tính giai cấp. V.I Lênin đã từng khẳng định rằng nếu khơng địi quyền hồn
tồn tự do ly hôn cho phụ nữ và nếu thiếu quyền tự do ấy là một sự ức hiếp
lớn đối với phụ nữ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng nói: “Nếu
khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa”234. Khi
xem xét việc bảo vệ quyền cùa phụ nữ khi ly hơn thì không thể tách rời việc
nghiên cứu về quyền và bảo vệ quyền con người của phụ nữ. Theo Mác:
"Quyền con người là những đặc quyền chỉ cỏ ở con người mới có, với tư cách
là con người, là thành viên xã hội loài người .
Nhà nước XHCN một mặt thừa nhận tự do ly hôn, mặt khác quy định
việc giải quyết ly hôn dựa vào bản chất của quan hệ vợ chồng, thực trạng của
hơn nhân cịn hay đã chết. Ly hơn là kết quả của hành vi có ý chí của một bên
hoặc của hai bên vợ chồng với sự phán quyết của Tịa án. Ly hơn có mặt tích
cực đó là sự giải phóng cho cả hai vợ chồng khi họ khơng cịn tình u với
nhau, cuộc hơn nhân của họ đã chết.
Theo từ điển Luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, ly hôn
được hiểu là: “chẩm, dứt quan hệ vợ chồng do Tịa án nhân dân cơng nhận
hoặc quyết định theo u Cầu của vợ hoặc chồng hoặc cá hai vợ chồng” .
Theo khái niệm này, ly hôn được phản ánh rõ nét đó là “việc chấm dứt quan
hệ vợ chong”, nghĩa là giữa hai bên vợ chồng khơng cịn tồn tại quan hệ hôn
nhân, mọi quyền và nghĩa vụ của hai bên sẽ được pháp luật giải quyết thỏa
đáng, đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê Nin, ly hôn là hiện tượng xã
hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở
mồi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng
2 Hồ Chi Minh tồn tập, t8, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội (1989), tr.498.
3 C.Mảc và Ph.Angghen - về quyền con người, Nxb. Chính trị Quốc gia , Hà Nội (1998), tr.14.
4 Từ điển luật học (2003), NXB Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Hà Nội, Tr.460.
11
pháp luật (hay tục lệ) quy định chê độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà
nước, tức là Nhà nước bằng pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập
quan hệ vợ chồng, đồng thời xác lập những điều kiện, căn cứ nhất định mới
được phép xóa bỏ hay chấm dứt quan hệ hôn nhân. Như vậy, về mặt xã hội, ly
hơn chính là giải pháp giải quyết sự khủng hoảng trong mối quan hệ vợ
chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được
khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ cịn là hình thức, cịn thực chất mối quan hệ
vợ chồng đã hoàn toàn tan vỡ, cuộc sống gia đình vợ chồng đã mất hết ý
nghĩa, vợ chồng khơng thể tiếp tục chung sống với nhau. Còn xét về mặt
pháp lý thì ly hơn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt các nghĩa vụ, quyền
giữa vợ và chồng trên cơ sở yêu cầu của vợ chồng và được Tịa án cơng
nhận.
Khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật HN&GD nói riêng, việc
đưa khái niệm đầy đủ về ly hơn có ý nghĩa quan trọng phản ánh quan điểm
chung nhất của Nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản
chất pháp lý của ly hôn, xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh của các quan
hệ pháp luật hôn nhân và gia đình về ly hơn và các vấn đề phát sinh khác.
Theo Khoản 8 Điều 8 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 giải thích:
“Ly hơn là chẩm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa án cơng nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng”.
Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 cũng giải thích:
“Ly hơn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tịa án
Như vậy, ly hơn là chấm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa án công nhận
hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai vợ chồng5.
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, có vai trị quan trọng trong
việc góp phần tn thủ, chấp hành các quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm
chế độ• tài sản của vợ
•
• chồng
o
5 Điều 8, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
12
1.1.2.1. Chê độ tài sản của vợ chông theo thỏa thuận
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, có hai chế độ tài sản của
vợ chồng là chế độ tài sản theo thỏa thuận và chế độ tài sản theo luật định,
theo đó, Khoản 1 Điều 28 quy định “Vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng
chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận”. Việc thỏa
thuận
• xác lập
• 1 chế độ• tài sản của vợ• chồng dựa
• trên cơ sở lựa
• chọn
• theo một
•
chế độ tài sản riêng biệt, hồn tồn độc lập với chế độ tài sản theo quy định
của pháp luật. Điều 7 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của
Chính phù quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hơn nhân
và gia đình 2014 nêu rõ “Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp
dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo
thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tịa
án tun bố vơ hiệu theo quy định tại Điều 50 Luật Hơn nhân và Gia đình”.
Từ Điều 47 đến Điều 50 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định về chế
độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Luật đã quy định rõ hình thức, thủ
tục
• cũng như điều kiện
• có hiệu
• lực
• của văn bản thỏa thuận.
• Thỏa thuận
• về chế
độ tài sản của vợ chồng phải được lập trước khi kết hôn, được công chứng
hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật và có hiệu lực kể từ ngày đăng
ký kết hôn. Việc quy định như vậy làm tăng thêm tính chặt chẽ của văn bản
thỏa thuận được xác lập, kiếm sốt tính xác thực và tự nguyện của hai bên
cũng như tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm bảo vệ quyền lợi cho vợ, chồng
cũng như đâm bảo cho vợ, chồng có trách nhiệm thực hiện đúng những nội
dung đã thỏa thuận, hạn chế các xung đột, tranh chấp xảy ra liên quan đến chế
độ tài sản của vợ chồng trong thực tế.
1.1.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
Chế độ tài sân của vợ chồng theo luật định được Luật quy định cụ thể
về căn cứ xác định nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản
riêng của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản
đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương
13
thức thanh toán liên quan tới các khoản nợ chung hay riêng của vợ, chông
trong việc thực hiện các giao dịch giữa vợ chồng với người thứ ba.
Xuất phát từ điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống, văn hóa,
tập quán của mỗi quốc gia mà thiết lập một chế độ tài sản của vợ chồng cho
phù hợp, thông thường chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thiết
lập phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, truyền thống, văn hóa
của các dân tộc, quốc gia.
Từ Luật HN&GĐ năm 1986 đến nay, nhà làm luật ở Việt Nam đã lựa
chọn chế độ cộng đồng tạo sản là chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định
(giống với các nước Pháp, Đức, Nhật, Thái Lan...). Với đặc điểm và nội dung:
giữa vợ chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng theo luật định.
Chế độ tài sản này được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lập
văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản.
Theo đó, tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ,
chồng tạo ra, những thu nhập nghề, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng
trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung,
được thừa kế chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản
chung....
Tài sản chung được sử dụng đáp ứng nhu cầu đời sống chung của gia
đình; thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng. Vợ, chồng có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung...
1.1.3. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Trên thực tiễn, tài sản là một phần không thể thiếu trong đời sống của
con người. Nó tồn tại để đáp ứng những nhu cầu về vật chất và tinh thần cho
con người. Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tồn tại và phát triển cần
phải có các điều kiện vật chất - cơ sở kinh tế của gia đình, ni sống gia đình.
Đe đảm bảo các điều kiện vật chất phục vụ đời sống gia đình và thực hiện các
quyền, nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng con cái, phụng dưỡng cha mẹ... vợ
chồng cần có tài sản. Tài sản của vợ chồng là nguồn quan trọng phục vụ nhu
14
cầu vật chất, tinh thần của gia đình. Kể từ thời điểm kết hôn, vợ chồng cùng
nhau chung sống, gánh vác cơng việc gia đình, cùng nhau tạo lập khối tài sản
chung để bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của gia đình, thỏa mãn các nhu
cầu về vật chất khác và tinh thần của các thành viên trong gia đình.
“Tài sán là vật, tiền, các giấy tờ có giá và quyền tài san”6, về mặt pháp
lý, tài sản là đối tượng của quyền sở hữu, là khách thế của phần lớn các quan
hệ pháp luật dân sự. Tuy nhiên, tài sản là một khái niệm rộng, rất khó để định
nghĩa cụ thể.
Tài sản vợ chồng là một trong những nội dung quan trọng của luật hơn
nhân và gia đình. Sau khi kết hơn, tài sản chung được hình thành, các lợi ích
và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản này cũng vì
thế mà hình thành. Do tài sản khơng chỉ gắn liền với những lợi ích thiết thực
cùa hai bên mà cịn liên quan đến người thứ ba, đặc biệt là khi vợ chồng tham
gia vào hoạt động kinh doanh thương mại nên vấn đề này lúc nào cũng nảy
sinh nhiều mâu thuần, đặc biệt là sau khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử
cho thấy, phần lớn các tranh chấp của vợ chồng có liên quan đến tài sản. Sự
phức tạp trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng cùng những
hạn chế trong việc qui định về chế độ tài sản vợ chồng trong luật dân sự, luật
hơn nhân và gia đình nước ta ngày càng trở nên bất cập. Kế thừa BLDS năm
2005, BLDS năm 2015 sử dụng định nghĩa liệt kê để xác định tài sản. Tại
Điều 105 có quy định như sau: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền
tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản". Ớ đây, BLDS năm 2015
đã có sự liệt kê cụ thể và rõ ràng hơn về khái niệm tài sản. Khái niệm và các
quy định về tài sàn, quyền tài sản trong Luật Dân sự là nguồn gốc, cơ sở để
luật chuyên ngành xây dựng khái niệm tài sản cụ thể theo tính chất của ngành
luật mình.
Trước khi kết hơn, tài sản của vợ, chồng là tài sản riêng của từng cá
nhân. Kể từ khi xác lập quan hệ hôn nhân vấn đề tài sản giữa vợ chồng mới bị
6 Điều 105, Bộ Luật Dân sự năm 2015.
15
ràng buộc: xác định tài sản chung của vợ chông, tài sản riêng của vợ chông;
quyền, nghĩa vụ của vợ chồng trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt khối tài sản chung này.
Tài sản của vợ chồng gồm tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng
của vợ chồng. Trong giới hạn phạm vi nghiên cứu cùa đề tài, tác giả chỉ đề
cập vấn đề tài sản chung của vợ chồng.
Theo Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014, tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều
40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử
dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sàn chung của vợ chồng,
trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc
có được thơng qua giao dịch bằng tài sàn riêng. Tài sản chung của vợ chồng
thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình,
thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng. Trong trường hợp khơng có căn cứ
để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của
mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Như vậy có thể hiểu: Tài sản chung của vợ chồng là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản. Tài sản chung của vợ chồng có thể bao gồm bất động sản
và động sản. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc hình thức sở hữu
chung hợp nhất có thể phân chia. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau
đối với khối tài sản chung đó.
Ngày nay, do xã hội phát triển, tính gắn kết của gia đình có nhiều biến
đổi. Việc chia tài sãn chung cùa vợ chồng đang trở thành một nhu cầu tất yếu.
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, một mặt giải toả được những
xung đột, mâu thuẫn trong gia đình, giúp cho các cá nhân tự phát huy được
các khả năng của mình trong xã hội. Mặt khác giúp cho các Toà án giải quyết
16
nhanh chóng các vụ việc.
Xuất phát từ thực tế trên, Luật HN&GĐ năm 2014 trên cơ sở kế thừa
Luật HN&GĐ trước đó, tiếp tục quy định về việc phân chia tài sản chung của
vợ chồng. Trong nhiều năm qua, chế định này đã từng bước đi vào cuộc sống
phát huy được hiệu quả điều chỉnh, góp phần xây dựng, củng cố chế độ
HN&GĐ Việt Nam.
Do vậy, chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn chính là việc chấm
dứt quyền sở hữu chung hợp nhất cùa vợ chồng đối với toàn bộ khối tài sản
chung của vợ chồng hoặc một phần khối tài sản chung của vợ chồng. Sau khi
phân chia, tài sản chung sẽ được chia thành từng phần tài sản xác định và xác
lập quyền sở hữu riêng của của vợ, chồng đối với phần tài sản được chia.
1.2. Khái lược quy định chia tài săn chung cùa vợ chồng khi ly hôn
theo hệ thống pháp luật hơn nhân và gia đình của Nhà nước ta
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời (02/9/1945). Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật để điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Theo Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hơn cũng đã ghi nhận quyền bình
đẳng giữa vợ chồng khi thực hiện quyền yêu cầu ly hôn; công nhận quyền tự
do ly hôn của vợ chồng và các căn cứ chung để Tòa án giải quyết việc ly hơn
(Điều 2); bảo đảm quyền u cầu thuận tình ly hôn của vợ chồng (Điều 3);
hạn chế quyền yêu cầu ly hôn của vợ chồng khi người vợ đang có thai (Điều
5). về hiệu lực của việc ly hơn, sắc lệnh số 159/SL không quy định rõ về việc
phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Điều 6, sắc lệnh sổ 159/SL
quy định: “Tòữ án sẽ căn cứ quyền lợi của các con vị thành niên để ẩn định
việc trông nom, nuôi nấng và dạy dề chúng. Hai vợ chồng đã ly hơn phải
cùng chịu phí tôn về việc nuôi dạy con, mỗi bên tùy theo khả năng của mình.'"
Theo quy định này, khi ly hơn, tài sản chung của vợ chồng phải được
chia, tùy theo khả năng của mỗi bên vợ, chồng phải cùng có nghĩa vụ trong
17
việc nuôi dạy con. Đáng tiêc là Săc lệnh sô 159/SL không dự liệu vê nguyên
tắc chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy vậy, cứ chiểu theo tinh thần của
những văn bản này, chúng ta cũng có thể suy luận rằng: Tài sản chung của vợ
chồng phải được chia đôi, mỗi bên vợ, chồng được một nửa giá trị tài sản
chung (nguyên tắc này cũng đã được áp dụng theo Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ
Dân luật Trung kỳ trước đây).
Năm 1959, Luật HN&GĐ đầu tiên được nhà nước ta ban hành (còn gọi
là Đạo luật số 13), là công cụ pháp lý của Nhà nước ta được xây dựng và thực
hiện với hai nhiệm vụ cơ băn: Xóa bỏ những tàn tích của chế độ HN&GĐ
phong kiến lạc hậu; xây dựng chế độ HN&GĐ mới XHCN. Theo quy định tại
Điều 15: “Vợ chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau
đổi với tài sản có trước và sau khi cưới”. Quy định này thể hiện, tồn bộ các
tài sản của vợ chồng dù có trước khi kết hôn hoặc được tạo ra trong thời kỳ
hôn nhân; dù vợ, chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hoặc cả hai
vợ chồng được tặng cho chung hay thừa kế chung, không phân biệt nguồn gốc
tài sản và cơng sức đóng góp, đều thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng.
Luật không thừa nhận vợ, chồng có tài sản riêng, về nguyên tắc, khi vợ chồng
ly hơn “ sẽ căn cứ vào sự đóng góp về cơng sức của mỗi bên, vào tình hình tài
sản và tình trạng cụ thê của gia đình. Lao động trong gia đình được kê như
lao động sản xuất. Khi chia phải bảo vệ quyền lợi của người vợ, của con cái
và lợi ích cùa việc sản xuất. Ngồi ra, luật cũng quy định: “Khi ly hơn, cẩm
địi trả của”78 nhằm xóa bỏ một trong những tập tục lạc hậu của chế độ
HN&GĐ phong kiến trước đây.
Ngày 25/10/1982 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã quyết định
thành lập Ban dự thảo Luật HN&GĐ mới; Dự luật đã được Quốc hội khóa
VII, kỳ họp thứ 12 thơng qua ngày 29 tháng 12 năm 1986 và được Hội đồng
Nhà nước công bố ngày 03/01/1987.
7 Điều 29, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959.
8 Điều 30, Luật hơn nhân và gia đình năm 1959.
18
Theo Điêu 14, Luật HN&GĐ năm 1986, tài sản chung của vợ chông
bao gồm: Các tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân (tiền
lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp, tiền hưu trí, các thu nhập hợp pháp mang lại
từ kinh tế gia đình; các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng các khoản
thu nhập nói trên); Các tài sản do vợ chơng được tặng cho chung, được thừa
kê chung.
Bên cạnh khôi tài sản chung của vợ chông, Luật HN&GĐ năm 1986 đã
ghi nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng, bao gồm: Các tài sản mà vợ,
chồng có được từ trước khi kết hôn; Các tài sản mà vợ hoặc chồng được tặng
cho riêng hay được thừa kê riêng trong thời kỳ hơn nhân.
Người vợ, chơng có tài sản riêng có qun nhập hoặc không nhập vào
khối tài sản chung của vợ chồng.
Đây là quy định mới so với Luật HN&GĐ năm 1959, xuât phát từ thực
tiễn trước khi kết hôn, mồi bên vợ, chồng (có thể) đã có khối tài sản riêng có
giá trị lớn, mà xét về bản chất kinh tế hay pháp luật, tài sản đó khơng phải là
do hai vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân. Luật ghi nhận vợ chồng có
quyền có tài sản riêng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ
chồng. Mặt khác, tạo điều kiện cho vợ chồng được quyền tự định đoạt tài sân
riêng của mình với tư cách là chủ sở hữu, không bị lệ thuộc bởi ý chí của bên
kia; cũng như sự linh hoạt trong các quan hệ gia đinh và xã hội có liên quan
đến vấn đề tài sản: Thỏa mãn nhu cầu cá nhân bằng tài sản riêng; trả nợ hoặc
bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng gây ra bằng tài
san neng cua
Khi vợ chông ly hôn, vê nguyên tăc chia tài sàn của vợ chông, Luật
HN&GĐ năm 1986 đã dự liệu “Nguyên tắc chia đôi tài sản chung’’9, nguyên
tắc xác định, chia đôi tài sản chung chỉ mang tính ước lệ (xuất phát từ kỷ phần
tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung là bằng nhau một đặc điểm của
tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất); khi chia, Tòa án vẫn phải dựa vào công
9 Điều 42, Luật hôn nhân và gia đinh năm 1986
19
sức đóng góp trong việc tạo lập, duy trì và phát triên khơi tài sản chung của
vợ chồng, vẫn có thề chia tài sản chung của vợ chồng theo tỷ lệ nhiều, ít khác
nhau cho các bên vợ, chồng.
Luật HN&GĐ năm 2000 đuợc Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 7 thơng
qua ngày 9/6/2000 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001. Cũng như Luật
HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 quy định về phạm vi thành
phàn khối tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp chia tài sàn chung và hậu
quả của việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự định đoạt của vợ chồng, khoản 1
Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: Việc chia tài sản khi ly hôn do
các bên thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết;
tài sản riêng của bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu cùa bên đó. Nếu có tranh
chấp về tài sản riêng, bên nào cho rằng đó là tài sản riêng của mình, phải có
nghĩa vụ chứng minh (việc chứng minh tài sản riêng có thể bằng sự cơng nhận
của bên kia hoặc bằng các giấy tờ xác nhận quyền sở hữu của mình); nếu
khơng có chứng cứ chửng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài
sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng °.
Nhà làm luật đã sử dụng cả nguyên tắc suy đoán đề xác định tài sản
giữa vợ và chồng khi ly hôn xảy ra tranh chấp nhưng không đù cơ sờ xác định
là tài sản riêng của vợ, chồng thì được coi là thuộc khối tài sản chung của vợ
chồng. Đây là quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2000, xuất phát từ thực tế
tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng; cuộc sống chung giữa vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân, sau nhiều năm tháng, các loại tài sản được sử dụng nhằm
bảo đảm lợi ích chung của gia đình, khi vợ chồng ly hơn xảy ra tranh chấp, có
loại tài sán khó chứng mình được là tài sản riêng của mồi bên vợ, chồng.
Đối với tài sản chung của vợ chồng: Tài sản chung của vợ chồng về
nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hồn cảnh của mỗi bên, tình
10 Khoản 3, Điều 27, Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000.
20
trạng tài sản, cơng sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát
triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao
động có thu nhập; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành
niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, khơng có khả
năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình; Bảo vệ lợi ích chính đáng
của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều
kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Tài sản chung của vợ chồng được chia
bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá
trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh tốn cho bên kia phần giá trị
chênh lệch.
Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng
thỏa thuận; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải quyết.
Như vậy, so với Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm 2000 đã
quy định về tài sản chung cùa vợ chồng cụ thể hơn, đồng thời bổ sung một số
quy định để khắc phục những hạn chế, thiếu sót của Luật HN&GĐ năm 1986.
Ngày 01/01/2015 Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực. So với Luật
HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 có rất nhiều điểm mới, tiến bộ
và phù hợp với tình hình phát triển của đất nước cũng như đời sổng xã hội ớ
nước ta hiện nay, đặc biệt là các quy định liên quan đến việc xác định tài sản
vợ chồng khi ly hôn như: Công nhận chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận,
bổ sung thêm các căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng
và quy định cụ thể các nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn,...
1.3. Pháp luật Việt Nam hiện hành về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn
1.3.1. Chia tài sản chung của vợ chông khi ly hôn trong trường hợp
vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thoả thuận
Nếu vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản chung cùa vợ chồng theo thỏa
thuận (có thỏa thuận tài sản) thì khi ly hơn việc phân chia tài sản theo thỏa
thuận đó; nếu thỏa thuận khơng đầy đủ, khơng rõ ràng thì áp dụng các quy
21