ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
BÀI TẬP LỚN MƠN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊNIN
ĐỀ TÀI
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN
KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP: L14 – NHÓM M - HK211
GVHD: NGUYỄN TRUNG HIẾU
SINH VIÊN THỰC HIỆN
STT
MSSV
HỌ
TÊN
% ĐIỂM
BTL
1
2
3
4
5
1912895
2013111
2010806
1915141
1912453
Nguyễn Bảo
Lê Thị Ngọc
Đỗ Nguyễn Kim
Mai Tuấn
Phạm Tồn Văn
Duy
Hân
Yến
Thành
Võ
100%
100%
100%
100%
100%
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
ĐIỂM
BTL
9.0
9.0
9.0
9.0
9.0
GHI CHÚ
Nhóm trưởng
STT
MSSV
Họ và tên
1
1912895 Nguyễn Bảo Duy
2
2013111 Lê Thị Ngọc Hân
3
2010806 Đỗ Nguyễn Kim Yến
4
1915141 Mai Tuấn Thành
5
1912453
Phạm Toàn Văn Võ
Nhiệm vụ
được phân
cơng
Tổng hợp+mở
đầu+kết luận
2.1+2.3+chỉnh
hình thức
1.1+1.3+2.2
%
Điểm
BTL
100%
Điểm
BTL
9.0
100% 9.0
100%
9.0
1.1+1.2
100% 9.0
2.1+2.2
100%
CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ thay thế
KTTN
Kinh tế như nhân
TPKT
Thành phần kinh tế
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
Ký tên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................................ 1
2.Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................. 1
3. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................... 1
4. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................. 1
5.Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 2
6. Kết cấu của đề tài....................................................................................................... 2
Chương 1: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
VIỆT NAM ..................................................................................................................... 3
1.1. Các khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ....................................................................................................................... 3
1.2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tư nhân định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam .............................................................................. 5
1.3. Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ....................................................................................................................... 8
1.3.1. Về mục tiêu .................................................................................................... 8
1.3.2. Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế ..................................................... 9
1.3.3. Về quan hệ quản lý nền kinh tế ................................................................... 11
1.3.4. Về quan hệ phân phối ................................................................................. 12
1.3.5. Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội................. 13
Chương 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI
VIỆT NAM ................................................................................................................... 16
2.1. Các khái niệm ........................................................................................................ 16
2.1.1. Thành phần kinh tế ..................................................................................... 16
2.1.2. Thành phần kinh tế tư nhân ........................................................................ 16
2.1.3. Sở hữu tư nhân ............................................................................................ 16
2.2. Thực trạng phát triển của thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam .....17
2.2.1. Những thành tựu của nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam và nguyên nhân ..... 17
2.2.2. Những hạn chế của nền kinh tế tư nhân tại Việt Nam và nguyên nhân ...... 24
2.3. Những định hướng và kiến nghị phát triển thành phần kinh tế tư nhân
ở Việt Nam ..........................................................................................................28
2.3.1. Những định hướng nhằm phát triển nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam......... 28
2.3.2. Những kiến nghị để phát triển nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam ................. 29
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 31
TÀI LIỆU THAM KHẢO. .......................................................................................... 32
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay, vấn đề hội nhập nền kinh tế thế giới được
Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Việt Nam đã và đang có những bước tiến
vững chắc trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập
cùng thế giới bằng việc phát huy nội lực đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngồi
thơng qua việc phát huy sức mạnh của các TPKT.
Trong đó phải kể đến sự đóng góp quan trọng của thành phần KTTN trong việc
phát triển nền kinh tế. Việc xác định đúng vai trò của KTTN và con đường đúng đắn
cho sự phát triển của TPKT này là việc làm cấp thiết hiện nay, bởi vì hiện nay tồn cầu
hóa là một xu thế phát triển tất yếu trong tiến trình phát triển của nhân loại, để khơng
bị cuốn vào vịng xốy đó một cách thụ động thì chúng ta phải biết phát huy sức mạnh
của các TPKT trong đó có thành phần KTTN, nó là một mắt xích quan trọng trong
việc nối kết nền kinh tế thị trường Việt Nam với nền kinh tế thị trường thế giới.Nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Đối tượng nghiên cứu:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
3. Phạm vi nghiên cứu:
Nền KTTN ở Việt Nam từ 2010 cho đến nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu:
Thứ nhất, nêu ra tính khác quan của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở
Việt Nam.
Thứ hai, nêu đặc trưng của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về mục tiêu,
về quan hệ sở hữu và TPKT, về quan hệ quản lý nền kinh tế
Thứ ba, nêu ra thực trạng phát triển của nền KTTN về thành tựu và những hạn
chế đồng thời nêu ra nguyên nhân dẫn đến.
Thứ tư, đưa ra những định hướng & kiến nghị để phát triển KTTN, đưa ra những
hoạch định, giải pháp để phát triển khu vực KTTN.
1
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để giải quyết các vấn đề trên ta đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và
phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Ngồi ra đề tài còn vận dụng các phương pháp
khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn dịch và hệ thống hóa.
6. Kết cấu của đề tài:
Ngồi phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 02 chương:
Chương 1: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Chương 2: Sự phát triển của thành phần KTTN ở Việt Nam hiện nay.
2
CHƯƠNG 1: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM
1.1 Các khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, mà trong đó sản phẩm sản
xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng
hố khơng phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà
nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực
hiện trên thị trường, thơng qua q trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ
phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là
giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản
xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng
hóa, tất nhiên, chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các
chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, khơng thể nói kinh tế hàng hóa là sản phẩm
của một chế độ kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá
trình phát triển của lực lượng sản xuất xã hội lồi người, nó xuất hiện và tồn tại trong
nhiều phương thức sản xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
Trong quản lý và điều hành đất nước, bất cứ quốc gia - dân tộc nào cũng lựa
chọn và có quyền lựa chọn ra một mơ hình quản lý, phát triển kinh tế - xã hội phù hợp
với đặc điểm của đất nước mình. Kể từ khi thành lập nước đến nay, Việt Nam ta đã áp
dụng và thực thi hai mơ hình phát triển kinh tế cơ bản: mơ hình kế hoạch hóa tập trung
và mơ hình phát triển kinh tế thị trường. Mơ hình xây dựng và phát triển kinh tế theo
phương thức vận hành của nền kinh tế kế hoạch (hay còn gọi là nền kinh tế kế hoạch
tập trung, hoặc nền kinh tế chỉ huy) đặc biệt có ưu thế trong điều kiện đất nước có
chiến tranh, vì có thể huy động tối đa các nguồn lực kinh tế, có tính thống nhất cao về
hệ tư tưởng, ý chí để tập trung chiến đấu, sản xuất. Tuy nhiên, những hạn chế về quan
liêu, triệt tiêu sáng tạo, cạnh tranh, làm cho mơ hình này khơng có sức sống trong thời
bình.
3
Nhận thức rõ mơ hình kế hoạch hóa tập trung cịn nhiều hạn chế và khơng cịn
phù hợp, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn mơ hình phát triển kinh tế thị trường
trong việc xây dựng và phát triển đất nước, một mơ hình vốn là kết quả của nền văn
minh nhân loại đã đạt đến và là con đường tất yếu mà các dân tộc, dù dài hay ngắn,
buộc phải đi theo để phát triển. Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội - một thời kỳ quá độ đang hướng đến mục tiêu xã hội XHCN và cần một quá trình
phấn đấu và phát triển lâu dài, Việt Nam mới có thể xây dựng được mơ hình chủ nghĩa
xã hội hồn chỉnh theo đúng nghĩa của nó. Để phù hợp và tương thích với hoàn cảnh
và đặc điểm của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lựa chọn xây dựng mơ hình
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mô hình này được Đảng Cộng sản
Việt Nam sáng tạo và thực hiện xây dựng từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay và
tên gọi này chính thức được dùng từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001). Đối với Việt
Nam, mơ hình này có ý nghĩa quyết định đến tương lai đất nước và vì vậy, tại Đại hội
XI, Đảng ta coi đây là một trong ba đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm
2011 - 2020, nhằm đổi mới mơ hình tăng trưởng và chủ động hội nhập quốc tế.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo các quy luật
của thị trường đồng thời góp phần hướng tới từng bước xác lập một xã hội mà ở đó
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; có sự điều tiết của Nhà nước do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Hiện nay, có quốc gia dân rất giàu nhưng nước lại chưa mạnh, xã hội thiếu văn
minh; cịn có những quốc gia nước rất mạnh, dân chủ nhưng lại thiếu đi công bằng.
Thế nên, để xây dựng một nền kinh tế toàn diện gồm cả dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh thế nên ta cịn cần phải phấn đấu mới có thể đạt được
một cách đầy đủ trên hiện thực xã hội. Do dó, định hướng XHCN thực chất là hướng
tới các giá trị cốt lõi của xã hội mới ấy. Nền kinh tế thị trường mà trong các hoạt động
kinh tế của các chủ thể, hướng tới góp phần xác lập được các giá trị xã hội thực tế với
hệ giá trị toàn diện như vậy là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Để đạt được hệ giá trị như vậy, nền kinh tế thị trường Việt Nam, cũng như các
nền kinh tế thị trường khác, cần có vai trị điều tiết của nhà nước, nhưng đối với Việt
4
Nam, nhà nước phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng
Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền do lịch sử khách quan quy định.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phải bao hàm đầy đủ các đặc
trưng chung vốn có của kinh tế thị trường nói chung, vừa có những đặc trưng riêng của
Việt Nam. Đây là kiểu mơ hình kinh tế thị trường phù hợp với đặc trưng lịch sử, trình
độ phát triển, hồn cảnh chính trị - xã hội của Việt Nam. Muốn thành công phải do
nhân dân nỗ lực xây dựng mới có thể đạt được.
1.2. Tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là tất yếu ở Việt Nam xuất phát
từ những lý do cơ bản sau:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là phù hợp với xu
hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện nay.
+ Như đã chỉ ra, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở
trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa
tự hình thành. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới
trình độ nền kinh tế thị trường. Đó là tính quy luật. Ở Việt Nam, các điều kiện cho sự
hình thành và phát triển kinh tế kinh tế thị trường đang tồn tại khách quan. Do đó, sự
hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
+ Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là
mong muốn chung của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc định hướng tới xác lập
những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong
phát triển. Song trong sự tồn tại hiện thực sẽ khơng thể có một nền kinh tế thị trường
trừu tượng, chung chung cho mọi hình thái kinh tế - xã hội, mọi quốc gia, dân tộc.
+ Trong lịch sử đã có kinh tế hàng hóa giản đơn kiểu chiếm hữu nơ lệ và
phong kiến hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nó tồn tại trong mỗi hình thái kinh
tế - xã hội cụ thể, gắn bó hữu cơ và chịu sự chi phối của các quan hệ sản xuất thống trị
trong xã hội đó. Ngay như trong cùng một chế độ tư bản chủ nghĩa, kinh tế thị trường
của mỗi quốc gia, dân tộc cũng khác nhau, mang đặc tính khác nhau.
5
+ Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt
tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển, nhưng những
mâu thuẫn vốn có của nó khơng thể nào khắc phục được trong lịng xã hội tư bản, nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tự phủ định, tự tiến hóa tạo ra
những điều kiện cần và đủ cho một cuộc cách mạng xã hội - cách mạng XHCN.
+ Do vậy, nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì khơng chỉ dừng lại ở kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa. Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường
định hướng XHCN của Việt Nam là phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát
triển của dân tộc, sự lựa chọn đó khơng hề mâu thuẫn với tiến trình phát triển của đất
nước. Đây thực sự là bước đi, cách làm mới hiện nay của các dân tộc, quốc gia đang
trên con đường hướng tới xã hội XHCN.
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thúc đẩy
phát triển đối với Việt Nam.
+ Thực tiễn trên thế giới và Việt Nam cho thấy kinh tế thị trường là phương
thức phân bổ nguồn lực hiệu quả mà loài người đã đạt được so với các mơ hình kinh tế
phi thị trường. Kinh tế thị trường luôn là động lực thúc đây lực lượng sản xuất phát
triển nhanh và có hiệu quả. Dưới tác động của các quy luật thị trường nền kinh tế luôn
phát triển theo hướng năng động, kích thích tiến bộ kỹ thuật - cơng nghệ, nâng cao
năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá thành hạ. Xét trên góc độ đó, sự phát
triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
+ Do vậy, trong phát triển của Việt Nam cần phải phát triển kinh tế thị trường
để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh và có hiệu quả, thực hiện mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Tuy nhiên,
trong q trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật
của thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền XHCN.
Phát triến kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự lựa chọn cách làm, bước đi đúng
quy luật kinh tế khách quan để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng XHCN phù hợp với nguyện vọng mong
muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của người dân Việt Nam.
6
+ Trên thế giới có nhiều mơ hình kinh tế thị trường, nhưng nếu việc phát triển
mà dẫn tới tình trạng dân không giàu, nước không mạnh, thiếu dân chủ, kém văn minh
thì khơng quốc gia nào mong muốn. Cho nên, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để
hiện thực hóa khát vọng như vậy, việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng
tới những giá trị mới, do đó, là tất yếu khách quan.
+ Mặt khác, kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu
khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển. Bởi lẽ sự tồn tại hay
không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan
sinh ra nó quy định. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam những điều
kiện cho sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa như: phân cơng lao động xã hội,
các hình thức khác nhau của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất khơng hề mất đi thì
việc sản xuất và phân phối sản phẩm vẫn phải được thực hiện thông qua thị trường.
+ Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ phá vỡ tính chất tự cấp,
tự túc, lạc hậu của nền kinh tế; đẩy mạnh phân công lao động xã hội, phát triển ngành
nghề; tạo việc làm cho người lao động; thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh
mẽ, khuyến khích ứng dụng kỹ thuật công nghệ mới bảo đảm tăng năng suất lao động,
tăng số lượng, chất lượng và chủng loại hàng hóa, dịch vụ góp phần từng bước cải
thiện và nâng cao đời sống của nhân dân; thúc đẩy tích tụ và tập trung sản xuất, mở
rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng miền trong nước và với nước ngồi; khuyến khích
tính năng động, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế; tạo cơ chế phân bổ và sử dụng
các nguồn lực xã hội một cách hợp lý, tiết kiệm...Điều này phù hợp với khát vọng của
người dân Việt Nam.
Bốn là, Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện
chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn cịn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa
ở nước ta là một tất yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất
hiện và tồn tại là:
+ Phân cơng lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng
hố chẳng những khơng mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và
chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng
7
phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa
dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
+ Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn
dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản
tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng,
nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
+ TPKT nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ
trong sản xuất, kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế cịn có sự
khác nhau về trình độ kỹ thuật - cơng nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí
sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
+ Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc
biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì
mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra
trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây phải theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, khi kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan, thì
khơng thể lấy ý chí chủ quan mà xố bỏ nó được.
1.3 Đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.3.1. Về mục tiêu:
Về hệ thống mục tiêu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước
ta, phát triển nền kinh tế trường định hướng XHCN ở nước ta nhằm mục đích phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, thực hiện: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Đây là sự khác biệt về mục tiêu giữa kinh tế thị trường định hướng
XHCN với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Để thực hiện được mục tiêu trong phát triển của lĩnh vực này, phải tạo điều kiện
để bứt phá sức mạnh của sản lượng và không ngừng phát triển lực lượng sản xuất; phát
triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn với xây dựng hệ thống sản xuất mới XHCN phù
hợp trên cả ba mặt: chủ sở hữu, quản lý và phân phối; phát triển kinh tế thị trường để
từng bước xây dựng hạ tầng kinh tế cho XHCN; cải thiện và nâng cao đời sống nhân
dân. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, quá trình phát
8
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam gắn với xây dựng hệ thống sản xuất, phù hợp nhằm
ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa xã hội.
1.3.2 Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế:
Sở hữu là một phạm trù cơ bản, chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản
xuất và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong
một điều kiện lịch sử nhất định. Sở hữu hàm ý trong đó bao gồm có chủ thể sở hữu,
đối tượng sở hữu, lợi ích từ đối tượng sở hữu.
Trong sự phát triển của các xã hội khác nhau, đối tượng sở hữu trong các nấc
thang phát triển có thể là nơ lệ, có thể là ruộng đất, có thể là tư bản, có thể là trí tuệ.
Cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì đối tượng sở hữu
chuyển mạnh từ đối tượng sở hữu hữu hình là các tư liệu sản xuất sang đối tượng sở
hữu vô hình là tri thức của lồi người, là trí tuệ của con người, là trí tuệ nhân tạo, là
cơng nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, internet vạn vật, thông tin, dữ liệu
lớn (big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương
hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường.
Cơ sở sâu xa cho sự hình thành sở hữu trước tiên là từ quá trình sản xuất và tái
sản xuất xã hội. Trình độ phát triển của kinh tế xã hội đến đâu là phản ánh trình độ
phát triển của sở hữu tương ứng, cho nên sở hữu chịu sự quy định trực tiếp của trình
độ lực lượng sản xuất và trong đó xã hội ấy đang vận động
Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý:
+ Về nội dung kinh tế, sở hữu là điều kiện sản xuất, là lợi ích kinh tế mà chủ
sở hữu có thể được thụ hưởng khi xác định đối tượng sở hữu đó thuộc về mình trước
các quan hệ với người khác. Nếu không xác lập quan hệ sở hữu thì khơng có cơ sở đề
thực hiện lợi ích kinh tế, thế nên khi có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng
sở hữu, địa vị của các chủ thể sở hữu sẽ thay đổi trong đời sống xã hội hiện thực.
+ Về nội dung pháp lý, chủ sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất
pháp luật về quyền hạn hoặc nghĩa vụ của chủ sở hữu. Sở hữu luôn là vấn đề quan
trọng hàng đầu khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý nhà nước với quá trình phát
triển nói chung. Về mặt pháp lý, sở hữu giả định và đòi hỏi sự thừa nhận về mặt luật
9
pháp thì những lợi ích kinh tế mà chủ sở hữu được thụ hưởng sẽ không bị các chủ thể
khác phản đối. Khi đó việc thụ hưởng được coi là chính đáng và hợp pháp.
→ Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu thống nhất biện chứng
trong một chỉnh thể. Trong thực tế, việc thúc đẩy phát triển quan hệ sở hữu đều cần
chú ý tới cả khía cạnh pháp lý cũng như khía cạnh kinh tế của sở hữu. Nếu không xét
nội dung pháp lý, lợi ích - biểu hiện tập trung của nội dung kinh tế khơng được thực
hiện một cách hợp pháp. Cịn không xét tới nội dung kinh tế, nội dung pháp lý của sở
hữu chỉ mang giá trị về mặt hình thức.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một nền kinh tế nhiều thành
phần và có nhiều hình thức sở hữu. Trong đó:
+ Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
+ KTTN là động lực quan trọng
Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển một
nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các TPKT bình đẳng, hợp tác, cạnh
tranh cùng phát triển theo pháp luật, thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và
phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức
sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phù hợp với cơ chế thị trường. Chỉ có như vậy mới có thể khai thác được mọi nguồn
lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng to lớn của các TPKT với sự
phát triển chung của đất nước nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng
tăng của các tầng lớp nhân dân
Với vai trị của mình kinh tế nhà nước không đứng độc lập, tách rời mà ln có
mối quan hệ gắn bó hữu cơ với tồn bộ nền kinh tế và trong suốt cả quá trình phát
triển. Phần sở hữu nhà nước khơng chỉ có trong kinh tế nhà nước mà có thể được sử
dụng ở nhiều TPKT khác. Bằng thực lực của mình kinh tế nhà nước phải là đòn bẩy để
thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững và giải quyết các vấn đề xã hội; mở đường,
hướng dẫn, hỗ trợ các TPKT khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước
thực hiện chức năng điều tiết, quản lý nền kinh tế. Các doanh nghiệp nhà nước chỉ đầu
tư vào những ngành kinh tế then chốt vừa chi phối được nền kinh tế vừa đảm bảo được
an ninh, quốc phòng và phục vụ lợi ích cơng cộng...Với ý nghĩa đó, phát triển kinh tế
10
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không chỉ là phát triển lực lượng sản xuất,
mà còn là từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp theo định hướng
XHCN.
1.3.3 Về quan hệ quản lý nền kinh tế:
Trong nền KTTT hiện đại ở mọi quốc gia trên thế giới, vai trò điều hành của nhà
nước là một bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế thị trường; được xác định như một
“trọng tài” để điều khiển và giám sát sự phát triển của nền kinh tế. Nhà nước phải can
thiệp vào quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhằm khắc phục những hạn chế của
KTTT và định hướng chúng theo mục tiêu đã định ra. Tuy nhiên, quan hệ quản lý và
cơ chế quản lý trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có đặc trưng riêng đó
là: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế quản lý là nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ
và giám sát của nhân dân.
Đảng lãnh đạo nền KTTT định hướng XHCN thông qua cương lĩnh, đường lối
phát triển kinh tế - xã hội và các chủ trương, quyết sách lớn trong từng thời kỳ phát
triển của đất nước, là yếu tố quan trọng bảo đảm tính định hướng XHCN của nền
KTTT. Đối với nước ta, trong thời gian qua, Chính phủ đã chủ động, tích cực đẩy
mạnh cải cách hành chính. Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 tập
trung vào 6 nội dung, đó là: Cải cách thể chế; Cải cách thủ tục hành chính; Cải cách tổ
chức bộ máy hành chính nhà nước; Cải cách chế độ cơng vụ; Cải cách tài chính cơng
và Xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Trọng tâm cải cách hành
chính 10 năm tới là: Cải cách thể chế, trong đó tập trung xây dựng, hồn thiện hệ
thống thể chế của nền hành chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp
luật; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có năng lực,
phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự phát triển đất nước, trong đó, chú trọng cải
cách chính sách tiền lương; xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số.
Nhà nước cũng đẩy mạnh ngoại giao kinh tế, thiết lập, phát triển và mở rộng các
mối quan hệ quốc tế trên cơ sở các hiệp định kinh tế song phương và đa phương giữa
Việt Nam với các nước, khu vực và các tổ chức kinh tế quốc tế. Đây là tiền đề để tạo
điều kiện, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước vươn ra các thị trường nước ngoài,
tham gia vào hệ thống sản xuất, kinh doanh, phân phối toàn cầu của nền kinh tế thế
11
giới. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ cấu tổ chức Chính phủ, ngồi các bộ thuộc
khối đối ngoại, an ninh, quốc phịng, nội chính mà nước nào cũng có thì các bộ thuộc
khối kinh tế cần được tổ chức, sắp xếp lại vừa thích hợp với thực tế Việt Nam, vừa có
sự tương thích với các nước đối tác để phù hợp với điều kiện hội nhập. Bên cạnh đó
cũng tăng cường các cơ quan hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô, cải thiện sự phối
hợp giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, bảo đảm các số
liệu về thông tin kinh tế được thu thập đầy đủ và có chất lượng để phục vụ quá trình ra
quyết định, tăng khả năng phản ứng nhanh và nhất quán của Chính phủ với các điều
kiện kinh tế thay đổi.
Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN thông qua pháp luật, các chiến
lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế chính sách cùng các công cụ kinh tế trên cơ sở
tôn trọng những nguyên tắc của thị trường, phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội
XHCN ở Việt Nam. Nhà nước chăm lo xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, tạo môi trường để phát triển đồng bộ các loại thị trường,
khuyến khích các TPKT phát huy mọi nguồn lực đề mở mang kinh doanh, cạnh tranh
bình đẳng, lành mạnh, có trật tự, kỷ cương. Cùng với đó thơng qua cơ chế, chính sách
và các cơng cụ quản lý kinh tế, nhà nước tác động vào thị trường nhằm đảm bảo tính
bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô; khắc phục những khuyết tật của kinh tế thị
trường, khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng tài chính - tiền tệ,
thảm họa thiên tai, nhân tai...Nhà nước hỗ trợ thị trường trong nước khi cần thiết, hỗ
trợ các nhóm dân cư có thu nhập thấp, gặp rủi ro trong cuộc sống... nhằm giảm bớt sự
phân hóa giàu nghèo và sự bất bình đẳng trong xã hội mà kinh tế thị trường mang lại.
1.3.4 Về quan hệ phân phối:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thực hiện phân phối công bằng
các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện phát triển của mọi chủ
thể kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội mọi người đều giàu có,
đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thơng qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, phân phối cần phải tuân thủ
những nguyên tắc, quy luật vốn có của thị trường, như cạnh tranh, quy luật giá trị, tối
ưu hóa lợi nhuận. Việc phân phối được thực hiện dựa theo năng lực và đóng góp thơng
12
qua tín hiệu thị trường. Mỗi chủ thể thơng thái trong việc tận dụng cơ hội để tối ưu lợi
ích riêng như khả năng phân tích và dự báo các thông tin thị trường, đưa ra các quyết
định lựa chọn và đầu tư phù hợp, quản trị hiệu quả trong hoạt động, v.v... Trên cơ sở
đó, các chủ thể có thể “làm giàu hợp pháp”, linh hoạt sáng tạo làm những gì pháp luật
khơng cấm. Sự can thiệp của Nhà nước vào quan hệ phân phối có vai trị quan trọng
trong việc bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế nhiều thành phần với sự
đa dạng hóa các loại hình sở hữu và do vậy thích ứng với nó là các loại hình phân phối
khác nhau (cả đầu vào và đầu ra của các quá trình kinh tế). Thực hiện nhiều hình thức
phân phối (thực chất là thực hiện các lợi ích kinh tế) ở nước ta sẽ có tác dụng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, góp phần cải thiện và nâng đời sống cho mọi
tầng lớp nhân dân trong xã hội, đảm bảo công bằng xã hội trong sử dụng các nguồn
lực kinh tế và đóng góp của họ trong q trình lao động và sản xuất, kinh doanh.
Phân phối phù hợp tạo động lực, góp phần tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả chủ thể
kinh tế trong xã hội vươn lên, làm tăng tổng sản phẩm xã hội. Động lực kinh tế trở nên
mạnh mẽ hơn khi các quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ phân phối được hồn
thiện theo hướng minh bạch, công bằng giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị
trường. Quản lý quan hệ phân phối phù hợp đòi hỏi hệ thống quản lý hiệu lực cao của
Nhà nước pháp quyền. Phân phối các yếu tố cơ bản như tư liệu sản xuất, sức lao động
và tư liệu tiêu dùng đóng vai trị quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội. Việc
phân phối hợp lý các yếu tố không chỉ tiết kiệm nguồn lực kinh tế mà còn tạo động lực
lành mạnh thúc đẩy vận hành các khâu còn lại trở nên trơi chảy và hiệu quả hơn.
Trong các hình thức phân phối đó, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế,
phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh định hướng XHCN
của nền kinh tế thị trường.
1.3.5 Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội:
Việt Nam xác định nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam thực
hiện gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa - xã hội. Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
13
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đảng khẳng định chiến lược kinh tế xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người với tư cách từng
cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển, sử dụng tốt năng lực của mình. Chủ
trương đó của Đảng đã được Chính phủ thực hiện ngay trong từng chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường. Nhờ vậy,
sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Đây là đặc trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng XHCN
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bởi tiến bộ và công bằng xã hội vừa là điều kiện
đảm bảo cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản chất
tốt đẹp của chế độ XHCN mà chúng ta phải hiện thực hóa từng bước trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày nay, ở các nước tư bản chủ nghĩa người ta cũng đặt ra vấn đề giải quyết
công bằng xã hội. Song thực chất nó chỉ được đặt ra khi tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra bùng nổ các vấn đề xã hội, đe dọa
sự tồn vong của chế độ tư bản. Vì thế họ giải quyết vấn đề xã hội chỉ trong khn khổ
tính chất tư bản chủ nghĩa, cách thức đề duy trì sự phát triển của chế độ tư bản chủ
nghĩa. Còn trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải quyết công bằng xã
hội khơng chỉ là phương tiện đề duy trì sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà còn là
mục tiêu phải hiện thực hóa. Do đó, ở bất cứ giai đoạn nào, mỗi chính sách kinh tế
cũng đều phải hướng đến mục tiêu phát triển xã hội và mỗi chính sách xã hội cũng
phải nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; phải coi đầu tư cho các vấn đề xã
hội (giáo dục, văn hóa, y tế, thể dục, thể thao...) là đầu tư cho sự phát triển bền vững.
Khơng đợi tới khi có nền kinh tế phát triển cao mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội và càng không thể “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng
kinh tế đơn thuần.
Tuy nhiên, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khơng phải là cào bằng hay
kiểu bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra bất chấp chất lượng, hiệu quả
sản xuất kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung của nền
kinh tế. Cũng không dồn mọi nguồn lực cho phát triển xã hội vượt quá khả năng của
nền kinh tế. Ngày nay, thực hiện công bằng xã hội ở nước ta khơng chỉ dựa vào chính
14
sách điều tiết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã hội mà còn phải tạo ra những
điều kiện, tiền đề cần thiết để đảm bảo cho mọi người dân đều có cơ hội như nhau
trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như: phát triển giáo dục, khoa học, y tế,
văn hóa; thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc sức khỏe nhân
dân; trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo; mở rộng đối tượng thụ hưởng, nâng
mức hỗ trợ đối với người có cơng; hỗ trợ nhà ở, tạo việc làm, đào tạo nghề, hỗ trợ tín
dụng cho học sinh, sinh viên nghèo…. để họ có thể tự lo liệu và cải thiện đời sống của
bản thân, gia đình, đồng thời góp phần xây dựng đất nước, cần kết hợp sức mạnh của
cả nhà nước, cộng đồng và mỗi người dân trong các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội. Nhà nước vừa phải quan tâm đầu tư thỏa đáng vừa phải coi trọng huy động các
nguồn lực trong nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội và mỗi người.
→ Những vấn đề nêu trên đã khái quát rõ nét những vấn đề cơ bản của kinh tế thị
trường định hướng XHCN, trong đó vấn đề định hướng XHCN thể hiện ở năm điểm:
có sự quản lý của Nhà nước và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; phát huy vai trò
làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội; phát triển các quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp để thúc đẩy phát triển mạnh lực lượng sản xuất; và quan trọng nhất là:
thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Với
những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là sự kết hợp
những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với bản chất ưu việt của chủ nghĩa
xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện đại, văn minh. Tuy nhiên, kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát
triển tất sẽ còn bộc lộ nhiều yếu kém cần phải khắc phục và hoàn thiện.
15
CHƯƠNG 2: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN
TẠI VIỆT NAM
2.1. Các khái niệm:
2.1.1. Thành phần kinh tế:
TPKT là những khu vực kinh tế, những hình thức kinh tế dựa trên hình thức sở
hữu nhất định về tư liệu sản xuất, thích ứng với trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất.
Khi định nghĩa TPKT phải căn cứ vào quan hệ kinh tế, trước hết là quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất. TPKT liên quan đến mối quan hệ giữa người với người trong
việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Sở hữu tư liệu sản xuất được biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn khác nhau và là căn cứ trực tiếp để
xác định TPKT.
Các TPKT không tồn tại biệt lập mà có liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn
nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm nhiều TPKT: TPKT nhà nước,
TPKT tư nhân, TPKT tập thể, TPKT có vốn đầu tư nước ngồi
2.1.2. Thành phần kinh tế tư nhân:
KTTN là TPKT thuộc cơ cấu kinh tế của một quốc gia, được hình thành và phát
triển dựa trên sự sở hữu của tư nhân về tư liệu sản xuất cũng như lợi ích cá nhân.
TPKT tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Kinh tế
cá thể có nguồn thu nhập hoàn toàn dựa vào lao động và vốn của bản thân và gia đình,
cịn trong kinh tế tiểu chủ nguồn thu nhập vẫn chủ yếu dựa vào lao động và vốn của
bản thân và gia đình nhưng có thuê lao động.
Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản về tư liệu sản
xuất và sử dụng lao động làm thuê.
2.1.3 Sở hữu tư nhân:
Theo Điều 211 “Bộ luật dân sự 2015” quy định rõ: “Sở hữu tư nhân là sở hữu
của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của mình. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá
thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân”.
16
Sở hữu cá thể: Sở hữu đối với các tư liệu sản xuất, trong đó chủ sở hữu cùng thân
nhân của họ trực tiếp tác động lên tư liệu sản xuất trong q trình sản xuất. Phạm vi và
quy mơ tổ chức lao động, chiếm hữu tư liệu sản xuất có tính tự cung tự cấp, sản xuất
hàng hóa ở quy mô nhỏ
Sở hữu tiểu chủ: Sở hữu đối với các tư liệu sản xuất trong đó có sử dụng lao
động làm thuê với số lượng nhỏ hoặc theo thời vụ. Cần phải đăng ký kinh doanh và
việc sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu. Hình thức kinh doanh nhỏ, chưa đạt đến sự
phát triển về mặt quy mô như tư liệu sản xuất, vốn nên không được coi là tư bản tư
nhân.
Sở hữu tư bản tư nhân: Sở hữu đối với tư liệu sản xuất trong đó phần lớn sử dụng
nhân công lao động làm thuê. Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của từng cá nhân về
tư liệu sinh hoạt, tiêu dùng và những tư liệu sản xuất nhằm đáp ứng những nhu cầu vật
chất và tinh thần của cá nhân. Chủ tư nhân phải được cấp chứng nhận đăng ký kinh
doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật về sản xuất kinh doanh của mình. Quyền sở
hữu của cá nhân đối với tài sản được phát sinh không hạn chế về số lượng và giá trị
của tài sản thuộc sở hữu tư nhân. Hình thức sở hữu với quy mơ lớn, khơng bị hạn chế
về vốn, ngành nghề.
2.2. Thực trạng phát triển của thành phần kinh kinh tế tư nhân ở Việt Nam
2.2.1. Những thành tựu đạt được của nền kinh tế tư nhân ở Việt Nam và nguyên
nhân:
2.2.1.1 Những thành tựu đạt được của nền kinh tế ở Việt Nam:
Trong những năm gần đây, thành phần KTTN trở thành một “lực kéo” quan
trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thành phần KTTN thời gian qua đã phát triển
không ngừng nghỉ, ngày càng khẳng định được vai trò đối với sự phát triển và đổi mới
của nền kinh tế - xã hội của đất nước. Thành phần KTTN đang tạo ra 40% GDP, 30%
ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động cả nước1. Những con số
nêu trên đã chứng minh được, thành phần KTTN đã và đang trở thành mũi nhọn trong
việc phát triển nền kinh tế của đất nước.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định, sự phát triển mạnh mẽ của thành phần
KTTN về số lượng, chất lượng thực sự đã trở thành một động lực quan trọng trong
phát triển kinh tế. Theo tính tốn, nếu đầu tư tư nhân (chưa tính đến hộ kinh doanh cá
1
Số liệu từ Kinh tế tư nhân - nguồn động lực của nền kinh tế - trang web
17
thể) tăng 1% sẽ giúp GDP của Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm khoảng 0,15% 2.
Thực tiễn trong 35 năm đổi mới của đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, KTTN đã
phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy
động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, nâng cao đời
sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an sinh
xã hội của đất nước.
Đảng ln khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân thành lập
các tập đồn lớn về nhiều lĩnh vực góp phần phát triển khơng chỉ riêng về kinh tế mà
cịn về các lĩnh vực công nghệ, khoa học. Đây là một thông điệp vô cùng quan trọng
làm khơi dậy khát vọng làm giàu, cống hiến của toàn xã hội. Trong những năm gần
đây, trào lưu khởi nghiệp được lan tỏa rộng toàn xã hội, tạo động lực cho các doanh
nghiệp sáng tạo, phát triển các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường tạo trong sự
năng động và đổi mới liên tục của nền kinh tế. Sự lớn mạnh của các doanh nghiệp góp
phần rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế cả nước. Trong số đó, rất nhiều doanh
nghiệp tư như đã trở thành những “người tiên phong” trong đổi mới sáng tạo, ứng
dụng khoa học – công nghệ trong phát triển kinh tế của đất nước. Khảo sát trong 5
năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam được thế giới biết đến qua những tên tuổi các tập
đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group, T&T Group, Thaco, Vietjet,… Nhiều doanh
nghiệp tư nhân đạt kim ngạch xuất khẩu hàng triệu USD, đóng góp quan trọng vào
tăng trưởng, thu ngân sách và giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh, xã hội. Thống kê
cho thấy, 29 doanh nghiệp Việt Nam đã có giá trị vốn hóa trên trường chứng khoán
vượt con số 1 tỷ USD3. Các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần vào việc tăng sức cạnh
tranh của Việt Nam trên trường quốc tế. Các sản phẩm mang đậm tính sáng tạo và lao
động của con người Việt Nam đã để lại trải nghiệm vô cùng tốt với người tiêu dùng
trên thế giới chứng tỏ những sản phẩm tạo ra từ bàn tay người Việt hoàn tồn có đủ
sức cạnh tranh với thế giới qua đó hình ảnh của đất nước Việt Nam trong mắt bạn bè
quốc tế ngày càng được nâng cao.
2
Số liệu từ Kinh tế tư nhân - nguồn động lực của nền kinh tế - trang web
3
Số liệu từ Kinh tế tư nhân - “Lực kéo quan trọng” của kinh tế Việt Nam thời hậu COVID-19 - trang web:
18
Sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng cũng như thành phần KTTN
nói chung giúp thúc đẩy khơng chỉ riêng về mặt kinh tế mà cịn về mặt an sinh xã hội
và an ninh quốc quốc. Thông qua việc đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, giúp
nhà nước có thể thực hiện nhiều chính sách như: nâng cấp cơ sở hạ tầng, củng cố sức
mạnh quân sự, hỗ trợ người nghèo, thất nghiệp, những vùng bị thiên tai, lũ lụt,…
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 thì ngành KTTN lại càng khẳng định được vị
thế của mình khi là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nền kinh
tế, khi vốn đầu tư khu vực KTTN trong quý III năm 2020 tăng gấp đôi quý II năm
2020 và đạt 7,4% so với cùng kỳ năm 2019. Bất chấp những tác động tiêu cực do
Covid-19 gây ra, 9 tháng đầu năm 2020, vẫn có gần 99 nghìn doanh nghiệp thành lập
mới, chỉ giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2019, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động
lại đạt tới 34,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 25,5% so với cùng kỳ, số doanh nghiệp tăng
vốn là 29,5 nghìn doanh nghiệp. Nhờ vậy,9 tháng đầu năm 2020, tổng số vốn đăng ký
bổ sung vào nền kinh tế đạt 3.601,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm
20194.
Với những thành tựu trong việc đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế, vị tế
của thành phần KTTN ngày càng được nâng cao trong đời sống chính trị, xã hội. Hiện
nay, các văn bản pháp luật liên quan đến kinh tế đều được Quốc hội, Chính phủ u
cầu phải có ý kiến cộng đồng doanh nghiệp tư nhân thơng qua Phịng Cơng nghiệp và
Thương mại Việt Nam (VCCI) trước khi ban hành.
Trước đây vào giai đoạn từ năm 1975-1986, nền kinh tế Việt Nam phát triển theo
mơ hình kế hoạch hóa chịu ảnh hưởng của của mơ hình CNXH Xơ Viết. Thành phần
KTTN bị tẩy chay, gần như bị xóa sổ hồn tồn (trừ các hộ kinh doanh nhỏ lẻ). Trong
nền kinh tế kế hoạch, hàng hóa được phân phối theo tem phiếu do nhà nước nắm toàn
quyền điều hành, hạn chế việc người dân tự mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển
hàng hóa từ địa phương này đến địa phương khác. Hạn chế mọi giao dịch bằng tiền
mặt, chế độ phân phối lương thực được tính theo đầu người. Ta có thể thấy được nền
kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ vô cùng kém phát triển, không tạo ra động lực cho người
dân lao động, sáng tạo làm giàu cho bản thân và đất nước. Sức sản xuất bị kìm hãm,
4
Số liệu từ Kinh tế tư nhân - “Lực kéo quan trọng” của kinh tế Việt Nam thời hậu COVID-19 - trang web:
19
đình trệ hồn tồn khơng có động lực tăng gia sản xuất. Kinh tế khơng phát triển thì
đồng nghĩa với việc đời sống nhân dân thiếu thốn, đói nghèo, thiếu ăn là điều diễn ra
tràn lan trong lúc bấy giờ.
Trước tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng đó, Đại hội Đảng
tồn quốc lần thứ VI (năm 1986), đã đề ra đường lối đổi mới, với chủ trương đa dạng
hóa các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đây là một
bước ngoặt mang tính lịch sử cho việc phát triển của nền kinh tế Việt Nam sau này.
Một thay đổi to lớn trong tư duy của Đảng và Nhà nước chính là nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần là một nền kinh tế năng động, người dân được tự do kinh doanh để
tự làm giàu cho bản thân, góp phần làm giàu đất nước. Do đó, tạo ra động lực cho các
doanh nghiệp tư nhân phát triển nhờ đó sức sản xuất cũng tăng vọt không chỉ đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Khi nền kinh tế thị
trường được triển khai, người dân được khơi dậy nỗ lực của bản thân cố gắng làm việc
nhờ đó đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện.
2.2.1.2 Nguyên nhân:
Sau hơn 35 năm tiến hành đổi mới, tư tưởng về vai trò của TPKT ngày càng
được củng cố và nâng cao. Đảng thừa nhận thành phần KTTN là động lực quan trọng
trong việc phát triển kinh tế, do đó Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương
khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân thành lập và phát triển đóng góp vào sự phát
triển của nền kinh tế - xã hội. Đây là một trong những nguyên nhân then chốt giúp cho
thành phần KTTN phát triển.
Xu hướng hội nhập quốc tế đẩy mạnh trao đổi buôn bán, giữa các nước tạo điều
kiện cho sản phẩm của doanh nghiệp của Việt Nam được ra mắt với bạn bè quốc tế.
Nhờ đó, đặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao chất lượng
sản phẩm để tạo được yếu tố cạnh tranh giúp đẩy mạnh khả năng lao động, sáng tạo,
áp dụng kỹ thuật công nghệ. Hiện nay, đi khắp nơi trên thế giới chúng ta có thể dễ
dàng kiếm được các sản phẩm mang thương hiệu đến từ Việt Nam, đây là một tín hiệu
đáng mừng vì vị thế của các sản phẩm đến Việt Nam ngày càng được tăng cao trên
trường quốc tế. Đây chính là động lực thúc đẩy giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát
triển không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngồi, góp phần
20
gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam.
21