Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

LÊ THANH THÚY

NGHĨA VỤ THUẾ CỦA HỘ KINH DOANH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGHĨA VỤ THUẾ CỦA HỘ KINH DOANH
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Định hướng nghiên cứu
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học : TS. Phan Phương Nam
Học viên
: Lê Thanh Thúy
Lớp
: Cao học Luật, Khóa 31

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự


hướng dẫn khoa học của TS. Phan Phương Nam. Các nội dung, kết luận trong
luận văn chưa từng được công bố tại bất cứ cơng trình khoa học nào. Luận văn
có tham khảo và sử dụng các dữ liệu, thông tin, nội dung được trích dẫn trung
thực từ các tài liệu, sách chuyên khảo, tạp chí và trang web uy tín, có nguồn
gốc rõ ràng
Tác giả luận văn

LÊ THANH THÚY


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Giá trị gia tăng

GTGT

Hộ kinh doanh

HKD

Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày Nghị định 01/2021/NĐ-CP
04/01/2021 Về đăng ký doanh nghiệp
Thu nhập cá nhân

TNCN


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ NGHĨA VỤ THUẾ
ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH ............................................................................ 8

1.1. Khái niệm đặc điểm và vai trò của hộ kinh doanh ................................ 8
1.1.1. Khái niệm đặc điểm và vai trò của hộ kinh doanh ............................... 8
1.1.2. Vai trò của hộ kinh doanh đối với nền kinh tế ................................... 11
1.1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh .... 13
1.2. Khái quát về nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh .............................. 14
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh ............ 14
1.2.2. Các nguyên tắc áp dụng trong việc xác định nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh ................................................................................................... 19
1.2.3. Nội dung nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh ........................................ 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.................................................................................. 31
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG, BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA HỘ KINH DOANH VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN................................................................................................... 33
2.1. Thực trạng và bất cập trong các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế
của hộ kinh doanh ......................................................................................... 33
2.1.1. Thực trạng và bất cập trong các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế
của hộ kinh doanh trong các quy định thuế nội dung .................................. 33
2.1.2. Thực trạng và bất cập trong các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế
của hộ kinh doanh trong các quy định về quản lý thuế của hộ kinh doanh . 48
2.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh ..................................................................................................... 59
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh trong các loại thuế nội dung ..................................................... 59


2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh trong các quy định về quản lý thuế ........................................... 62
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.................................................................................. 65
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hộ kinh doanh (HKD) có vai trị quan trọng, trong việc giải quyết các vấn
đề an sinh xã hội, giảm phân hoá giàu nghèo, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Tuy nhiên, tình hình kinh doanh của khu vực này khá phức tạp, khả
năng tuân thủ pháp luật nói chung và pháp luật về thuế nói riêng của các HKD
chưa cao. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: pháp luật về nội dung
chưa quy định hợp lý tạo điều kiện cho người nộp thuế trốn thuế là HKD hoặc
tạo tâm lý tiêu cực cho người nộp thuế là HKD, các quy định về quản lý thuế
cũng còn hạn chế nhất định gây nên tình trạng trốn thuế, dây dưa nợ đọng thuế
cịn phổ biến.
Theo, tính đến năm 2021, cả nước có trên 5 triệu HKD1. Tuy nhiên, mặc
dù đã có nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng những bất cập trong quy định về
nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh vẫn đang tồn tại và gây cản trở cho q trình
phát triển của mơ hình kinh doanh này như: việc quy định mức doanh thu để
xác định HKD không phải nộp thuế TNCN và thuế GTGT là hoàn toàn hợp lý;
cách lấy doanh thu xác định thuế TNCN và thuế GTGT là chưa chính xác và
việc áp dụng quá cứng nhắc một phương pháp tính thuế GTGT và thuế TNCN
của HKD là chưa phù hợp với thực tế. Đồng thời đó, các quy định về chính
sách liên thông một cửa và một số quy định trong luật quản lý thuế đã và đang
cản trở và gây khó khăn cho người nộp thuế là HKD trong quá trình thực hiện
nghĩa vụ của mình.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Nghĩa vụ thuế
của hộ kinh doanh” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghĩa vụ thuế phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thông qua công tác kiểm tra đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác

nhau thơng qua các bài báo, tạp chí chuyên ngành thuế, tạp chí tài chính thương
Vũ Bảo Ngọc (2021), “Hơn 5 triệu HKD cần tháo gỡ khó khăn để phục hồi sản xuất” theo https://vov.
vn/kinh-te/hon-5-trieu-ho-kinh-doanh-can-thao-go-kho-khan-de-phuc-hoi-san-xuat-898345.vov#:~:text=T%
E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20hi%E1%BB%87n%20nay,30%25%20GDP%20c%E1%B
B%A7a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam truy cập ngày 15/04/2022.
1


2
mại và một số tạp chí chuyên ngành luật học, tạp chí khoa học pháp lý, tạp chí
Nhà nước và pháp luật, các cẩm nang Thanh Tra kiểm tra Thuế lưu hành nội bộ.
Bên cạnh các bài báo, tạp chí thì đã có những luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt
nghiệp nghiên cứu về Nghĩa vụ thuế phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp thông qua công tác kiểm tra thuế tại cơ quan thuế, tại trụ sở
người nộp thuế như nêu chi tiết dưới đây.
Tuy nhiên, tác giả nhận thấy các vấn đề như sau:
- Các nghiên cứu về nghĩa vụ thuế phát sinh từ hoạt động sản xuất kinh
doanh của Doanh nghiệp qua công tác kiểm tra còn nhiều hạn chế về số lượng có
ít tác giả nghiên cứu, chủ yếu là những cẩm nang lưu hành nội bộ tại các Cục
Thuế các Tỉnh không được nhiều tác giả nghiêm cứu chuyên sâu.
- Một số nghiên cứu mang tính lý luận chung, khái quát mà chưa đi sâu chi
tiết vào các quy định pháp luật thuế cụ thể để phân tích, đánh giá.
- Một số nghiên cứu có đi sâu vào phân tích, đánh giá quy định pháp luật
thì có đối tượng nghiên cứu là một chủ thể nhất định mà không bao quát tất cả
các chủ thể thuộc đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế từ hoạt động sản xuất
kinh doanh.
- Một số nghiên cứu có tính bao qt hơn về chủ thể nhưng không bao
quát hết các loại thuế cụ thể, cũng như chưa đề cập đến trách nhiệm của chủ thể
khi vi phạm quy định pháp luật thuế.
Một số đề tài nghiên cứu, bài viết liên quan đến nghĩa vụ thuế:

- Nguyễn Cơng Thạc (2012), “Hồn thiện cơng tác quản lý thu thuế đối
với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai”, Luận văn
thạc sĩ kinh tế. Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận về thuế, quản lý thuế
và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thuế đối với HKD; sử dụng phương pháp
thu thập thơng tin, phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp và kế thừa có chọn lọc
những kết quả nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu có liên quan để phân
tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế HKD cá thể tại Chi cục Thuế
huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai theo các nhóm nội dung: quản lý các thủ tục hành
chính thuế, cơng tác giám sát việc tuân thủ pháp luật thuế và quản lý quy trình
thu thuế. Từ đó chỉ ra những hạn chế trong công tác quản lý thuế đối với HKD


3
cá thể, nguyên nhân của những hạn chế để làm cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm
hồn thiện cơng tác quản lý thuế đối với HKD cá thể trên địa bàn huyện Phú
Thiện, tỉnh Gia Lai.
- Đặng Thị Thùy Trang (2015), “Hoàn thiện quản lý thuế đối với hộ kinh
doanh cá thể trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”, Luận văn thạc sĩ kinh
tế. Đề tài nghiên cứu đã hệ thống hóa cơ sở lý luận và nêu lên những kinh
nghiệm thực tiễn về quản lý thuế đối với HKD cá thể; sử dụng các phương pháp
nghiên cứu: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, lý luận kinh tế chính trị học của
Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, nghiên cứu tài
liệu và chuyên gia. Phần đánh giá thực trạng quản lý thuế đối với HKD cá thể
trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh luận văn đi sâu phân tích việc thực
hiện quy trình quản lý thuế và bộ máy quản lý thuế, trên cơ sở đó tác giả đề xuất
một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý thu thuế đối với HKD trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Có thể nói 2 luận văn trên chủ yếu trình bày về dưới góc độ quản lý thuế
và nhiều nội dung đã được xem xét, ghi nhận vào luật quản lý thuế số
38/2019/QH14. Những nội dung này là cở sở để tác giả kế thừa và tiếp tục

nghiên cứu trong luận văn của mình về góc độ quản lý thuế. Tuy nhiên, ở góc độ
pháp luật thuế nội dung thì có các luận văn sau:
- Nguyễn Thanh Liêm (2017), Pháp luật về thuế TNCN đối với cá nhân
kinh doanh và hộ kinh doanh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường đại học Kinh
tế Tp. HCM lại là một nghiên cứu dưới góc độ thuế TNCN. Theo đó, tác giả đã
phân tích một số nội dung liên quan đến hộ kinh doanh dưới góc độ thuế TNCN.
Tuy nhiên, vì phân tích tồn bộ các khoản thu nhập chịu thuế TNCN của hộ kinh
doanh nên mọi khoản thu nhập đều được tác giả phân tích khá sơ lược và chưa đi
sâu vào các khoản thu nhập của hộ kinh doanh. Tuy vậy, một số điểm lý luận của
luận văn cũng sẽ được tác giả kế thừa đưa vào luận văn của mình.
Bên cạnh các luận văn, cũng có những bài viết có liên quan như:
- Bài viết “Quy định pháp luật về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh” của
Thạc sỹ Ngô Thị Thu Hà, đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1, số tháng 3/2017 và
bài viết “Phân tích pháp luật về hộ kinh doanh để tìm ra các bất cập” của tác giả


4
Ngô Huy Cương, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, đăng trên Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) 234-245. Những bài viết này được các tác
giả phân tích phần nhiều về gốc độ quản lý thuế mà chưa khai thác nhiều các quy
định về thuế nội dung trong nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu đều có mục đích, nội dung, đối
tượng, phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau, đã đề cập chủ yếu đến
công tác quản lý thuế nói chung và nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh nói
riêng, cịn vấn đề về thuế nội dung của hộ kinh doanh chưa được nghiên cứu một
cách chuyên sâu. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này là cần thiết và có ý nghĩa cả trên
phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh như:

phân tích các đặc trưng của nghĩa vụ thuế đối với HKD để thấy các quy định về
nội dung này có những điểm khác biệt nhất định với quy định nghĩa vụ thuế của
doanh nghiệp, các nguyên tắc chi phối quy định về nghĩa vụ thuế của HKD.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về nghĩa vụ thuế của HKD
nhằm tìm ra các hạn chế, bất cập của các quy định này làm cơ sở cho việc đề
xuất giải pháp.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ thuế
của KHD.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm ra được những đặc trưng chi phối quy định nghĩa vụ thuế của
HKD để thấy có sự khác biệt giữa nghĩa vụ thuế HKD và nghĩa vụ thuế của
doanh nghiệp.
- Phân tích và tìm thấy các hạn chế, bất cập trong quy định về nghĩa vụ
thuế của HKD.
- Tìm ra các giải pháp nhằm hạn chế các bất cập trong quy định về nghĩa
vụ thuế của HKD.


5
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn gồm:
- Các quan điểm khoa học, vấn đề lý luận về nghĩa vụ thuế của HKD.
- Các văn bản quy phạm pháp luật về nghĩa vụ thuế của HKD.
- Thực tiễn áp dụng các quy phạm pháp luật về nghĩa vụ thuế của HKD.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nội dung: Đề tài chỉ giới hạn trong việc làm rõ các nghĩa vụ thuế của
HKD trong chủ yếu hai loại thuế lớn là thuế GTGT và thuế TNCN cũng như các
quy định quản lý thuế liên quan hai loại thuế này.
- Về không gian: Chỉ nghiên cứu các hoạt động về thuế liên quan đến thuế

GTGT và thuế TNCN cũng như các quy định hoạt động quản lý thuế liên quan
hai loại thuế của HKD.
- Về thời gian nghiên cứu: Dữ liệu phân tích thực trạng giới hạn trong
khoảng thời gian từ năm 2009 đến 2021 (kể từ khi Luật thuế TNCN và thuế
GTGT năm 2008 có hiệu lực).
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu phương pháp phân
tích - tổng hợp - diễn giải và so sánh nhằm hiểu đúng, chi tiết và toàn diện pháp
luật, giải quyết những vấn đề đặt ra và làm sáng tỏ những vấn đề cần nghiên
cứu. Trong đó, phương pháp phân tích - tổng hợp được áp dụng chủ yếu ở
Chương I để trình bày khái quát những vấn đề lý luận về nghĩa vụ thuế của
HKD như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, các nguyên tắc áp dụng khi quy định
về nghĩa vụ thuế của HKD, các nội dung mà nghĩa vụ thuế của HKD cần phải
có. Trong khi đó, ở Chương II, luận văn sẽ sử dụng chủ yếu các phương pháp
phân tích và so sánh cũng như đối chiếu các số liệu thực tế để chứng minh các
quy định về nghĩa vụ thuế hiện hành của HKD còn một số bất cập, hạn chế làm
ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng nghĩa vụ thuế của HKD. Trên cơ sở đó, Luận
văn sẽ mơ hình hóa và đưa ra một số kiến nghị nhằm hạn chế những điểm bất


6
cập trên, giúp cho nghĩa vụ thuế của HKD được áp dụng tốt hơn trên thực tế,
phù hợp hơn với cuộc sống.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Có thể nói luận văn là cơng trình nghiên cứu chun
sâu và tồn diện về nghĩa vụ thuế của HKD - một nội dung rất nhỏ nhưng nhiều
ý nghĩa trong thuế nhưng chưa được quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu nhiều trước
đây. Do đó luận văn với nội dung khái quát những vấn đề lý luận về nghĩa vụ
thuế của HKD và việc xây dựng các luận cứ cho việc xác định nghĩa vụ thuế của
HKD đã góp phần đóng góp vào hệ thống kết quả đạt được của luận văn có thể

là nguồn tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu sau này về thuế đối HKD
trong các hoạt động học tập, giảng dạy hoặc trong việc thực hiện, quản lý đăng
ký thuế trên thực tế.
Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua những phân tích, đánh giá về thực trạng áp
dụng nghĩa vụ thuế, luận văn đã chỉ ra những điểm phát triển cũng như hạn chế
còn tồn đọng trong quy định pháp luật cũng như những thiếu sót gây cản trở cho
quá trình triển khai trên thực tế của hoạt động này, từ đó nêu ra một số kiến giải,
kiến nghị nhất định, có ý nghĩa góp phần hồn thiện quy định pháp luật về nghĩa
vụ thuế của HKD.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương như sau:
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ NGHĨA VỤ
THUẾ ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
1.1. Khái niệm đặc điểm và vai trò của hộ kinh doanh
1.2. Khái quát về nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG, BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ THUẾ CỦA HỘ KINH DOANH VÀ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN
2.1. Thực trạng và bất cập trong các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế
của hộ kinh doanh


7
2.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh
2.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh trong các loại thuế nội dung
KẾT LUẬN:



8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ NGHĨA VỤ THUẾ
ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH
1.1. Khái niệm đặc điểm và vai trò của hộ kinh doanh
1.1.1. Khái niệm đặc điểm và vai trò của hộ kinh doanh
Ở Việt Nam, số lượng nhà đầu tư kinh doanh dưới hình thức là cá nhân và
nhóm kinh doanh ở quy mơ nhỏ, khơng thành lập doanh nghiệp chiếm tỷ trọng
tương đối lớn và trong từng giai đoạn, chúng được gọi bằng tên khác nhau như
trước Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính phủ về đăng ký kinh
doanh thì HKD được gọi là “HKD cá thể” và tên gọi “HKD cá thể” được ghi nhận
tại Khoản 1 Điều 24 Nghị định 109/2004/NĐ-CP ngày 2/4/2004 của Chính phủ về
đăng ký kinh doanh (thay thế Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000). Sau đó,
HKD được Khoản 1 Điều 36 Nghị định 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 của Chính
phủ ghi nhận và tên gọi này tiếp tục được Nghị định 43/2010/NĐ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 25/4/2010 (thay thế Nghị định 88/2006/NĐ-CP, có hiệu lực từ
01/06/2010) và hiện nay là Nghị định 01/2021/NĐ-CP của Chính phủ ngày
04/01/2021 Về đăng ký doanh nghiệp như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân
hoặc các thành viên hộ gia đình đăng ký thành lập và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ”.
Từ định nghĩa trên về “HKD”, cho thấy HKD có những đặc điểm như sau:
Một là, chủ thể của HKD hoàn toàn khác với trước đây, HKD theo quy
định mới là hộ gia đình. Trước đây, HKD do một cá nhân hoặc một nhóm
người gồm các cá nhân là cơng dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ2. Tuy nhiên, hiện nay theo khoản 1
Điều 79 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP thì HKD do một cá nhân hoặc các thành
viên hộ gia đình đăng ký thành lập. Trường hợp các thành viên hộ gia đình đăng
ký HKD thì ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ và cũng là chủ HKD3.
Đồng thời, phải có biên bản họp thành viên hộ gia đình để chứng minh việc hộ

gia đình ủy quyền cho một thành viên làm đại diện hộ.
2
3

Khoản 1 Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐ-CP (đã hết hiệu lực).
Khoản 1 Điều 79 Nghị định 01/2021/NĐ-CP ngày 04-01-2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.


9
Bên cạnh đó, HKD khơng có tư cách pháp nhân và phải chịu trách nhiệm
vơ hạn bằng tồn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của hộ.
Thứ hai, HKD được phép hoạt động kinh doanh tại nhiều địa điểm khác
nhau4 nhưng phải chọn một địa điểm để đăng ký trụ sở chính và phải thơng báo
cho Cơ quan quản lý thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi tiến hành hoạt động
kinh doanh đối với các địa điểm kinh doanh còn lại. Đây là sự đổi mới theo chiều
hướng tích cực, góp phần mở rộng phạm vi kinh doanh thay vì như trước đây
HKD chỉ được phép hoạt động một địa điểm nhất định và không được phép đăng
ký kinh doanh ở nhiều địa điểm khác nhau. Chính quy định này góp phần thúc
đẩy và tạo điều kiện cho chủ HKD mở rộng quy mô sản xuất, phạm vi kinh
doanh, tạo thêm việc làm, tạo thêm thu nhập, giúp cho đời sống của các hộ dân
được cải thiện hơn, ổn định hơn và góp phần phát triển kinh tế vùng miền.
Chính vì vậy, dẫn đến HKD tận dụng và phát huy tối đa cơ hội kinh doanh, phát
huy hết lợi ích của nguồn lực đầu tư dưới hình thức HKD. Tuy nhiên, điều này
ảnh hưởng khơng nhỏ đến vấn đề quản lý thuế của HKD cũng như xác định các
nghĩa vụ thuế của HKD.
Thứ ba, HKD đã được thuê trên 10 lao động, thay vì trước đây thì
khơng được phép th trên 10 lao động. Theo Điều 66 Nghị định 78/2015/NĐCP, HKD chỉ có tối đa 10 lao động nếu trên mức này, HKD bắt buộc phải
chuyển đổi thành doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy định hiện nay thì HKD
khơng bị giới hạn về số lượng lao động. Đây là một bước ngoặt đánh dấu sự
phát triển mới đối với HKD so với thời điểm trước. Sở dĩ có sự đổi mới này bởi

vì luật đã cho phép HKD được kinh doanh trên nhiều địa điểm khác nhau thì
việc thuê lao động bắt buộc phải trên 10 người là điều hiển nhiên. Điều này
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quản lý thuế TNCN cho người lao động khi
HKD nộp thuế thay cho người lao động theo nguyên tắc khấu trừ trong quy
định của thuế TNCN5.
Thứ tư, chủ HKD được phép thuê người quản lý. Trước đây, khơng có
quy định về việc chủ HKD được th người quản lý kinh doanh. Tuy nhiên, theo
quy định mới thì chủ HKD có thể thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động
4
5

Khoản 2 Điều 86 Nghị định 01/2021/NĐ-CP ngày 04-01-2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp.
Khoản 6 Điều 1 của Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế TNCN.


10
kinh doanh của HKD6. Trong trường hợp này, chủ HKD, các thành viên hộ gia
đình tham gia đăng ký HKD vẫn chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác phát sinh từ hoạt động kinh doanh. Hơn nữa, chủ HKD, các thành
viên hộ gia đình tham gia đăng ký HKD chịu trách nhiệm đối với các hoạt động
kinh doanh chứ không liên quan đến người quản lý. Có thể thấy, những quy định
này đang học hỏi cách hoạt động của doanh nghiệp vào mơ hình quản lý của
HKD. Ở đó người quản lý về bản chất vẫn có thể là người lao động và những
thành viên vẫn là người chủ thật sự của cơ sở kinh doanh. Việc làm này một mặt
cho thấy sự hợp lý và logic so với quy định cho phép HKD mở phạm vi ở nhiều
nơi khác nhau thì bắt buộc phải cho phép th nhiều lao động và chính vì có
nhiều nơi kinh doanh khác nhau nên nhà làm luật lại tiếp tục cho phép chủ HKD
được phép thuê người quản lý. Tuy nhiên, ở góc độ nào đó đã và đang tạo nhiều
sự thuận lợi cho HKD trong quá trình phát triển mà khơng phải thành lập doanh
nghiệp vẫn có những ưu điểm nhất định.

Thứ năm, HKD có quyền tạm ngừng hoạt động kinh doanh, thời gian
tạm ngừng kinh doanh vô thời hạn. Trường hợp, tạm ngừng kinh doanh từ 30
ngày trở lên, HKD phải thông báo với Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện
nơi đã đăng ký kinh doanh và Cơ quan thuế trực tiếp quản lý (theo khoản 1
Điều 91 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP). Như vậy có thể hiểu, HKD có thể tạm
ngừng kinh doanh vơ thời hạn. Cịn theo quy định cũ thì HKD tạm ngừng kinh
doanh không được quá 01 năm7. Quy định này cơ bản xác định liên quan đến
nghĩa vụ thuế của HKD và tạo điều kiện thuận lợi cho HKD trong q trình
kinh doanh.
Tóm lại, những quy định mới đối với mơ hình HKD đã khắc phục phần nào
những bất cập vướng mắc trước đây trong quy định về HKD. Đồng thời, những
điểm đổi mới này là một chuỗi mắc xích liên kết với nhau một cách chặt chẽ,
mang tính khoa học, phù hợp và vô cùng logic. Đây là cũng được xem như là một
bước tiến đáng kể mở ra một diện mạo mới, khẳng định địa vị pháp lý của HKD
trong các thành phần kinh tế và tạo điều kiện cho mơ hình HKD được phát triển
hơn nữa góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tại Việt Nam hiện nay.
6
7

Khoản 3 Điều 81 Nghị định 01/2021/NĐ-CP Về đăng ký doanh nghiệp.
Khoản 1 Điều 76 Nghị định 78/2015/NĐ-CP Về đăng ký doanh nghiệp.


11
1.1.2. Vai trò của hộ kinh doanh đối với nền kinh tế
Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Hành
Trung Ương Đảng Khóa XII đã khẳng định: “Phát triển kinh tế tư nhân lành
mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội nhanh, bền vững, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, thực hiện

tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, sớm đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”8. Điều này cho thấy đây là chủ
trương lớn, nhất quán của Đảng vừa thúc đẩy kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển;
vừa phát huy vai trò của thành phần kinh tế này trong phát triển kinh tế - xã hội,
củng cố an ninh quốc phịng trong tình hình mới9.
Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng
42 - 43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp
phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu
ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.10 Bên cạnh
những thành tựu rất quan trọng về kinh tế, vị thế của kinh tế tư nhân ngày
càng được nâng cao trong đời sống chính trị - xã hội. Thực tiễn sau nhiều năm
đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, kinh tế tư nhân đã phát triển
rộng khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy
động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải
thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, an sinh xã hội của đất nước. Để đạt kết quả như thế một phần là do
sự phát triển của các mơ hình doanh nghiệp, trong đó khơng thể khơng nhắc
đến mơ hình HKD cũng đã phần nào góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tư
nhân ở nước ta.
Nghị quyết số 10-NQ/TW của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Khóa XII Về
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường địn h hướng xã hội
chủ nghĩa
9
Nguyễn Quang Tạo - Nguyễn Thị Ly (Viện Khoa học xã hội nhân văn quan sự), Kinh tế tư nhân - Động lực
quan trọng của nền kinh tế, trong-cua-nen-kinh-te-518.html, truy cập ngày 22-04-2022.
10
Minh Hương (2021), “Kinh tế tư nhân – Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam” theo .
vn/webcenter/portal/tttc/pages_r/l/chi-tiet-tin-tin-tuc-tai-chinh?dDocName=MOFUCM217082 truy cập ngày
21/04/2022.

8


12
Góp phần vào sự đóng góp của kinh tế tư nhân cho nền kinh tế, HKD cũng
đã đóng góp khơng nhỏ trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở Việt
Nam hiện nay. Cụ thể: Theo, tính đến năm 2021, cả nước có trên 5 triệu HKD11
trong đó tổng số lượng HKD liên tục tăng qua các năm12. Theo đó, HKD đã có
những đóng góp tích cực trong nền kinh tế, nổi bật như:
Một là, HKD có đóng góp vơ cùng to lớn trong tạo việc làm và giải quyết
các vấn đề xã hội. Theo số liệu thống kê, số lao động làm việc trong khu vực
HKD tính đến cuối năm 2020 là 8,5 triệu/ tổng số 14, 7 triệu lao động cả nước13
(chiếm 57,82%). Điều này cho thấy HKD đã và đang tạo ra nhiều việc làm nhất
so với khu vực các doanh nghiệp.
Hai là, HKD thể hiện sức sống mãnh liệt, sự năng động và vai trị đóng
góp cho tăng trưởng. Đặt trong mối tương quan với khối doanh nghiệp đầu tư
nước ngồi đóng góp 27-28% GDP, khối doanh nghiệp nhà nước - 20% GDP,
doanh nghiệp tư nhân -10% GDP, thì HKD dù chưa được chú ý, ưu đãi nhưng
đang là đối tượng lớn khi đóng góp gần 30% GDP14.
Ba là, HKD có vai trị quan trọng cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho xã hội,
cải thiện đời sống cho dân cư. Theo số liệu thống kê, HKD chỉ nắm giữ 3% tổng
nguồn vốn kinh doanh nhưng tạo ra hơn 13% doanh thu của các tổ chức kinh
doanh có đăng ký (gồm HKD và các doanh nghiệp chính thức)15. Hộ kinh doanh
gián tiếp cải thiện cuộc sống cho những người thu nhập thấp, người nghèo ở cả
thành thị và nông thôn thông qua cung cấp các hàng hoá, dịch vụ sớm hơn,
nhanh hơn và với giá thấp hơn.
Vũ Bảo Ngọc (2021), “Hơn 5 triệu HKD cần tháo gỡ khó khăn để phục hồi sản xuất” theo />kinh-te/hon-5-trieu-ho-kinh-doanh-can-thao-go-kho-khan-de-phuc-hoi-san-xuat-898345.vov#:~:text=T%E1
%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20hi%E1%BB%87n%20nay,30%25%20GDP%20c%E1%BB%
A7a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam truy cập ngày 15/04/2022.
12

Trịnh Đức Chiều (2019), “Thực trạng hoạt động của HKD ở Việt Nam”, Tạp chí tài chính, https://
tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/thuc-trang-hoat-dong-cua-ho-kinh- doanh-o-viet-nam-302038.html
truy cập ngày 15/04/2022.
13
Hồng Sơn (2022), “Trịnh Đức Chiều – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Thực trạng hoạt động
của HKD ở Việt Nam” theo truy cập ngày 11/04/2022.
14
Vũ Bảo Ngọc (2021), “Hơn 5 triệu HKD cần tháo gỡ khó khăn để phục hồi sản xuất” theo https://
vov.vn/kinh-te/hon-5-trieu-ho-kinh-doanh-can-thao-go-kho-khan-de-phuc-hoi-san-xuat-898345.vov#:~:text=
T%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20hi%E1%BB%87n%20nay,30%25%20GDP%20c%E1
%BB%A7a%20Vi%E1%BB%87t%20Nam truy cập ngày 15/04/2022.
15
Trịnh Đức Chiều (2019), “Thực trạng hoạt động của HKD ở Việt Nam”, Tạp chí tài chính, https://
tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/thuc-trang-hoat-dong-cua-ho-kinh- doanh-o-viet-nam-302038.html
truy cập ngày 15/04/2022.
11


13
Bốn là, HKD huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong dân ở một
số ngành, lĩnh vực và là một kênh đóng góp cho tăng trưởng. Trên thực tế, HKD
là mơ hình khởi nghiệp phổ biến nhất ở Việt Nam nhờ vào sự đơn giản về thủ tục
gia nhập thị trường, ít ràng buộc về tổ chức quản lý, linh hoạt trong vận hành,
phù hợp với nhiều thành phần, địa bàn, chi phí vốn thấp.
Nhìn chung, HKD đã góp phần tạo được việc làm, giải quyết các vấn đề xã
hội, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đa dạng, đóng góp khơng nhỏ trong việc tăng
trưởng kinh tế và thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay.
1.1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh
Việc nhà nước xác định nghĩa vụ thuế của HKD được xác lập dựa trên

những lý do sau:
Một là, tạo sự công bằng cho việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Bởi lẽ HKD
cũng tiến hành các hoạt động kinh doanh có thu nhập. Mà thuế là khoản tiền mà
các tổ chức, chức cá nhân phải đóng góp vào ngân sách nhà nước để thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Do vậy, cũng như các chủ thể kinh
doanh khác, nhà nước cũng cần phải điều tiết thuế vào hoạt động kinh doanh của
các HKD để tạo nên sự bình đẳng so với các hình thức kinh doanh khác. Nếu
nhà nước không điều tiết thuế vào hoạt động kinh doanh của HKD mà điều tiết
thuế vào hoạt động kinh doanh của các hình thức kinh doanh khác như doanh
nghiệp và hợp tác xã thì lúc này sẽ tạo nên sự bất bình đẳng và cịn vơ hình
chung khuyến khích người dân khơng phát triển kinh doanh dưới hình thức
doanh nghiệp mà cứ lựa chọn mơ hình kinh doanh là hộ gia đình thì khơng phù
hợp với xu thế phát triển các doanh nghiệp của nhà nước, đi ngược lại chủ
trương đạt 1 triệu doanh nghiệp16. Do vậy, về cơ bản, dù là kinh doanh dưới hình
thức nào: HKD hay doanh nghiệp thì cũng phải chịu sự quản lý của nhà nước về
nội dung kinh doanh và cả nghĩa vụ thuế với nhà nước. Tuy vậy, cũng cần lưu ý
những đặc thù riêng của HKD mà có cách thức quy định nghĩa vụ thuế cho phù
hợp như: việc quản lý kinh doanh của HKD còn chưa chặt chẽ nên các minh
Ban đầu mục tiêu này được đạt ra cho đến năm 2020 (Theo Nghị quyết 35/2016/NQ - CP Về hỗ trợ và phát
triển doanh nghiệp đến năm 2020). Tuy nhiên với nhiều lý do khách quan và chủ quan mà kế hoạch này
không đạt được.
16


14
chứng về nguồn thu, các chi phí trong kinh doanh chưa chặt chẽ, việc sử dụng
hóa đơn, chứng từ chưa thật sự hồn hảo như doanh nghiệp, quy mơ nhỏ nên
cách thức quản lý đơn giản. Việc lưu ý các đặc thù của HKD sẽ làm cho việc quy
định nghĩa vụ thuế của HKD này có sự khác biệt nhất định với nghĩa vụ thuế của
các doanh nghiệp.

Hai là, đảm bảo q trình quản lý hàng hóa trong lưu thơng. Việc thu thuế
là cơ sở để nhà nước góp phần tham gia kiểm tra vào quá trình của HKD. Theo đó,
cơ quan quản lý có thể kiểm tra các hoạt động của HKD từ ngành nghề kinh
doanh, sổ sách, chứng từ trong hoạt động kinh doanh. Qua đó, cơ quan quản lý có
thể hạn chế các trường hợp mua gian, bán lận, những hành vi tạo lập sự lưu thông
giả tạo để đẩy giá hàng hóa, hoạt động gian lận thương mại khác trên thị trường.
Ba là, quản lý thu nhập của các chủ thể trong xã hội. Ở đó, nhà nước có
thể xác định được các HKD có chi trả thu nhập cho người lao động như thế nào
để điều chỉnh hợp lý tiền thuế đối với người lao động trong HKD. Có thể có
quan điểm cho rằng vấn đề này khơng cần thiết vì HKD sẽ sử dụng ít lao động
và sẽ chi trả thu nhập không cao. Tuy nhiên điều đó là chưa thỏa đáng vì hiện
nay HKD có thể sử dụng nhiều hơn 10 người lao động và có thể sẽ trả mức
lương lao để thu hút nhân lực. Bên cạnh đó, HKD cũng sẽ tham gia thực hiện các
bước trong kinh doanh do đó có thể họ là người cung cấp hàng hóa, dịch vụ
nhưng cũng có khi họ sử dụng hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác. Vì vậy, thơng
qua các nội dung này để kiểm tra các chủ thể này đã chi trả các khoản chi nào,
cho ai để xem xét góc độ quản lý thu nhập cho các chủ thể là đối tác của HKD.
Ngoài ra, việc quy định và thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của HKD để còn
nhằm mục đích chống thất thu và trốn thuế. Bởi lẽ hiện nay đã và đang có nhiều
thương hiệu lớn lợi dụng sự quản lý thuế chưa chặt chẽ của mơ hình HKD để
thực hiện các hành vi trốn, tránh thuế làm ảnh hưởng đến nguồn thu của ngân
sách nhà nước.
1.2. Khái quát về nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm nghĩa vụ thuế đối với hộ kinh doanh
Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì: “Nghĩa vụ thuế là khoản thanh toán của một
cá nhân, doanh nghiệp hoặc pháp nhân khác đối với cơ quan thuế liên bang, tiểu


15
bang hoặc địa phương”17. Khái niệm này chỉ hiểu đơn giản đó là số tiền mà theo

nghĩa vụ một chủ thể phải nộp cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, cách hiểu
trên là chưa chính xác. Bởi theo đó, khái niệm này chỉ bao gồm việc xác định
người nộp thuế sẽ nộp bao nhiêu tiền thuế cho nhà nước mà khơng đề cập đến
q trình quản lý thuế đối với chủ thể này.
Hoặc một cách tiếp cận khác theo nghĩa hẹp thì “nghĩa vụ thuế là nhóm
nghĩa vụ mang tính hành chính, cưỡng chế”18. Tuy nhiên, việc tiếp cận theo
hướng này theo tác gải là quá hạn chế, chỉ tiếp cận dưới gốc độ quản lý thuế để
xác định xem người nộp thuế có những nghĩa vụ kê khai, nộp thuế, quyết tốn
thuế và cưỡng chế thi hành hành chính về thuế mà chưa quan tâm cũng như chưa
đề cập đến việc xác định số thuế phải nộp của HKD.
Theo đó, tác giả cho rằng: “Nghĩa vụ thuế là tổng hợp việc thực hiện nộp
thuế của một chủ thể nhất định cho nhà nước và tuân thủ các quy định khác liên
quan hoạt động quản lý thuế của nhà nước để nhằm đảm bảo cho việc thực hiện
đúng việc nộp thuế mà chủ thể này phải nộp cho nhà nước”. Bởi lẽ, bên cạnh
quy định bằng các loại thuế cụ thể với các nội dung: người nộp thuế, căn cứ tính
thuế và các trường hợp miễn giảm thuế để xác định những chủ thể nhất định nào
phải nộp thuế cho nhà nước và nộp với số tiền thuế là bao nhiêu thì pháp luật cịn
phải quy định các chủ thể này thực hiện các nghĩa vụ khác có liên quan để nhà
nước quản lý việc nộp thuế của các chủ thể này. Ví dụ như pháp luật cần phải
xác định các nghĩa vụ kê khai thuế, nộp quyết toán thuế với cơ quan quản lý
thuế. Nói cách khác, nghĩa vụ thuế của một chủ thể với nhà nước là bao gồm
việc thực hiện các nghĩa vụ nộp số tiền thuế theo các luật thuế nội dung (thuế
GTGT, thuế thu nhập…) và kể cả các nghĩa vụ thuế về hình thức phục vụ cho
công tác quản lý như: kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, chịu sự thanh tra thuế.
Theo cách tiếp cập trên thì trong luận văn này, nghĩa vụ thuế của HKD sẽ
được hiểu “là tổng hợp việc HKD tiến hành thực hiện nộp thuế cho nhà nước và
tuân thủ các quy định khác liên quan hoạt động quản lý thuế của nhà nước để
nhằm đảm bảo cho việc thực hiện đúng hoạt động nộp thuế mà HKD phải nộp
cho nhà nước”.
17

18

Theo truy cập ngày 10/03/2022.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật thuế, NXB Hồng Đức, tr. 71.


16
Với cách hiểu trên, nghĩa vụ thuế của HKD sẽ có những đặc điểm sau:
Một là, nghĩa vụ thuế của HKD sẽ được quy định không chỉ trong các
luật thuế cụ thể mà còn được quy định trong pháp luật quản lý thuế. Trong đó,
các luật thuế nội dung sẽ quy định về các yếu tố để xác định nghĩa vụ nộp thuế
của người nộp thuế như đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người
nộp thuế, căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế, miễn, giảm thuế của loại
thuế cụ thể. Bên cạnh đó, pháp luật cũng xác định các nghĩa vụ thuế khác để
phục vụ cho công tác quản lý thuế của nhà nước (thuộc về luật hình thức hay
cịn gọi là pháp luật quản lý thuế) như: nghĩa vụ đăng ký, kê khai thuế, nộp
thuế, quyêt toán thuế, chịu sự thanh tra thuế. Việc tồn tại cả nội dung về các
loại thuế lẫn quy định về hoạt động quản lý thuế trong quy định về nghĩa vụ
thuế của HKD là điều tất yếu. Bởi lẽ để thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế thì
HKD phải xác định được chính xác các loại thuế mà mình có nghĩa vụ phải nộp
cho nhà nước cũng như cần phản xác định chính xác những nghĩa vụ thuế khác
theo pháp luật quản lý thuế. Trong đó, việc xác định chính xác các loại thuế và
số tiền thuế nộp của từng loại để nhằm đảm bảo HKD thực hiện nghĩa vụ tài
chính với tư cách là một chủ thể có trách nhiệm trong hoạt động đóng góp vào
ngân sách nhà nước, đóng vai trị của người thụ hưởng những lợi ích nhất định
do nhà nước cung cấp nên phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho nhà nước
một khoản giá trị nhất định19. Bên cạnh đó, HKD phải thực hiện các nghĩa vụ
thuế khác nhằm giúp cho quản lý thuế của nhà nước được hiệu quả. Thông qua
việc HKD nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ thuế trong hoạt động quản lý thuế, cơ
quan quản lý thuế có cơ sở so sánh, đối chiếu với hoạt động thực tế của HKD

để từ đó xác định xem HKD đã và đang kê khai, nộp thuế có chính xác theo
quy định pháp luật.
Hai là, HKD phải tuân thủ theo các nghĩa vụ thuế đã được quy định. Bởi
lẽ các HKD về bản chất cũng là một chủ thể kinh doanh tham gia vào nền kinh
tế. Do đó, các chủ thể này cũng tạo ra lợi nhuận, tạo thêm GTGT của hàng hóa,
tạo ra những hàng hóa, dịch vụ xa xỉ, khơng thật cần thiết cho cuộc sống, khi sử
dụng ảnh hưởng xấu đến con người.Do vậy, về bản chất, các chủ thể này nếu
Phan Thị Thành Dương (2005), “Một số vấn đề về quyền của đối tượng nộp thuế”, Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 01, tr. 33.
19


17
thỏa mãn các điều kiện để trở thành người nộp thuế của các loại thuế nào thì họ
phải thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của loại thuế đó. Các vấn đề về
khơng có con dấu, khơng có tài sản độc lập, khơng có tư cách pháp nhân chỉ là
một trong các yếu tố làm cho các căn cứ tính thuế cho đối tượng này có thể khác
hơn so với các doanh nghiệp, các pháp nhân chứ không làm mất đi nghĩa vụ thuế
của các chủ thể này trong pháp luật thuế. Theo đó, các nghĩa vụ thuế của HKD
thường được thiết kế cách tính đơn giản, dễ dàng để tạo điều kiện thuận lợi cho
HKD. Tương ứng đó, các nghãi vụ thuế liên quan đến công tác quản lý thuế
cũng cần đơn giản và gọn nhẹ bởi bản chất đây là nhóm có số lượng đơng nhưng
mức đóng góp vào ngân sách nhà nước khơng cao, họ có những hạn chế về kiến
thức, về quản trị. Do đó, nếu đưa các quy định quản lý thuế quá phức tạp làm họ
rối và có thể họ sẽ chây ỳ trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế vì cảm giác quá
phức tạp, khó khăn.
Ba là, việc vi phạm các nghĩa vụ thuế của HKD sẽ làm cho các chủ thể
này phải gánh chịu những chế tài tương thích với hành vi vi phạm. Các nghĩa vụ
thuế của người nộp thuế nói chung và HKD nói riêng đã được nhà nước xác lập
nhằm đảm bảo cho việc thu thuế hợp lý và công bằng giữa các thành phần trong

nền kinh tế, giữa các hoạt động trong xã hội. Theo đó, HKD phải tuân thủ và
thực hiện các nghĩa vụ này nhằm đảm bảo cho nguồn thu ngân sách được thực
hiện theo đúng dự toán nhà nước. Mọi hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế sẽ là nguy
cơ dẫn đến hoạt động thu thuế chưa chính xác, chưa đảm bảo cơng bằng và phá
vỡ đi những ưu điểm của các quy định về nghĩa vụ thuế nói chung và nghĩa vụ
thuế của HKD nói riêng. Khi đó, các trật tự đã được nhà nước thiết lập và điều
chỉnh thông qua các quy phạm pháp luật khơng được đảm bảo. Vì vậy, nhà nước
sẽ cần các chế tài để xử lý đối với các hành vi không tuân thủ theo các quy tắc
xử sự chung của nhà nước. Theo đó, tùy the mức độ vi phạm của hành vi vi
phạm, mức nguy hiểm cho xã hội, hệ quả của nó ảnh hưởng như thế nào đến việc
thu nộp thuế, việc thu và sử dụng ngân sách nhà nước mà nhà nước sẽ thiết kế
các chế tài phù hợp. Thơng thường có hai mức chế tài đối với các hành vi vi
phạm nói chung cũng như hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế của HKD nói riêng. Đó
là: i) nếu hành vi đủ cấu thành tội phạm theo Điều 188 (Tội buôn lậu), Điều 200
(Tội trốn thuế) theo Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm


18
2015 của Quốc hội thì sẽ bị xử lý hình sự; ii) các hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế
khác khơng đủ cấu thành tội phạm thì xử lý hành chính theo văn bản xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hóa đơn, hải quan.Việc quy định hai mức
xử lý khác nhau để tương ứng với từng mức độ vi phạm trong việc thực hiện
nghĩa vụ thuế của HKD. Bên cạnh đó, các hành vi vi phạm nghĩa vụ thuế của
HKD còn phải gánh chịu thêm các biện pháp bổ sung khác như: buộc nộp hồ sơ
thay đổi nội dung đăng ký thuế theo quy định, buộc nộp đủ số tiền chậm nộp tiền
thuế vào ngân sách nhà, buộc nộp hồ sơ khai thuế, phụ lục kèm theo hồ sơ khai
thuế, buộc cung cấp thông tin, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định
nghĩa vụ thuế, buộc điều chỉnh lại số lỗ, số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ
chuyển kỳ sau (nếu có).20
Bốn là, cơ quan quản lý nghĩa vụ thuế của HKD thường là cơ quan thuế.

Hiện nay, cơ quan quản lý thuế gồm: Cơ quan thuế và cơ quan hải quan21. Trong
hai cơ quan đó thì HKD tường chịu sự quản lý thuế của cơ quan thuế nhiều hơn
sự quản lý của cơ quan hải quan. Có việc này xảy ra vì thường HKD tiến hành
kinh doanh nhỏ, lẻ nên quy mô vốn khơng lớn, hàng hóa, dịch vụ tạo ra khơng
nhiều nên nhu cầu nhập khẩu hàng hóa cũng như xuất khẩu hàng hóa hầu như
khơng có nhiều. Chính vì vậy, nên các loại thuế mà HKD nộp cho nhà nước
thông thường là thuế TNCN, thuế GTGT, trong một số trường hợp có thể có thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường. Đây chủ yếu là các loại thuế nội địa do
cơ quan thuế quản lý. Tuy nhiên điều đó cũng khơng có nghĩa là HKD chủ chịu
sự quản lý thuế của cơ quan thuế. Vì trong một số trường hợp, HKD cũng có
nhập khẩu nguyên vật liệu, xuất khẩu hàng hóa ra nước ngồi nhất là các HKD
hàng nơng sản.
Tóm lại, nghĩa vụ thuế của HKD khơng chỉ đơn giản là việc quản lý thuế
dưới góc nhìn của người quản lý mà còn phải bao hàm cả các quy định điều
chỉnh về thuế nội dung, loại thuế, căn cứ xác định số thuế phải nộp. Vì HKD có
những đặc thù nhất định về quy mô, cơ cấu quản lý, doanh số, quản lý lượng
hàng hóa, dịch vụ mua vào bán ra nên cần và rất cần các quy định có những đặc
thù nhất định cho phù hợp với mơ hình kinh doanh này.
20
21

Điều 11-16 Nghị định số 125/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn.
Khoản 2 Điều 2 Luật quản lý thuế số 38/2019/QH14.


19
1.2.2. Các nguyên tắc áp dụng trong việc xác định nghĩa vụ thuế của hộ
kinh doanh
Về nguyên tắc chung, việc xác định nghĩa vụ thuế của HKD vẫn tuân thủ
theo các nguyên tắc của việc xây dựng pháp luật thuế như:

Thứ nhất, việc xác định nghĩa vụ thuế HKD phải đảm bảo tính đảm bảo
cơng bằng.
Cơng bằng là một ngun tắc đóng vai trị rất quan trọng khơng chỉ trong
việc tổ chức xã hội, nhà nước mà còn ảnh hưởng rất lớn cho việc họach định
chính sách thuế, phúc lợi xã hội; trong xây dựng pháp luật thuế. Tuy nhiên khi
đề cập đến nguyên tắc công bằng trong thuế cũng đã có nhiều quan điểm khác
nhau khi đưa ra cách hiểu về nguyên tắc công bằng do cách tiếp cận ngun tắc
cơng bằng của từng nhóm là khác nhau như:
Một là dựa trên quan điểm cho rằng quan hệ giữa người nộp thuế, trả thuế
và Chính phủ, nhà nước là quan hệ trao đổi22. Theo đó, nhà nước cung cấp hàng
hóa, dịch vụ cho người trả thuế và người trả thuế phải trả tiền cho nhà nước. Lúc
này sự công bằng diễn ra giữa sự tương quan về lợi ích của cái mà người trả thuế
phải chịu và lợi ích mà người trả thuế được nhận. Cách tiếp cận này đã mặc
nhiên thừa nhận có sự đối giá và hồn trả trực tiếp cho người trả thuế trong quan
hệ thuế. Điều này đi ngược lại với bản chất của thuế đã được đa số các học giả
cơng nhận23.
Hai là, nhóm tiếp cận sự công bằng trong thuế dựa trên khả năng chi trả của
đối tượng trả thuế24. Những người theo quan điểm này cho rằng những hoạt động
cung cấp phúc lợi xã hội, quyền và lợi ích cho các cá nhân, tổ chức trong xã hội là
xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Các quyền và lợi ích này khơng
gắn liền và khơng là hệ quả trực tiếp từ số thuế mà đối tượng nộp thuế đã nộp cho
nhà nước. Việc phân phối gánh nặng của thuế sẽ được nhà nước quyết định theo
nguyên tắc công bằng – nghĩa là việc nộp thuế của đối tượng nộp thuế cần phải
được tiến hành và xác định phù hợp với khả năng chi trả của họ.
Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh và Viện nghiên cứu tài chính (2001), Giáo trình Thuế,
GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền, TS Nguyễn Ngọc Thanh (Chủ biên), NXB Thống kê, Hồ Chí Minh, tr. 15.
23
Phan Phương Nam (2007), Ngun tắc cơng bằng trong pháp luật thuế TNCN, Luận văn Thạc sỹ, Đại học
Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 26, 27.
24

Professor David W. Williams (1996), Principle of tax law, Swett & Maxwell
22


×