A. MỞ ĐẦU
Gia đình là tế bào của xã hội, sự ổn định và phát triển của gia đình sẽ dẫn
đến một xã hội ổn định và phát triển. Nhận thức được vị trí quan trọng của gia đình,
Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng trong việc xây dựng gia đình ấm no, hạnh
phúc và tiến bộ. Biểu hiện ở việc, Nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật
điểu chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình phù hợp với sự phát triển của xã hội trong
từng thời kỳ nhất định.
Trong quan hệ vợ chồng bên cạnh đời sống tình cảm, tình u thương lẫn
nhau thì khơng thể nào không quan tâm đến đời sống vật chất. Quan hệ tài sản giữa
vợ chồng vấn đề quan trọng và được pháp luật về hơn nhân và gia đình điều chỉnh,
nó là một trong những tiền đề giúp cho vợ chồng xây dựng gia đình và đáp ứng nhu
cầu về vật chất, tinh thần của các thành viên. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào giữa
vợ chồng cũng có thể cùng nhau xây dựng được gia đình hạnh phúc, tiến bộ, những
bất đồng về quan điểm, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống vợ chồng mà không
thể giải quyết được sẽ làm cho những sợ dây liên kết bị phá vỡ tất yếu dẫn đến việc
chấm dứt quan hệ hôn nhân. Khi đó, vấn đề phân chia tài sản chung của vợ chồng
khi li hôn là một trong những vấn đề phức tạp và gây nhiều khó khăn cho việc giải
quyết. Vì thế việc nắm rõ những quy định về vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng
trong lý luận lẫn thực tiễn áp dụng đối với mỗi cá nhân, đặc biệt khi Luật Hơn nhân
và gia đình 2014 ra đời trên cở sở kế thừa những tinh hoa của Luật Hơn nhân và gia
đình 2000 và tiếp thu những quy đinh mới mà thực tiễn khách quan yêu cầu, đã có
những quy định chính xác và mới mẽ về vấn đề này. Vì vậy, em quyết định chọn đề
tài “Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn theo Luật hơn nhân và gia đình
2014”. Tuy nhiên, sự nhận thức và tầm hiểu biết của bản thân người viết cịn hạn
chế nên khơng thể tránh được những sai sót trong q trình nghiên cứu đề tài, vì thế
em mong quý thầy (cô) giúp em xem xét những vấn đề chưa hồn thiện trong q
trình nghiên cứu.
B. NỘI DUNG
I. Những vấn đề lý luận chung về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly
hôn
1. Khái quát về tài sản chung của vợ chồng
a. Một số khái niệm về vợ chồng, tài sản, chế độ tài sản của vợ chồng và
tài sản chung của vợ chồng
Trước khi tìm hiểu về khái niệm tài sản chung của vợ chồng, ta cần phải làm
rõ một số khái niệm có tác dụng bổ trợ cho hoạt động tìm hiểu về khái niệm tài sản
chung của vợ chồng.
Thứ nhất, về khái niệm tài sản. Trong đời sống – kinh tế xã hội, tài sản được
coi là điều kiện vật chất để duy trì các hoạt dộng trong lĩnh vực kinh tế và cả đời
sống xã hội. Trải qua những giai đoạn lịch sử khác nhau của xã hội lồi người, tài
sản lại tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là nơ lệ, “vật” và các sản phẩm
của tư tưởng, trí tuệ,… phản ánh sự phát triển, văn minh của nhân loại đó. Ở Việt
Nam, khái niệm tài sản được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo quan niệm
thơng thường thì tài sản là của cải vật chất được dùng vào hoạt động sản xuất hoặc
tiêu dùng. Dưới giác độ kinh tế, tài sản được hiểu là vật có giá thị trường hay giá trị
trao đổi và là bộ phận cấu thành của cải hay sở hữu của con người. Trên phương
diện pháp lý thì tài sản lại được hiểu một cách khác cũng như được quy định cụ thể
trong Bộ luật dân sự 2015, tài sản bao gồm: “vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản. Tài sản còn là bất động sản hoặc động sản. Bất động sản và động sản có thể
tồn tại trên thực tế hoặc hình thành trong tương lai”.
Thứ hai, khái niệm vợ chồng cũng được hiểu theo nhiều quan niệm khác
nhau, có quan niệm gắn gọn mang tính xã hội như vợ chồng là từ ghép giữa từ vợ
và từ chồng để nói về hai người nào đó đã cưới nhau. Nhưng có quan niệm lại
mang tính pháp lý, vợ chồng là danh từ ghép dùng để chỉ những người đã đáp ứng
đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hơn nhân gia đình hiện hành,
đã tiến hành đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền và được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn đồng thời phát sinh những quyền và nghĩa vụ với nhau cũng
như với những người khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp những quy phạm pháp luật
điều chỉnh về (sở hữu) tài sản giữa vợ và chồng, bao gồm các quy định về căn cứ
xác lập, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các
trường hợp phân chia tài sản giữa vợ chồng và nguyên tắc phân chia. Vợ chồng có
quyền lựa chọn việc áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo
thoả thuận. Chế độ tài sản theo thoả thuận là sự thoả thuận của vợ chồng về tài sản
của họ trong suốt thời kỳ hôn nhân. Chế độ tài sản theo luật định là những quy định
của pháp luật hơn nhân gia đình về tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn
nhân của họ.
Cuối cùng, khái niệm về tài sản chung của vợ chồng. Hai người tiến tới hơn
nhân với mục đích là xây dựng gia đình hạnh phúc, ấm no và tiến bộ. Có thể nói,
chức năng xã hội cơ bản của gia đình là chức năng kinh tế, mỗi bên vợ chồng phải
tham gia vào các hoạt động xã hội để tìm kiếm thu nhập nhằm bảo đảm cuộc sống
cho gia đình và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính vì sự liên kết chặt
chẽ giữa vợ và chồng nên từ đó cũng tạo nên những tài sản được gọi là của chung
của vợ chồng. Vậy tài sản chung của vợ chồng là những tài sản hình thành từ lao
động, kinh doanh, được thừa kế chung, tặng cho hung, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ
tài sản riêng của mỗi người và thu nhập hợp pháp trong thời kỳ hơn nhân nhằm
đảm bảo nhu cầu gia dình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
b. Đặc điểm của tài chung của vợ chồng
Một là được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau trong thời kỳ hôn nhân
hợp pháp. Tài sản chung của vợ chồng được hình thành từ rất nhiều nguồn khác
nhau như lao động của người vợ, lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của chồng
hoặc của cả hai vợ chồng. Ngồi ra, cịn các thu nhập hợp pháp khác như trúng xổ
số, tiền trợ cấp, tài sản mà vợ chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của
Bộ luật dân sự đối với vật vô chủ, bị đánh rơi, bỏ quên và tài sản được thừa kế
chung, được tặng cho chung.
Hai là tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất có thể phân
chia, dùng để bào đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của cợ
chồng. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung trong đó phần quyền của các chủ sở
hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Tức có nghĩa, mỗi chũ sở
hữu đều có quyền đối với tất cả tài sản trong khối tài sản chung. Chỉ khi có căn cứ
theo quy định của pháp luật để chia tài sản chung thì khi đó mới xác định được
phần của mỗi bên trong tài sản chung ấy. Chính vì thế mà vợ chồng phải có nghĩa
vụ cùng nhau bàn bạc về phương hướng phát triển kinh tế gia đình, góp phần làm
cho khối tài sản chung ấy ngày càng phát triển nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình
và hơn thế nữa là giúp đỡ những người khác trong xã hội.
2. Khái quát về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
a. Khái niệm và đặc điểm ly hôn
Hôn nhân là sự liên kết suốt đời giữa vợ và chồng. Quan hệ hôn nhân tồn lại
lâu dài, bền vững. Điều đó hồn tồn phù hợp với tính chất, mục đích của hơn nhân
và tâm tư, nguyện vọng của những người kết hôn. Tuy nhiên, tính bền vững của
hơn nhân vẫn có ngoại lệ vì quan hệ hôn nhân bị chi phối phần lớn bởi yếu tố tình
cảm. Việc phát sinh mâu thuẫn giữa vợ và chồng trong cuộc sống hôn nhân là điều
tất yếu và khi mâu thuẫn trở nên quá căng thẳng, không thể hồ giải được, tồn tại
cuộc sống chung là hình thức thì vợ chồng có quyền chấm dứt quan hệ hơn nhân
bằng một sự kiện pháp lý, đó là ly hôn. Vậy ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ
chồng khi hai nguoi còn sống do một bạn vợ hoặc chồng yêu cầu hoặc hai bên vợ
chồng thuận tình, được Tồ án cơng nhận bằng bản án ly hơn hay bằng quyết định
cơng nhận thuận tình ly hơn.
b. Khái niệm chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hơn
Trong quan hệ vợ chồng, yếu tố tình cảm thường được đưa lên vị trí hàng
đầu, khơng có sự rạch rịi nguồn góc tài sản và tài sản của ai nhưng cuộc sống vợ
chồng không phải lúc nào cũng êm đềm, một khi quan hệ hôn nhân giữa hai vợ
chồng không thể tiếp tục được nữa việc chấm dứt quan hệ hôn nhân ấy tất yếu phải
dẫn đến kết cục chấm dứt. Khi ấy, việc giải quyết quan hệ tài sản của hai bên vợ
chồng là điều tất yếu hay có thể nói khi đó giữa vợ và chồng sẽ xảy ra việc chia tài
sản chung khi ly hôn. Vậy chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn là việc vợ
chồng tự thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung của vợ
chồng dựa vào những điều kiện nhất định, nhằm đảm bảo cho việc sở hữu, sử dụng
và định đoạt tài sản của các bên khi sự kiện ly hôn xảy ra.
II. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình 2014
1. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn (Khoản 1
Điều 59)
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời nhằm đáp ứng những nhu cầu mới
phát sinh của thực tiễn mà Luật hôn nhân và gia đình 2000 khơng thể đáp ứng. Một
trong những điểm mới của Luật Hơn nhân và gia đình 2014 là quy định về chế độ
tài sản của vợ chồng, so với quy định của luật cũ thì Luật Hơn nhân và gia đình
2014 đã tăng thêm sựa lựa chọn cho những người muốn tiến đến quan hệ hôn nhân
với nhau. Nếu như Luật Hơn nhân và gia đình 2000 chỉ áp dụng duy nhất chế độ tài
sản do luật định thì đến với Luật Hơn nhân và gia đình 2014 các nhà làm luật đã
mở rộng phạm vi lựa chọn về chế độ tài sản cho những ai muốn tiến đến hơn nhân.
Họ có thể tự lựa chọn chế độ tài sản trên sự thống nhất về ý chí, nguyện vọng của
đôi bên (Khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “1. Vợ chồng có
quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa
thuận. Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được thực hiện theo quy định tại
các điều từ Điều 33 đến Điều 46 và từ Điều 59 đến Điều 64 của Luật này. Chế độ
tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được thực hiện theo quy định tại các điều 47,
48, 49, 50 và 59 của Luật này”). Cùng với sự lựa chọn về áp dụng chế độ tài sản là
thoả thuận hay theo quy định của luật thì khi giữa hai bên vợ chồng trong quá trình
chung sống với nhau mà xảy ra mâu thuẫn đến nỗi không thể tiếp tục quan hệ hôn
nhân giữa hai bên và bắt buộc phải ly hơn thì thì đương nhiên việc phân chia tài sản
của vợ chồng là điều tất yếu phải xảy ra. Lúc này các nhà làm luật cũng dựa vào
quyền lựa chọn của vợ chồng về áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ
tài sản theo thoả thuận để đưa ra những nguyên tắc khi phân chia tài sản chung cho
từ chế độ tài sản mà vợ chồng đã lựa chọn ngay từ trước khi đăng ký kết hôn.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình 2014: “Trong
trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do
các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng
hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5
Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.
Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết
tài sản khi ly hơn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận khơng đầy đủ,
rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại
các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết”. Như vậy theo nguyên tắc
thì mỗi chế độ tài sản khác nhau lại được áp dụng những quy định khác nhau để
giải quyết nhưng chung quy lại trong cả hai trường hợp chế độ tài sản theo thoả
thuận hoặc chế độ tài sản theo luật định thì việc giải quyết tài sản được chia thành
hai hướng: một là theo thoả thuận giữa vợ và chồng. Hai là nếu không thoả thuận
hoặc thoả thuận khơng đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng theo quy định của luật. Việc
phân chia như vậy mang nhiều yếu tố tích cực như trong q trình chung sống với
nhau không phải lúc nào tài sản của vợ chồng cũng có thể phân chia được một các
rạch rịi bởi vì trong đó cịn mang cả những yếu tố tình cảm nên khi hai vợ chồng
không thể nào tiếp tục quan hệ hơn nhân được nữa (có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau) thì việc phân chia tài sản chung giữa họ cũng rất khó khăn
và đồng thời trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của hai vợ chồng về tài sản
chung nên Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã ưu tiên cho các bên tự thoả thuận
nhằm tạo ra sự thoải mái về tâm lý giữa các bên đặc biệt là người vợ, các bên có thể
đạt được những lợi ích mà họ cảm thấy là phù hợp nhất và tránh những chi phí phát
sinh gây tốn kém giải quyết bằng “con đường Toà án”. Cịn trong trường hợp các
bên khơng thể thoả thuận hoặc có thỏ thuận nhưng khơng đầy đủ, rõ ràng thì bắt
buộc phải thực hiện hiện quy định của pháp luật để bảo đảm quyền và lợi ích của
hai bên.
2. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo thoả thuận giữa các
bên
Khi qua hệ hôn nhân giữa hai vợ chồng chấm dứt, pháp luật tôn trọng quyền
tự định đoạt tài sản chung của họ tức là họ có quyền thoả thuận về phân chia tài sản
chung bào gồm những tài sản có liên quan đến giao dịch với người thứ ba, tài sản
chung năm trong khối tài sản cùa gia đình, quyền sử dụng đất và những tài sản
chung khác được đưa vào kinh doanh và nhiều tài sản chung khác. Mấu chốt ở đây
chính là sự tự thoả thuận giữa hai vợ chồng nhưng xen lẫn vào đó là những yếu tố
tình cảm như u, ghét, thù hận,… Bên cạnh đó, khi hai bên vợ chồng thoả thuận
thường sẽ có mặt những người có quan hệ thân thích với họ để phân tích, giải thích
cũng như đánh giá xem giữa vợ chồng thì người nào sẽ được hưởng những gì
nhưng đây cũng chỉ là ý kiến của bên thứ ba, còn quan trọng nhất vẫn phụ thuộc
vào sự thống nhất ý chí giữa hai bên vợ chồng. Ngồi ra, trong q trình thoả thuận
hai bên sẽ tính đến những yếu tố khác như hồn cảnh của gia đình và của vợ chồng
nếu như sau khi hai bên ly hôn mà người vợ có khó khăn trong việc lao động để tạo
lập của cải ni sống mình thì người vợ có thể theo thoả thuận nhận phần nhiều
hơn thậm chí là tất cả tài sản nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là ý chí của người
chồng. Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển của
khối tài sản cũng được xem xét đến khi tiến hành thoả thuận. Một yếu tố khơng thể
thiếu đó là lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ vợ chồng, có nhiều
trường hợp vì người chồng có hành vì ngoại tình và có đầy đủ chứng cứ nên khi
thoả thuận chia tài sản chung vì cảm thấy bản thân mình có lỗi nên họ có thể “ra đi”
tay trắng và để lại toàn bộ tài sản cho người vợ và con (nếu có).
3. Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật
Hơn nhân và gia đình 2014
3.1 Ngun tắc chia tài sản chung của vợ chồng theo luật định
Pháp luật tôn trọng và trao quyền tự thoả thuận về phân chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hơn nhưng có thể vì một lý do nào đó mà giữa hai bên vợ
chồng khơng thể thoả thuận hoặc có thoả thuận từ trước (khi vợ chồng áp dụng chế
độ tài sản thoả thuận) nhưng thoả thuận không đầy đủ, rõ ràng hoặc vợ chồng
khơng thoả thuận thì theo u cầu của vợ, chồng hoặc của cả hai vợ chồng, Toà án
giải quyết theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Và đương nhiên để
đảm bảo cho quyền, lợi ích hợp pháp của đơi bên thì pháp luật cũng quy định
những nguyên tắc khi chia tài sản chung.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 có quy
định khi ly hơn tài sản sẽ được chia đơi nhưng có tính những yếu tố như:
Thứ nhất, hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng. Quy định này được viện
dẫn tại điểm a khoản 4 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016 TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP, được hiểu là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi,
sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng
cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ
về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó
khăn hơn sau khi ly hơn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được
ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải
phù hợp với hồn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng.
Thứ hai, cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát
triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao
động có thu nhập. Khi hai bên vợ chồng cùng nhau tạo lập nên khối tài sản chung
thì khơng thể lúc nào cũng đóng góp vào khối tài sản chung “bằng nhau” được, và
khơng ít gia đình có “truyền thống” người chồng là “trụ cột” của gia đình nên phải
ra ngồi kiếm tiền để “ni” gia đình cịn người vợ chỉ ở nhà và có nhiệm vụ chăm
sóc gia đình. Vì vậy, khi hai bên ly hơn khơng ít trường hợp người chồng phủ nhận
những đóng góp của vợ (vì lý do người phụ nữ chỉ ở nhà chăm sóc gia đình, con cái
mà khơng lao động để tạo thu nhập cho gia đình) nên những nhà làm luật cũng đã
dự liệu và xem việc ở nhà chăm sóc gia đình, con cái là lao động có thu nhập ngang
bằng với thu nhập do người kia lao động mà có. Đây là một trong những quy định
tiến bộ của pháp luật về hôn nhân và gia đình của nước ta, một mặt đảm bảo sự
cơng bằng về công sức của hai bên trong việc tạo lập, đóng góp và phát triển khối
tài sản chung, mặt khác quyền, lợi ích hợp pháp của các bên vẫn được bảo đảm.
Thứ ba, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Việc chia tài
sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp
được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được
tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia
phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong
sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều
kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng
mất năng lực hành vi dân sự. Ví dụ: Vợ chồng có tài sản chung là một chiếc ô tô
người chồng đang chạy xe taxi trị giá 400 triệu đồng và một cửa hàng tạp hóa
người vợ đang kinh doanh trị giá 200 triệu đồng. Khi giải quyết ly hôn và chia tài
sản chung, Tịa án phải xem xét giao cửa hàng tạp hóa cho người vợ, giao xe ô tô
cho người chồng để họ tiếp tục kinh doanh, tạo thu nhập. Người chồng nhận được
phần giá trị tài sản lớn hơn phải thanh toán cho người vợ phần giá trị là 100 triệu
đồng.
Thứ tư, lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng là lỗi
của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn
đến ly hơn. Ví dụ: Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, khơng
chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hơn Tịa án phải xem xét yếu tố
lỗi của người chồng khi chia tài sản chung của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.
Ngoài ra, theo khoản 3, 4 Điều 59 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 tài sản
chung của vợ chồng nếu là hiện vật thì sẽ được chia theo hiện vật, nếu khơng chia
được thì chia theo phần giá trị và bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật mà có giá
trị lớn hơn phần của mình thì phải thanh tốn cho bên kia phần chênh lệnh. Tài sản
riêng của người nào thì thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp đã nhập
vào tài sản chung và nếu vợ chồng có yêu cầu chia thì được thanh tốn phần giá trị
tài sản đã nhập vào khối tài sản chung, trừ trường hợp hai bên có thoả thuận khác.
Một ngun tắc quan trọng khơng thể thiếu trong việc chia tài sản chung vợ
chồng khi ly hơn là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, con chưa thành
niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc mất khả năng lao
động và khơng có tài sản để tự ni mình. Ví dụ: Khi chia nhà ở là tài sản chung và
là chỗ ở duy nhất của vợ chồng, trong trường hợp khơng chia được bằng hiện vật
thì Tịa án xem xét và quyết định cho người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con chưa
thành niên, con bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự nhận hiện vật và thanh
toán giá trị tương ứng với phần tài sản được chia cho người chồng hoặc vợ nếu
người vợ hoặc chồng có yêu cầu.
3.2 Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba
(Điều 60)
Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Quyền
và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ
trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác”. Trong cuộc sống vợ
chồng khơng thể tránh khỏi những trường hợp cả hai vợ chồng cùng phát sinh quan
hệ tài sản với người thứ ba, chẳng hạn như hai vợ chồng cùng thoả thuận với người
thứ ba mua bán một tài sản nào đó như nhà, quyền sử dụng đất,… Nếu trong thời
khi hôn nhân vợ chồng đã giải quyết hết toàn bộ quyền, nghĩa vụ tài sản với người
thứ ba thì việc chia tài sản chung sẽ phần nào trở nên đơn giản hơn. Tuy nhiên, đặt
trường hợp quyền, nghĩa vụ tài sản với người thứ ba vẫn chưa được giải quyết
trong thời kỳ hôn nhân mà kéo dài đến khi ly hơn thì phải giải quyết như thế nào?
Dự liệu được trên thực tế sẽ xảy ra những trường hợp như thế, các nhà làm luật đã
quy định khi đó quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có
hiệu lực, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thoả thuận khác. Có thể thấy
mục đích của quy định trên là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cả vợ chồng và
người thứ ba, ví dụ: trong thời kì hơn nhân vợ chồng anh A chị B có vay của anh C
số tiền 200 triệu, nhưng vì lý do nào đó mà giữa vợ chồng anh A xảy ra mâu thuẫn
dẫn đến ly hơn. Khi đó, nghĩa vụ trả nợ cho anh C của hai vợ chồng anh A vẫn có
hiệu lực và theo thoả thuận của các bên mà đưa ra phương thức thanh toán nợ cho
anh C.
Ngồi ra, khoản 2 Điều 60 Luật hơn nhân và gia đình 2014 đã dự liệu trong
trường hợp có tranh chấp vế quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các
điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết. Và
nguyên tắc trong chia tài sản của vợ chồng khi ly hơn, Tịa án phải xác định vợ,
chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba hay không để đưa người thứ
ba vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường
hợp vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ về tài sản với người thứ ba mà họ có yêu cầu giải
quyết thì Tịa án phải giải quyết khi chia tài sản chung của vợ chồng. Trường hợp
vợ chồng có nghĩa vụ với người thứ ba mà người thứ ba không yêu cầu giải quyết
thì Tịa án hướng dẫn họ để giải quyết bằng vụ án khác. Căn cứ theo quy định tại
Điều 27: “1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực
hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại
diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này. 2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới
về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này”. Đối với những giao dịch nhằm
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình, những giao dịch khi tham gia kinh
doanh chung và giao dịch liên quan đến giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử
dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng thì vợ chồng phải chịu
trách nhiệm liên đới đối với người thứ ba trong các giao dịch ấy.
Không những thế vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với những nghĩa
vụ chung được quy định tại Điều 37 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 gồm:
Một là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thoả thuận xác lập,
nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải
chịu trách nhiệm liên đới. Khi vợ chồng đồng thuận cùng nhau thực hiện giao dịch
dân sự như liên quan đến tài sản chung, vay tiền, thế chấp tài sản… thì vợ chồng
phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch đó.
Hai là nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của gia đình. Gia đình là tế bào cần được chăm nom, nuôi dưỡng, việc chi tiêu cho
cuộc sống gia đình là cần thiết, hơn hết hơn nhân được xây dựng dựa trên mong
muốn từ hai phía để tạo ra một cuộc sống tốt đẹp hơn. Khi một bên thực hiện nghĩa
vụ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình như sửa nhà, ăn uống, chăm con…
thì người còn lại cũng phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đó.
Ba là nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, nghĩa là vợ chồng có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản
chung vì thế khi sử dụng, chiếm hữu, định đoạt những tài sản ấy mà phát sinh nghĩa
vụ thì vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới.
Bốn là việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung
hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho gia đình mà phát sinh nghĩa vụ thì nghĩa
vụ đó là nghĩa vụ chung của vợ chồng. Quy định này thể hiện tính cơng bằng và sự
tiến bộ trong lĩnh vực lập pháp của nước ta, tính cơng bằng thể hiện ở chỗ khi một
bên vợ hoặc chồng sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung
hoặc tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu nhằm đảm bảo cho gia đình có điều kiện về vật
chất, tinh thần cho gia đình, xã hội mà phát sinh nghĩa vụ thì cả vợ, chồng đều có
trách nhiệm liên đới (vì mục đích ban đầu của hơn nhân là chung sống bên nhau
suốt đời, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc).
Năm là nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ
luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường và nghĩa vụ khác theo quy định của luật có
liên quan. Theo đó khoản 2 Điều 589 Bộ luật dân sự 2015 có quy định người chưa
đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà cịn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại; nếu tài sản cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần cịn thiếu, trừ trường
hợp người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời
gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý. Ví dụ: C 14 tuổi là
con của anh A chị B, C đã làm hỏng chiếc xe máy hiệu AB của a D và chi phí sửa
chữa là 10 triệu. Trong trường hợp này anh A chị B có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại cho anh D cho cháu C gây ra. Ngoài ra, người từ mười lăm đến chưa đủ mười
tám tuổi mà gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình nêu khơng đủ
thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3.3 Chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia
đình (Điều 61)
Mục đích của hơn nhân là xây dựng cuộc sống ấm no, gia đình hạnh phúc và
để xây dựng được những điều trên là hồn tồn khơng dễ dàng nếu vợ chồng khơng
sống chung với nhau thì làm sao có thể tạo nên gia đình hạnh phúc, ngoại trừ
những trường hợp vì đặc thù nghề nghiệp, tính chất công việc mà vợ chồng phải
sống xa nhau. Bên cạnh đó, khơng phải bất cứ cặp vợ chồng nào khi tiến đến hơn
nhân cũng có thể “tự thân” xây dựng “tổ ấm” cho mình, trường hợp những cặp đơi
sau khi trở thành vợ chồng và sống chung với gia đình bên vợ hoặc bên chồng
không phải là hiếm ở trong xã hội ngày nay thậm chí cịn rất nhiều, đặc biệt là ở
Việt Nam do sự chi phối của các phong tục, tập quán truyền thống như rước dâu, ở
rễ thể hiện tinh thần hiếu đạo của con người đất Việt từ xưa đến nay. Chính vì thế,
khi hơn nhân giữa vợ chồng xuất hiện những mâu thuẫn, khủng hoảng mà khơng
thể giải quyết, kéo theo đó là “dấu chấm hết” của cuộc hơn nhân thì quan hệ tài sản
của vợ chồng lại phát sinh những vấn đề như vợ chồng sống chung với gia đình mà
có tài sản chung nằm trong khối tài sản gia đình thì khi ly hôn việc chia tài sản
chung ấy được giải quyết như thế nào? Nhận thức từ thực tiễn xã hội, các luật gia
đã dự liệu được những tình huống như thế đồng thời tạo ra các quy định nhằm giải
quyết vấn đề ấy.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật Hồn nhân và gia đình 2014, trong
trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hơn, nếu tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình khơng xác định được thì vợ hoặc chồng được
chia một phần trong khối tài sản chung với gia đình căn cứ vào cơng sức đóng góp
của vơ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung ấy và đời
sống chung của gia đình. Việc phân chia ấy do vợ chồng thoả thuận với gia đình
hoặc u cầu Tồ án giải quyết. Ở đây, khối tài sản chung của gia đình được tính
thêm cơng sức của vợ chồng trong việc đóng góp, giữ gìn cũng như phát triển khối
tài sản chung của gia đình, giúp đảm bảo cho tất cả thành viên trong gia đình theo
nhu cầu của mỗi người. Và khi vợ chồng ly hôn mà tài sản chung của họ nằm trong
khối tài sản chung của gia đình mà khơng xác định được thì họ vẫn có quyền được
hưởng một phần tài sản có thể là do họ đóng góp tài sản riêng hoặc công sức trong
phát triển khối tài sản chung của gia đình, điều này hồn tồn hợp lý cũng như đảm
bảo sự công bằng cho mỗi bên. Việc phân chia cũng như xem xét thế nào là “một
phần tài sản” và cách tính “một phần tài sản ấy” là do vợ chồng thoả thuận cùng gia
đình nếu khơng thì có thể nhờ đến Toà án giải quyết và khi giải quyết thì Tồ án cần
phải lưu ý đến việc xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá
trị mà họ phải thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa
phương vào thời điểm xét xử.
Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng
trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hơn,
phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia và việc
phân chia cũng như nguyên tắc phân chia tương tự trường hợp trên.
3.4 Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn (Điều 62)
Khi hôn nhân tan vỡ, bên cạnh “cú sốc” về tình cảm, các cặp đơi cịn “đau
đầu” bởi việc phân chia tài sản, đặc biệt là tài sản lớn như nhà đất. Việc phân chia
tài sản chung là quyền sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng đối với mội bên vì đây
là một loại tài sản đặc biệt.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “2.
Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực
hiện như sau: a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản,
nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia
theo thỏa thuận của hai bên; nếu khơng thỏa thuận được thì u cầu Tịa án giải
quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này. Trong trường hợp chỉ một bên có
nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng
nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được
hưởng; b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hơn phần quyền sử
dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này; c)
Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì
được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này; d) Đối với loại đất khác thì
được chia theo quy định của pháp luật về đất đai”, đất nông nghiệp và đất trồng
cây hằng năm, nuôi trồng thuỷ sản là một trong những loại đất quan trọng ở nước
Việt Nam hiện nay vì nước ta là một trong những quốc gia nơng nghiệp trên thế
giới tuy đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tỉ trọng cơ cấu ngành kinh tế nhưng
nơng nghiệp vẫn giữ vai trị quan trọng trong nền kinh tế ở nước ta. Theo quy định
tại điểm a, đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là
tài sản chung của vợ chồng thì khi ly hơn sẽ được phân chia thành hai trường hợp
để chia.
Trường hợp đầu tiên, cả hai bên vợ chồng đều có nhu cầu và điều kiện trực
tiếp sử dụng đất thì sẽ chia theo thoả thuận của các bên, nếu khơng có thoả thuận
thì u cầu Tồ án giải quyết theo quy định Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình
2014. Cả vợ và chồng phải là những người có nhu cầu sử dụng đất, có thể nhu cầu
của vợ và chồng khác hoặc giống nhau như tạo ra của cải vật chất để có cuộc sống
tốt đẹp hơn, nuôi dạy con cái trong môi trường tốt hơn,… và kèm theo nhu cầu ấy
là phải có điều kiện trực tiếp sử dụng có thể hiểu là có đủ thời gian, công sức, tiền
bạc cũng như điều kiện đi lại hoặc hồn cảnh gia đình của các bên để quản lý, khai
thác nguồn lợi từ phần đất được phân chia. Nhưng việc xác định thế nào là có nhu
cầu sử dụng và thế nào là điều kiện trực tiếp thì gần như là một vấn đề nan giải đối
với các cơ quan có thẩm quyền cũng như về phía hai bên. Ngồi ra, nếu giữa vợ
chồng đều có nhu cầu và điều kiện thì pháp luật tơn trọng sự thoả thuận giữa họ về
việc phân chia tài sản chung là quyền sử dụng đất ấy. Nếu họ không thể thống nhất
với nhau thì lúc bấy giờ, Tồ án sẽ là cơ quan giải quyết việc phân chia, khi đó Toà
án phải dựa vào những nguyên tắc được quy định tại Điều 59 Luật Hơn nhân và gia
đình 2014 để phân chia như thế nào cho phù hợp với công sức mà đôi bên đã bỏ ra
trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản ấy cũng như bảo vệ quyền, lợi ích
của bà mẹ, trẻ em cũng như con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự
hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.
Trường hợp thứ hai, nếu chỉ có một bên có nhu cầu và điều kiện trực tiếp thì
bên đó sẽ tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh tốn cho bên cịn lại phần giá trị quyền
sử dụng đất mà bên kia có quyền. Việc thanh toán cũng do các bên tự thoả thuận và
nếu khơng thoả thuận được thì u cầu Tồ án giải quyết để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của mình. Ví dụ: vợ chồng anh chị A có tài sản chung là quyền sử dụng
đất đối với mảnh đất nơng nghiệp trồng cây hàng năm có diện tích là 10 ha, sau đó
hai anh chị ly hơn và chỉ có anh A có nhu cầu cũng như điều kiện trực tiếp sử dụng
thì trong trường hợp này anh A được tiếp tục sử dụng cũng như phải có nghĩa vụ
thanh tốn cho chị B phần giá trị quyền sử dụng đất mà chị được hưởng (có thể
theo thoả thuận hoặc theo quyết định, bản án có hiệu lực của Tồ án).
Bên cạnh đó, nếu vợ chồng có quyền sử dụng đất nơng nghiệp trồng cây
hang năm, nuôi trồng thuỷ sản chung với hộ gia đình thì khi ly hơn phần quyền sử
dụng đât của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều
62 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Đây là một quy định cần thiết vì khơng hiếm
những trường hợp vợ chồng sử dụng tài sản chung của mình để góp vào tạo thành
tài sản chung gia đình là quyền sử dụng đất nơng nghiệp trồng cây hàng năm, ni
trồng thuỷ sản thì khi vợ chồng ly hôn phần tài sản ấy phải được tách ra để đảm bảo
cho việc phân chia tài sản chung giữa vợ chồng đúng theo thoả thuận giữa họ hoặc
phù hợp với công sức, của cải mà hai bên đã bỏ ra.
Về phần đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng,
đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
(điểm c khoản 2 Điều 62 Luật Hơn nhân và gia đình 2014). Cón đối với các loại đất
khác thì chia theo quy định của pháp luật về đất đai. Sự phát triển và ngày càng
hoàn thiện của hệ thống pháp luật đất đai đã và đang có nhiều đóng góp trong việc
giải quyết triệt để những vướng mắc trong quá trình phân chia tài sản chung là nhà
đất của vợ chồng khi ly hôn.
Tại khoản 3 Điều 62, nếu như vợ chồng sống chung với gia đình mà khơng
có quyền sử dụng đất chung với gia đình thì khi ly hơn quyền lợi của bên khơng có
quyền sử dụng đất và khơng tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo
quy định tại Điều 61 Luật Hơn nhân và gia đình 2014. Việc bảo đảm quyền, lợi ích
cho các bên khi ly hơn rất quan trọng nhất là đối với việc phân chia tài sản chung.
Trong nhiều trường hợp mặc dù vợ chồng sống chung với gia đình nhưng khơng có
quyền sử dụng đất chung thì khi họ ly hơn những quyền lợi vẫn được tơn trọng và
bảo đảm vì trong q trình chung sống với gia đình có thể họ đã đóng góp tài sản
riêng của mình hoặc cơng sức vào việc tạo lập, duy trì tài sản chung của gia đình.
Chính về thế, khi họ “ra đi” pháp luật vẫn bảo vệ cho quyền và ợi ích hợp pháp của
họ.
3.5 Quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hơn (Điều 63)
Điều 63 Luật Hơn nhân và gia đình 2014 có quy định trong trường hợp mà
nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hơn
vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp sau khi ly hơn vợ hoặc chồng có
có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày
quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác. Xuất phát
từ thực tiễn cuộc sống cũng như bảo vệ quyền lợi của mỗi bên trong quan hệ hơn
nhân mà đặc biệt về phía người vợ nên pháp luật đã quy định như thế. Tuy nhiên
việc quy định thế nào là “khó khăn về chỗ ở” cần phải có những hướng dẫn cụ thể
hơn, ví dụ: khơng có khả năng tài chính để th một chỗ ở mới,… Thời hạn 06
tháng có thể nói là con số ước lượng mà các nhà làm luật đã đưa ra, trên thực tế dựa
vào nhiều hoàn cảnh khác nhau mà việc tìm được nơi ở mới đối với một trong hai
bên vợ chồng là hoàn toàn khác nhau. Nhưng tại phần cuối của Điều 63 các nhà
làm luật đã trao quyền lựa chọn cho các bên khi quy định “trừ trường hợp các bên
có thoả thuận khác”, nhằm mục đích để hai bên có thể đạt được những gì mà mình
mong muốn nhất trong việc giải quyết vấn đề chỗ ở cho bên có khó khăn.
3.6 Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh (Điều 64)
Về phần tài sản chung được đưa vào kinh doanh thì khi ly hơn vợ, chồng
đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được
nhận tài sản đó và phải thanh tốn cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ có quyền
được hưởng, tài sản chung đưa vào kinh doanh nhằm mục đích phát triển khối tài
sản để đảm bảo nhu cầu về vật chất, tinh thần cho gia đình vì thế đây được coi là
một trong những tài sản quan trọng đối với các bên nên khi phân chia mà vợ, chồng
đang có hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung ấy pháp luật cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho họ. Nếu như vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh
doanh liên quan đến tài sản mà bắt buộc họ phải phân chia tài sản ấy bằng cách bán
tài sản và chia cho bên kia thì sẽ rất khó cho bên đang hoạt động nên thay vào đó
bên đang có hoạt động kinh doanh sẽ bù cho bên cịn lại phần giá trị mà bên kia
được hưởng. Ngoài ra, tại Điều 64 cũng có quy định những trường hợp mà pháp
luật kinh doanh có quy định khác. Pháp luật kinh doanh là tổng thể quy phạm pháp
luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình kinh doanh. Những văn
bản điều chỉnh hoạt động kinh doanh có thể kể đến như Bộ luật dân sự 2015, Luật
Đất đai 2013, Luật thương mại 2005, Luật doanh nghiệp 2014 và các văn bản
hướng dẫn. Chính vì thế, chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh cần
phải xét đến điều kiện sử dụng của đôi bên cũng như tuân theo các quy định của
pháp luật.
III. Thực tiễn và phương hướng hoàn thiện vấn đề chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn thoe quy định của Luật Hơn nhân và gia đình 2014
1. Thực tiễn áp dụng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Trong thực tiễn cuộc sống, những mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ và chồng là
điều không thể tránh khỏi. Vấn đề đặt ra là khi đứng trước những mâu thuẫn, bất
đồng ấy vợ chồng có thể “làm dịu” được hay không? Nếu những mâu thuẫn không
thể hồ hỗn được nữa thì tất yếu sẽ dẫn đến việc chấm dứt quan hệ hôn nhân và
kéo theo những vấn đề về tài sản mà trường hợp sau đây là một trong những ví dụ
minh chứng:
“Bà Nguyễn Thị Tám (trú tại thôn Phú Điền, xã Hàm Hiệp, huyện Hàm
Thuận Bắc) cho biết bà và ông Phạm Văn Phục kết hơn với nhau năm 1995. Tới
nay, hai người đã có 4 người con chung (lớn nhất 21 tuổi và nhỏ nhất 7 tuổi).
Khi mới cưới nhau, vợ chồng sinh sống trên thửa đất 39m2 do cha mẹ chồng
để lại. Quá trình chung sống, vợ chồng bà mua thêm được 105m2 đất liền kề phía
sau và đã được UBND huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (GCNQSDĐ) với diện tích tổng cộng là 144m2 vào năm 2011. Bà Tám có th
một ki ốt để bán tạp hố của Ban quản lí chợ.
Vào năm 2015, do có mâu thuẫn kéo dài nên vợ chồng bà phải đưa nhau ra
tịa xin ly hơn và chia tài sản chung. Bà Tám nhận trách nhiệm nuôi các con và đề
nghị được nhận hiện vật là nhà và 144m2 đất là tài sản chung của vợ chồng để nuôi
các con. Phần tiền chênh lệch, bà có trách nhiệm trả cho ơng Phục đầy đủ. Trong
khi đó, phía ơng Phục cũng có đề nghị được nhận hiện vật vì cho rằng trong 144m2
đất có phần đất do ơng được thừa kế từ ơng bà nội. Ngồi ra, bà Tám đã có một ki
ốt gần nhà, tức là đã có nơi ăn ở, sinh hoạt ổn định.”1
Theo như nhận định của người viết thì tài sản chung của vợ chồng ơng Phục
và bà Tám là hiện vật bao gồm nhà và 144m2, theo quy định tại Điều 33 Luật HN
& GĐ2 2014 thì tài sản chung này hình thành từ hai nguồn, nguồn thức nhất là 39
m3 do cha mẹ chồng để lại nhưng cũng khơng có những chứng cứ rõ ràng để chứng
minh 39m2 đất ấy là do chạ mẹ chồng của bà Tám để lại riêng cho chồng bà là ông
Phục, nguồn thứ hai là trong quá trình chung sống vợ chồng ông Phục đã mua được
105 m2 đất liền kề phía sau. UBND huyện Hàm Thuận Bắc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) với diện tích tổng cộng là 144m2 vào năm 2011.
Vì thế, khi vợ chồng ơng Phục bà Tám yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn và chia tài
sản chung đồng nghĩa với việc giữa vợ chồng bà Tám đã không thể tiến hành tự
thoả thuận phận chia tài sản chung. Theo yêu cầu của vợ chồng bà Tám và ông
Phục khi giải quyết vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng Toà án phải căn cứ vào
các nguyên tắc quy định tại Điều 59 Luật HN & GĐ 2014 như hoàn cảnh gia đình
và của vợ, chồng; cơng sức đóng góp vào khối tài sản chung; bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân
sự hoặc khơng có khả năn lao động và khơng có tài sản để tự ni mình. Theo đó
u cầu của bà Tám trong việc phân chia tài sản chung có phần hợp lý hơn vì bà
nhận trách nhiệm nuôi bốn người con ăn học, con đầu đang học Đại học tại TP Hồ
Chí Minh, con thứ 2 thì vừa tốt nghiệp PTHT (phổ thơng trung học) và 2 con dưới
18 tuổi nên rất cần có chỗ ở ổn định. Nếu khơng có nơi cư ngụ, việc học tập và sinh
hoạt của các con sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Nếu được chia hiện vật là nhà và 144m2
đất bà Tám phải bù lại phần giá trị tài sản mà ơng Phục có quyền được hưởng. Về
phía ơng Phục cho rằng bà Tám đang th ki ốt bán tạp hố từ Ban quản lí chợ nên
được coi như có nơi ăn, ở và sinh hoạt ổn định. Theo người viết đây là nhận định
phiến diện của ông Phục nên Toà án cần phải xem xét trong trường hợp này ki ốt
mà bà Tám thuê từ Ban quản lý chợ có thể sử dụng là chỗ sinh hoạt cho gia đình
1 Hà Thu, Vụ chia tài sản sau ly hơn ở Bình Thuận: Quyền lợi của vợ và con chưa thành niên cần được bảo đảm,
Nguồn: />2 Luật HN & GĐ: Luật Hơn nhân và gia đình 2014.
hay khơng vì theo như bà Tám ki ốt bà th từ Ban quản lí chợ nên khơng thể làm
nơi sinh hoạt.
Thêm một chi tiết nữa là Tòa cũng cần cân nhắc lại việc xác định nhà, đất
39m2 là tài sản riêng của ơng Phục vì năm 2011, phần đất này đã được UBND
huyện Hàm Thuận Bắc cấp GCNQSDĐ cho “hộ ông Phạm Văn Phục” (tức là bao
gồm cả bà Tám). Như vậy, Tòa cần phải xác minh làm rõ việc ơng Phục có tự
nguyện xin nhập 39m2 đất này vào tài sản chung của vợ chồng để xin cấp
GCNQSDĐ cho “hộ gia đình” hay khơng? Cơng sức của bà Tám trong việc chung
sức vào việc xây dựng nhà, tôn tạo diện tích đất 39m2 cũng cần được Tịa tính toán
để đảm bảo quyền lợi cho người vợ.
Việc giải quyết vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn cần phải
xem xét đến nhiều yếu tố khác nhau như hồn cảnh gia đình, cơng sức đóng góp,
bảo vệ quyền lợi của người vợ, con chưa thành niên và “nguồn gốc” hình thành tài
sản chung nhằm mục đích đưa ra những bản án, quyết định chính xác đối với quyền
và lợi ích hợp pháp của cả hai bên vợ chồng.
2. Phương hướng hoàn thiện những quy định về chia tài sản chung của
vợ chồng khi ly hôn theo quy định của Luật Hơn nhan và gia đình
2014
Luật Hơn nhân và gia đình 2014 ra đời với những sửa đổi, bổ sung quan
trọng, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam, Luật này đã đáp
ứng kịp thời các yêu cầu khách quan của đời sống hơn nhân và gia đình trong tình
hình mới; bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền cơng dân trong lĩnh
vực hơn nhân và gia đình; bình đẳng giới; kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa,
đạo đức truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam. Tuy
nhiên, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội và những quan hệ xã hội
về lĩnh vực hôn nhân và gia đình tự bản thân nó mang trong mình ít nhiều yếu tố
tình cảm nên Luật Hơn nhân và gia đình 2014 cũng khó tránh khỏi những bất cập
khi áp dụng vào thực tiễn cuộc sống.
Điều 62 Luật HN & GĐ 2014 quy định về vấn đề chia quyền sử dụng đất của
vợ chồng khi ly hôn đề cập phần nhiều đến chia quyền sử dụng đất liên quan đến
đất nông nghiệp trồng cây hằng năm, ni trồng thuỷ sản mà ít đề cập đến các loại
đất khác và viện dẫn các quy định pháp luật về đất đai để phân chia. Có thể xem
đây là một sự thiếu xót, vì cần phải có văn bản hướng dẫn cũng như trong văn bản
hướng dẫn ấy phải đề cập cụ thể quy định nào trong các văn bản pháp luật về đất
đai quy định việc phân chia tài sản chung của vợ chồng là các loại đất khác. Ngoài
ra trong trường hợp mà vợ chồng sống chung với gia đình khơng có quyền sử dụng
đất chung với hộ gia đình thì khi ly hơn quyền lợi của bên khơng có quyền sử dụng
đất và khơng tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo Điều 61 là vẫn
còn chung chung và nếu áp dụng vào thực tiễn thì Tồ án có vai trị quan trọng
trong việc xác minh nguồn gốc hình thành tài sản chung của gia đình cũng như xem
xét cơng sức đóng góp của người vợ (chồng) ấy.
Vì tầm hiểu biết cũng như khả năng nhận thức còn hạn chế nên phương
hướng hồn thiện trên đây chỉ mang tính chất chủ quan của người viết.
C. KẾT LUẬN
Mục đích cuối cùng trong việc xác lập quan hệ hôn nhân giữa nam và nữ là
xây dựng cuộc sống hạnh phúc, gia đình tiến bộ, ấm no góp phần duy trì nồi giống
và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, không phải lúc nào vợ chồng cũng có thể
cùng nhau “đi” đến cuối “đoạn đường”, khơng ít trường hợp “gãy gánh giữa
đường” do trong thời gian chung sống cùng nhau giữa các bên đã nảy sinh nhiều
mâu thuẫn mà không thể giải quyết được. Tất yếu phải dẫn đến việc chấm dứt quan
hệ hôn nhân mà sự kiện pháp lý là ly hôn, kéo theo sự chấm dứt quan hệ hôn nhân
ấy là hàng loạt những vấn đề liên quan đến việc chia tài sản chung của vợ chồng.
Những nguyên tắc, quy định mà Luật Hơn nhân và gia đình 2014 về vấn đề ấy tuy
đã đáp ứng được phần nào của nhu cầu thực tiễn khách quan nhưng vẫn cịn mang
tính chung chung và có những quy đinh chưa được hướng dẫn bởi những văn bản
khác. Điều này có thể gây “khó khăn” trong cơng tác xét xử nên cần phải được
hồn thiện nhanh chóng và hiệu quả.
Danh mục tư liệu tham khảo
1. Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
2. Nghị định 126/2014/NĐ – CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành luật hơn nhân gia đình.
3. Ngơ Thị Hường, Giáo trình Luật hơn nhân và gia đình Trường Đại học Kiểm
sát Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, 2015.
4. Thông tư liện tịch 01/2016/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật hôn nha và gia đình.