TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẺ QUỐC DÂN
PGS.TS.MAI NGỌC CƯỜNG
ò ỳ f . w
KINH Tẽ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỮ NGHĨA
ở VIỆT NAN
( SÁCH THAM KHẢO )
THU VIEN DA» HCC TK.*Y SAH
20000027Ó6
NHÀ XUẤT BAN CHÍNH TRỊ quốc GIA
3.335
Mã sô':
CTQG-2001
P '” *'=TTT7T 1
I T H ĨTRƯttNG HẠI HỌC KINH TÊ QUỐC DÂN
; . 1 ; r- ; tr - ãyPGẩTS.MAI NGỌC CƯỜNG
1
. . 1
b y í . i *
5
KINH T Í THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHÙ NGHÌN
ở VIỆT NNN
( SÁCH THAM KHẢO )
-ỊC ề ~ 6 L
ự%/mọo \
| T ự C H 9 » J
1 013ị &
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
Hà Nội - 2001
MỤC LỤC
Trang
Lời Nhà xuất bản 9
Phần thứ nhất
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ' 11
Chương I: Chủ nghĩa xã hội: Lý luận và thực tiễn 13
I. Khái quát tư tưởng về chủ nghĩa xã hội 13
II. Nhận xét chung vể các tư tưồng chu nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản 48
III. Bình đẳng xã hội - vấn đề chủ yếu của tư tưởng
xã hội chủ nghĩa 52
Chương II: Những vân đề cơ bản về kinh tế
thị trường có sự quản lý của nhà nước 70
I. Kinh tế thị trường 70
II. Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường 106
III. Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội
có mâu thuẫn hay không? 151
Phần thứ hai
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIEN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM 157
Chương III Về mô hình nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 159
5
159
I. Tên gọi của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
II. Những đặc điểm của nền kinh tế thị trưòng
định hướng xã hội chủ nghĩa ỏ Việt Nam 163
Chương IV. Đa dạng hoá sở hữu và phát triển
các hình thức kinh tế ở Viêt Nam 182
•
I. Quá trình đa dạng hoá sở hữu và phát triển
các hình thức kinh tế ở Việt Nam 182
II. Tiếp tục đa dạng hoá sở hữu và phát triển
các hình thức kinh tế ở Việt Nam 212
Chương V: Phân công lao động xã hội và
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá 229
I. Khái quát về phân công lao động xã hội và
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ỏ nước ta 229
II. Tiếp tục đẩy mạnh phân công lao động xã hội
và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 232
Chương VI: Phát triển đồng bộ hệ thông
thị trường ở Việt Nam 274
I. Sự hình thành và phát triển các loại thị trường
ở nước ta 274
II. Nhận xét chung về sự phát triển các loại
thị trường ở Việt Nam 297
III. Hướng phát triển các loại thị trường trong những
năm tới 307
Chương VII: Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý
phù hợp với nền kinh tế thị trường định
hướng xả hội chủ nghĩa ở Việt Nam 321
I. Quá trình đổi mới cơ chế, chính sách quản lý
kinh tế 321
6
358
II. Tiếp tục hoàn thiện các công cụ chính sách
vĩ mô của nhà nước
Chương VIII. Đổi mới về phân phôi thu nhập và
đảm bảo bình đẳng xã hội trong điểu kiện
nền kinh tể thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam 373
I. Những điều chỉnh trong chính sách phân phổi
thu nhập, thực hiện xoá đói giảm nghèo
ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay 373
II. Hoàn thiện các công cụ chính sách đảm bảo
bình đẳng xã hội. 416
Thay lời kết luận 440
7
LÒI NHÀ XUẤT BẢN
Thực tiễn sinh động trong gần 15 năm đổi mới (1986-
2000) đã khẳng định đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng ta là đúng đắn, bưốc đi là thích hợp. Các Nghị quyết
Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII đã và đang đi vào cuộc
sông. Mặc dù đổi mới là một sự nghiệp khó khăn và chưa có
tiền lệ, nhưng dưối sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã
mạnh dạn tìm tòi, sáng tạo, dũng cảm thực hiện và giành
được những thành tựu to lón, có ý nghĩa rất quan trọng, mở
ra trang sử mới cho lịch sử phát triển đất nưổc.
Cùng với thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, nét nổi
bật là đã có sự đổi mói tư duy, nhất là tư duy về kinh tế,
nhận thức về nền kinh tế mối- nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của nhà nưóc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa - ngày càng
rõ nét hơn. Tuy nhiên, nhận thức tư tưởng là sự vận động
luôn biến đổi và phức tạp, không phải mọi người đã thừa
nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh tê thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Có những người tuy đã tiếp cận được
tư tưởng này, song cũng không phải là đã có sự nhất quán về
mô hình nền kinh tế thị trường định hưống xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Để bạn đọc có thêm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu,
9
thảo luận, góp phần làm sáng tỏ các quan điểm, định hướng,
nguyên tắc chỉ đạo của Đảng ta trong việc xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà
xuất bản Chính trị quổc gia phôi hợp với Phòng Quản lý
nghiên cứu khoa học Trường Đại học kinh tế quốc dân Hà
Nội xuất bản cuôn sách Kinh tê thị trường định hưởng xã
hôi chủ nghĩa ở Việt Nam của PGS.TS. Mai Ngọc Cường.
Trong cuốn sách còn những vấn đề đang có những ý kiến
khác nhau, cần được tiếp tục thảo luận. Chúng tôi xuất bản
dưới hình thức tài liệu tham khảo để rộng đường nghiên cứu.
Nội dung cuốn sách gồm hai phần, 8 chương:
Phần thứ nhất: Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường
Phần thứ hai: Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Xin trân trọng giói thiệu cuôn sách và mong nhận được
những ý kiến đóng góp của bạn đọc.
Tháng 1 năm 2001
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
10
Phần thứ nhất
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ KINH TỂ
THỊ TRƯỜNG
11
Chương I
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI: LÝ LUẬN VÀ THựC TIEN
I. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG VỂ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1. Quan điểm trong thòi kỳ nô lệ và phong kiên
Thời kỳ nô lệ, nhất là vào nửa đầu thế kỷ thứ IV
trước công nguyên, trong các tác phẩm của Platon, như
tác phẩm Nhà nước và tác phẩm Luật lệ, đã có những
tư tưởng vê chủ nghĩa cộng sản. Trong những tác phẩm
đó, Platon muôn đưa ra mẫu hình một xã hội mà trong
đó không có kẻ giàu và người nghèo. Theo ông, giàu có
sinh ra tính ẻo lả, tệ ăn không ngồi rồi và lòng ham mê
những cái mới, còn nghèo nàn sinh ra sự hèn hạ, tính
độc ác và cũng sinh ra sự ham mê cái mối. cả hai kẻ đó
đểu là ung nhọt của xã hội. Bởi vậy, những người cầm
quyền phải đấu tranh chống nghèo nàn và sự giàu có.
Theo tinh thần đó, ông xây dựng mô hình một xã hội
đảm bảo sự bình quân, trong đó, những nhà triết học,
quý tộc là lớp người lãnh đạo nhà nước, vệ binh là công
cụ bảo vệ nhà nước, công dân bao gồm những người lao
động thợ thủ công, ngưòi buôn bán và nô lệ. Những
nguyên lý về xây dựng nhà nước lý tưởng đó của Platon
13
được các nhà không tưởng phương Tây sau này đề c&o.
Trong thòi kỳ phong kiến, các nhà tư tưởng từ
Thomas More (1478-1535), Tornado Campanen (1566-
1639) đã nêu ra những tư tưởng về chủ nghĩa xã hội.
Trong tác phẩm "Sựkhông tưởng" (1516) T.More đã mô
tả sự phá sản và bần cùng hoá của nông dân nước Anh
do sự tích luỹ nguyên thuỷ tư bản sinh ra và đi đến kết
luận là: ở những nơi chế độ sở hữu tư nhân thông trị thì
tất cả của cải vật chất rơi vào tay một sô ít ngưòi mà
thôi. Từ đó ông nêu ra một xã hội mà trong đó được xây
dựng trên chê độ sở hữu công cộng, lao động cộng đóng,
không có cách biệt giữa nông thôn và thành thị, có diều
tiết sản xuất, ngày làm việc 6 giờ, thủ tiêu tiền tệ, phân
phối công bằng và không có chiến tranh xâm lược.
Cũng như T.More,- T.Campanen cho rằng nguyên
nhân của sự không công bằng của xã hội hiện tại là do
chế độ sở hữu tư nhân. Từ đó trong tác phẩm "Thanh
phố mặt trời"(viết vào năm 1602, xuất bản năm 1623),
ông dự kiến xây dựng một xã hội tương lai dựa trên chế
độ sở hữu công cộng, mọi người đều có nghĩa vụ lao
động. Ngày lao động 8 giồ chia thành 4 giò lao động trí
óc và 4 giò lao động chân tay, phân phối công bằng và
không dùng đồng tiền.
2. Quan điểm trong thòi kỳ dổu phát triển của
chủ nghĩa tư bàn
Đầu thê kỷ XIX, hậu quả của cách mạng cóng
nghiệp làm cho đòi sống giai cấp vô sản ngày càng bị
14
lần cùng, những người lao động nói chung đều mong
muốn có một xã hội tốt đẹp hơn chủ nghĩa tư bản. Họ
gọi là chủ nghĩa xã hội.
Những người xã hội chủ nghĩa không tưởng đã vạch
trần và phê phán sâu sắc những hiện tượng xấu xa của
chế độ tư bản chủ nghĩa, như cách biệt giàu nghèo, đạo
đức đồi bại, đảo ngược trắng đen, lẫn lộn phải trái.
Đồng thời, họ cũng đưa ra những mô hình xã hội lý
tưởng của họ. Với ngòi bút của mình, các nhà xã hội chủ
nghĩa không tưởng đã phác hoạ xã hội tương lai là một
“thiên đường trên trần gian”, trong đó, không có bóc lột,
không có nghèo khổ, tràn đầy tự do, bình đẳng và hoà
thuận. Trong tư tưởng của các nhà xã hội chủ nghĩa
không tưỏng, có nhiều dự báo thiên tài. Nhưng trên
tổng thể, do không nhận thức đúng quy luật phát triển
của xã hội, nên học thuyết của họ chỉ mang tính chất
duy tâm, không tưởng, không thể thực hiện được.
Đặc điểm của chủ nghĩa xã hội ở giai đoạn này là
phê phán chủ nghĩa tư bản theo quan điểm kinh tế chứ
không phải quan điểm đạo đức, luân lý. Nó chỉ rõ chủ
nghĩa tư bản chỉ là một giai đoạn phát triển của lịch sử.
Đó chưa phải là xã hội tốt đẹp nhất mà "thế kỷ vàng là
thế kỷ của tương lai". Họ vạch rõ chủ nghĩa tư bản đã
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, cần phải
thay đổi nó bằng xã hội mối, mà họ gọi là "hệ thống
công nghiệp - khoa học", "chế độ công nghiệp" hoặc "chủ
nghĩa xã hội".
Ba nhà tư tưởng của thời kỳ này là Saint Simon
15
(1760-1825), Charier Fourier (1772-1837) và Robert
Owen (1771-1858) đã đưa ra các tư tưỏng sau về chủ
nghĩa xã hội.
Thứ nhất, đó là một xã hội mà cơ sở kinh tê của nó,
theo Saint Simon, dựa trên chê độ tư hữu nhưng đã
được cải biến phục vụ lợi ích cho xã hội, hoặc là theo
R.Owen là dựa vào chê độ sở hữu công cộng, sỏ hữu tư
nhân bị hoàn toàn xoá bỏ.
Thứ hai, nền tảng sản xuất của xã hội đó là nền sản
xuất lốn, dựa trên đại công r.ghiệp. Nền sản xuất này
được tổ chức một cách tự giác. Tình trạng sản xuất
cạnh tranh, vô chính phủ bị xoá bỏ.
Thứ ba, Nhà nước trong xã hội tương lai do các nhà
bác học, nghệ sĩ, các nhà công nghiệp điều hành. Xã hội
không cần quyền lực của thiểu sô đôi vối đa sô.
Thứ tư, xã hội tương lai có mục đích phù hợp với lợi
ích của đa sô nhân dân lao động, nó đảm bảo cho tất cả
mọi người những điều kiện vật chất và thoả mãn nhu
cầu của con người.
Thứ năm, trong xã hội tương lai, mọi người đều có
quyền bình đang, tất cả mọi người lao động dù làm việc
trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực lưu
thông phân phối, lao động trí óc cũng như lao động
chân tay đều là lao động có ích và được tham gia vào
guồng máy xã hội. ở đây việc tổ chức lao động được
thực hiện theo nguyên tắc mới. Động lực kinh tê là thi
đua, lòng tự ái cá nhân và một phần kích thích vật
chất. Sản phẩm được phân phối theo nguyên tắc làm
theo năng lực, hưỏng theo lao động.
16
3. Luận điểm của c. Mác, Ph. Ăngghen
Nhận thức của C.Mác và Ph. Ảngghen về chủ nghĩa
xã hội là bắt nguồn từ các tác phẩm của chủ nghĩa xã
hội phương Tây đầu thê kỷ XIX. Bản thảo kinh tê -
triết học 1844 là cột mốc quan trọng nói lên sự chuyển
biên tư tưởng của hai ông. Trong bản thảo đó, c. Mác
đã cố gắng đi từ góc độ kinh tế học để luận chứng chủ
nghĩa cộng sản, thay đổi quan điểm về chủ nghĩa xã hội
của những người xã hội chủ nghĩa phương Tây đầu thế
kỷ XIX chỉ đơn thuần dùng tiêu chuẩn đạo đức, nguyên
tắc lý tính trừu tượng để phê phán chế độ cũ và thiết kế
xã hội mới. Song song với quá trình đi sâu nghiên cứu
thực tiễn và lý luận, c. Mác và Ph. Angghen đã hoàn
thành bước chuyển đổi thê giới quan: từ chủ nghĩa duy
tâm sang chủ nghĩa duy vật, từ dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa cộng sản, đã sáng lập lý luận duy vật
lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. Đó là hai phát
hiện lớn đã đặt cơ sở khoa học và hiện thực cho chủ
nghĩa xã hội, khiến chủ nghĩa xã hội có bước nhảy vọt
trong lịch sử phát triển. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội
của c. Mác và Ph. Ảngghen có thể khái quát thành
những điểm chủ yếu quan trọng như sau:
Thứ nhất, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
phải được xây dựng trên cơ sở sức sản xuất phát triển
cao. Theo nguyên lý duy vật lịch sử, trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là tiêu chí quan trọng để
phân biệt các phương thức sản xuất khác nhau. c. Mác,
Ph. Ảngghen cho rằng, phải có sự tăng trưỏng cao của
17
lực lượng sản xuất là tiền để thực tiễn tuyệt đôi cần
thiết để xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nếu không có
nó thì tất cả sẽ chỉ là một sự nghèo nàn đã trở thành
phổ biến, mà với sự thiếu thốn thì cũng bắt đầu trỏ lại
một cuộc đấu tranh để giành những cái cần thiết, thế
là người ta lại không tránh khỏi rđi vào sự ti tiện
trước đây.
ở đây, c. Mác, Ph. Ảngghen đã chứng minh rằng,
chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng trên cơ sở sự
phát triển cao độ của lực lượng sản xuất nhằm thoả
mãn nhu cầu phát triển toàn diện của con người; chủ
nghĩa cộng sản không phải là chủ nghĩa bình quân, chủ
nghĩa khổ hạnh; nghèo khổ không phải là chủ nghĩa
cộng sản.
Thứ hai, xã hội xã hội chủ nghĩa xoá bỏ chế độ tư
hữu, xây dựng chế độ công hữu, không còn kinh tê hàng
hoá. c. Mác và Ph. Ãngghen đã mổ xẻ mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa sản xuất lốn
xã hội hoá và chiếm hữu tư nhân vê tư liệu sản xuất.
Từ đó hai ông đã luận chứng tính tất yếu: xã hội phải
trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất. Vì vậy, xoá bỏ chế
độ tư hữu và xây dựng chế độ công hữu là tiêu chí đầu
tiên của chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, xuất phát từ thực tê của chê độ tư bản chủ
nghĩa: khủng hoảng kinh tê tư bản chủ nghĩa phá hoại
nghiêm trọng của cải xã hội, c. Mác cho rằng, tình
trạng vô chính phủ trong sản xuất và kinh tê là hậu
quả tai hại của kinh tê hàụg hoá. Vì vậy, trong điều
18 •
kiện của chủ nghĩa xã hội, cùng với việc xã hội nắm lấy
tư liệu sản xuất thì tình trạng vô chính phủ trong nội
bộ nền sản xuất xã hội được thay thế bằng một sự tổ
chức có kế hoạch, có ý thức.
Thứ tư, xã hội xã hội chủ nghĩa được chia thành hai
giai đoạn phát triển, từ thấp đến cao, từ phân phối theo
lao động đến phân phối theo nhu cầu. c. Mác cho rằng,
sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, xã hội
được phát triển theo ba thời kỳ lịch sử.
• Thời kỳ quá độ giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã
hội cộng sản chủ nghĩa, là một thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia và nhà
nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn
là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản.
• Giai đoạn thứ nhất của chủ nghĩa cộng sản, còn
gọi là giai đoạn thấp. Đây là giai đoạn mới thoát
thai từ xã hội cũ, vì vậy còn tồn tại những tư
tưởng hẹp hòi của quyền lợi tư sản, còn rớt lại
những tàn dư của xã hội cũ. Giai đoạn này chỉ có
thể phân phổi theo lao động.
• Giai đoạn cao của chủ nghĩa cộng sản, những tàn
dư của xã hội cũ đã bị xoá bỏ, cách phân công cũ
không còn nữa, lao động không còn là phương kế
sinh sông mà trỏ thành nhu cầu đầu tiên của cuộc
sống, lực lượng sản xuất phát triển cao độ, của cải
xã hội rất dồi dào, xã hội cuối cùng thực hiện “làm
hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Theo c. Mác,
19
từ chủ nghĩa xã hội đến chủ nghĩa cộng sản ph ải
trải qua quá trình phát triển như thế: từ không
phát triển đến phát triển, từ thấp đến cao.
Thứ năm, chủ nghĩa cộng sản là liên hợp của những
người tự do. c. Mác và Ph. Angghen nhiều lần nêu lên
như sau: trong xã hội tương lai, con người được phát
triển tự do toàn diện trên cơ sỏ sự phát triển cao độ của
lực lượng sản xuất, sự phát triển tự do của mỗi người là
điểu kiện của sự phát triển tự do của mọi người, liên
hợp của những người tự do sẽ thay thê xã hội cũ đôi lập
giai cấp.
Về vấn để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, c. Mác
và Ph. Ảngghen cho rằng, do tư bản đã được quốc tế hoá,
cho nên cách mạng vô sản cũng nhất định phải mang
tính chất quốc tế. Vì vậy, cách mạng cộng sản chủ nghĩa
sẽ diễn ra đồng loạt ỏ tất cả các nước văn minh, ít nhất
cũng tại các quốc gia chủ yếu ở châu Âu, châu Mỹ. Đây
là điều mà người ta thường gọi là “thuyết cách mạng
đồng loạt” hoặc “thuyết giành thắng lợi đồng loạt”.
Khi sáng lập học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học,
c. Mác và Ph. Ăngghen chưa chứng kiến sự thắng lợi
của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở bất cứ nưốc nào; lại
càng chưa được sốhg trong xã hội xã hội chủ nghĩa để
kiểm tra và hoàn thiện học thuyết của mình. Hai ông có
thể mổ xẻ sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa lúc bấy giờ,
nhưng rất khó có thể dự kiến chính xác xã hội xã hội
chủ nghĩa hiện thực sẽ có bộ mặt ra sao, được xây dựng
và phát triển như thê nào, chủ nghĩa tư bản sẽ có
20
những biến đổi gì. Vê những vấn đê đó, hai ông không
thê để lại những đáp án sẵn có cho hậu thế. Hai ông đã
vạch ra con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản, nhưng hai ông chưa bước vào con đường đó.
4. Quan niệm của v.l. Lênin
Trong thực tế, cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ
ra đầu tiên ở các nước tư bản phát triển như c. Mác,
Ph. Ăngghen giả thiết. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
giành thắng lợi đầu tiên tại các nước kinh tế, văn hoá
lạc hậu hơn, đó là nước Nga vào năm 1917.
Trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin chú trọng
nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa đế quốc, nghiên cứu
biện pháp tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong
tình hình mới. Người đã thay đổi kết luận trước đây cho
rằng có thể giành “thắng lợi đồng loạt” và đưa ra luận
điểm mới cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể
giành “thắng lợi đầu tiên tại một nưốc”. V.I. Lênin đã
giải đáp một loạt vấn đề về tiến hành cách mạng tại các
nước kinh tế, văn hoá tương đối lạc hậu. Ngưòi đã lãnh
đạo cách mạng vô sản Nga và tiến hành Cách mạng
tháng Mười giành thắng lợi vĩ đại, lập nên Nhà nước
xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, đưa chủ nghĩa
xã hội từ lý luận trở thành hiện thực, thực hiện bước
nhảy vọt thứ hai trong lịch sử phát triển của chủ
nghĩa xã hội.
Tư tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xô
viết của V.I. Lê nin cũng là một quá trình. Lúc đầu
21
V.I. Lênin chủ trương “quá độ trực tiếp”, sau chuyển
sang chủ trương “quá độ gián tiếp”. Kể từ mùa hè năm
1918, nước Nga Xô viết bước vào thời kỳ nội chiến rất
gian khổ. Để thích ứng vói tình hình đó, nước Nga đã
thực hiện một loạt chính sách bất bình thường trong
hoạt động kinh tế. Lịch sử gọi đó là "Chính sách cộng
sản thồi chiến”. Để đối phó với hoàn cảnh chiến tranh
cực kỳ khó khăn, lương thực và các loại vật tư rất thiếu
thốn, Nhà nước Xô viết đã thực hiện chế độ trưng thu
lương thực rất chặt chẽ, nhà nước khống chế các mạch
máu kinh tê trên phạm vi toàn quốc, thị trường bị xoá
bỏ, quan hệ hàng hoá - tiền tệ bị loại khỏi lĩnh vực hoạt
động kinh tế. Những giải pháp đó lúc ấy rất ăn nhập
với một số quan niệm truyền thống về chủ nghĩa xã hội
trong đầu óc rất nhiều người. Những người đó, kể cả
V.I. Lênin, đều cho rằng, như vậy là đã tìm được "con
đường tắt” để trực tiếp tiến lên chủ nghĩa xã hội, tưởng
rằng tại một nưốc tiểu nông có thể dùng pháp lệnh nhẳ
nước để trực tiếp quá độ lên chê độ sản xuất và phân
phối cộng sản chủ nghĩa.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, đứng trưốc những
nguy cơ mối nảy sinh, V.I. Lênin và Đảng Bônsêvích đã
chuyển đổi từ Chính sách cộng sản thời chiến sang
Chính sách kinh tê mối. V.I. Lênin đã chú trọng tổng
kết thực tiễn thồi kỳ nội chiến, cố gắng vận dụng Chính
sách kinh tê mới để qua đó tìm ra con đường phát
triển xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình thực tê
của nước Nga. Có thể thấy, đặc trưng quan trọng của
22
quan niệm vê chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin, là tôn
trọng thực tiễn, cô gắng thông qua thực tiễn để tìm
kiếm con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Quan
niệm vê chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin chủ yếu có
mấy điểm như sau:
Thứ nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ trở thành một
“công xưởng lớn”. Trong cuốn sách "Nhà nước và cách
mạng", V.I. Lênin đã mô tả xã hội xã hội chủ nghĩa
trong tương lai là nhà nước vô sản chiếm hữu tư liệu
sản xuất một cách trực tiếp và duy nhất; nhà nưốc đó
chịu trách nhiệm tổ ehức việc sản xuất trong phạm vi
cả nước, chịu trách nhiệm thực hiện việc kiểm kê và
kiểm soát của toàn dân đôi với tiêu dùng và phân phốĩ,
ở đây, hết thảy mọi công dân đều trở thành nhân viên
và công nhân của một “xanh-đi-ca” nhà nước duy nhất
của toàn dân, một xưởng máy, với chê độ lao động
ngang nhau thì lĩnh lương ngang nhau.
Rõ ràng là cách suy nghĩ đó của V.I. Lênin phù hợp
với những giả thiết của c. Mác, Ph.Ảngghen về xã hội
tương lai. Quan điểm đó của V.I. Lênin cũng là cơ sở tư
tưởng của chính sách cộng sản thời chiến.
Thứ hai, một nưốc tiểu nông cần phải thực hiện
một loạt khâu trung gian, như phát triển sản xuất
hàng hoá , để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách
kinh tê mối cho phép người dân được tự do sử dụng
lương thực dư thừa của mình và các nông sản khác.
Trong tình hình đó, quan hệ hàng hoá - tiền tệ và
quy luật giá trị được phục hồi và phát huy tác dụng một
23
cách không gì ngăn cản nổi, thị trường sôi động trở lại.
Thực tiễn đó đã khiến V.I. Lênin nhìn thấy rằng,
thướng nghiệp là khâu trung tâm để chấn hưng nền
kinh tế, phải sử dụng thị trường và quan hệ hàng hoá -
tiền tệ, phải thực hiện việc trao đổi sản phẩm công-
nông nghiệp, đảng viên cộng sản phải học để biết buôn
bán, nhà nước phải làm “nhà bán buôn thành thạo”.
Mặc dù lúc đó V.I. Lênin chưa nêu lên một cách rõ ràng
những khái niệm như kinh tê hàng hoá xã hội chủ
nghĩa, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nhưng ông
đã thấy rằng việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước
lạc hậu, phải áp dụng một loạt giải pháp trung gian
như hàng hoá, thị trường, tiền tệ, chủ nghĩa tư bản nhà
nước , để khơi thông việc giao lưu giữa thành thị và
nông thôn, thúc đẩy kinh tê phát triển. Cách làm đó là
phù hợp với quy luật phát triển của kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Đó là những kết luận hoàn toàn mới được đúc
rút ra từ thực tiễn. Đó cũng là sự đột phá quan trọng
nhất về lý luận và là cống hiến lý luận lớn nhất của V.I.
Lênin trong quá trình tìm tòi con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga.
Thứ ha, hợp tác xã là mắt xích nối liền nhà nước xã
hội chủ nghĩa và hàng chục triệu hộ tiểu nông, là giải
pháp tất yếu để hướng dẫn nông dân tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa. Nông dân chiếm phần lớn trong dân
số các nưốc lạc hậu, đó là tình hình thực tế chủ yếu của
các nước này. Làm thê nào để xử lý tốt mối quan hệ với
nông dân, điều này có ý nghĩa quan trọng nhất đốỉ với
24
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu.
V.I. Lênin cho rằng, việc thiết lập các hợp tác xã với
nhiều hình thức khác nhau là biện pháp thích hợp để
nông dân dễ tiếp nhận và qua đó hướng dẫn nông dân
tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì hợp tác xã
có thể tìm ra cách kết hợp tôt nhất giữa lợi ích riêng
của nông dân với lợi ích chung của nhà nước. Do vậy, có
sự phát triển hợp tác xã là có tất cả những điêu cần
thiết để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa toàn vẹn.
Thứ tư, phải biết lợi dụng chủ nghĩa tư bản để phát
triển kinh tê xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin cho rằng,
Nhà nước Xô viết có thể và cần phải mạnh dạn học tập,
tham khảo kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của các
nước tư bản phương Tây để khôi phục và phát triển
kinh tế. Tư tưởng của ông về chủ nghĩa tư bản nhà
nước cũng như các hình thức cụ thể của nó là sự phát
triển quan trọng đối với chủ nghĩa Mác.
Thứ năm, coi trọng xây dựng văn hoá, nâng cao đời
sông văn hoá của toàn dân, coi đó là điều kiện cần phải
ẹó để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu.
V.I. Lênin nhận thấy rằng, nếu không nắm vững các tri
thức và khoa học, văn hoá hiện đại, sẽ rất khó nâng cao
tô chất của người lao động, rất khó quản lý tốt nền kinh
tế hiện đại và nâng cao năng suất lao động. V.I. Lênin
coi việc thực hiện điện khí hoá toàn quốc và việc nắm
vững khoa học kỹ thuật hiện đại là điểu kiện cần thiết
để cải tạo tiểu nông và khắc phục tệ quan liêu.
Nghiên cứu của V.I. Lênin về con đường xây dựng
25
chủ nghĩa xã hội tại các nước lạc hậu bao gồm rất nhiều
lĩnh vực và cũng rất có giá trị. Điều đáng tiếc là ông
chưa kịp hoàn thành việc tìm tòi của mình. Vào cuối
đòi, ông đã có thể nhìn thang vào tình hình thực tế của
nước Nga lạc hậu. Đứng trước những tình hình mới và
những vấn đề mới xuất hiện trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, V.I. Lênin không hề bị ràng buộc bởi
sách vở và những quan niệm truyền thống. Người đã
căn cứ vào thực tế thời đại thay đổi, căn cứ vào thực
tiễn của hàng chục triệu quần chúng, để luôn luôn điều
chỉnh và thay đổi quan niệm, chủ trương, chính sách,
dám đi vào thực tiễn, mạnh dạn sáng tạo đổi mối, cố
gắng tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù
hợp vối thực tê nước Nga. Đó là đặc điểm lốn nhất trong
quan niệm về chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin.
5. Quan niệm của J. xtalin
Sau khi V.I. Lênin mất, nhận thức của những người
hậu thế đốì vối Chính sách kinh tế mối không thống
nhất, trong Đảng Cộng sản Liên Xô, lúc bấy giò đã có
những tranh luận rất gay gắt.
Cuối những năm 1920, khi Xtalin chiến thắng tất cả
các phái đốì lập trong Đảng, Liên Xô bắt đầu xây dựng
kinh tê có kế hoạch. Điều đó đánh dấu sự chấm dứt
Chính sách kinh tế mới ở nước Nga.
Đến giữa những năm 1930, dưói sự lãnh đạo của
Xtalin, Liên Xô xây dựng được một thể chê chính trị
26
kinh tê tương đối hoàn chỉnh, lịch sử gọi đó là “mô hình
Xtalin”. Đặc trưng nổi bật nhất của mô hình đó là sự
tập trung cao độ, trung ương tập quyền cao độ. Thể chê
đó thể hiện một cách rõ ràng quan niệm của Stalin vê
chủ nghĩa xã hội. Biểu hiện chủ yếu như sau:
Thứ ĩịhất, hình thức sở hữu rất đơn nhất. Stalin coi
chế độ sở hữu nhà nưốc về tư liệu sản xuất là cơ sở của
kinh tê xã hội chủ nghĩa. Ông cho rằng, phải dựa vào
kinh tế quốc doanh để tiến hành công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa. Thực tế, đó là dựa vào nhân lực, vật lực và
tài lực có trong tay nhà nước và dựa vào các kê hoạch
pháp lệnh và các biện pháp hành chính để thực hiện
công nghiệp hoá. Ruộng đất quốc hữu hoá, công nghiệp
quốc hữu hoá, vận tải và tín dụng quốc hữu hoá, ngoại
thương độc quyền, nội thương do nhà nước điều chỉnh -
tất cả những cái đó đểu là những nguồn mới, tạo nên
“tư bản gia tăng'’ có thể dùng để phát triển nền công
nghiệp nước Nga. Những nguồn mói ấy đều từng có
trong bất cứ một nưốc tư sản nào.
Như vậy, nhà nước chẳng những là người chủ của
tất cả những tư liệu sản xuất của mỗi xí nghiệp, mà còn
là người chủ của mọi hoạt động của xí nghiệp, xí nghiệp
bị mất đi quyền tự chủ kinh doanh.
Chê độ sở hữu tập thể là một hình thức của chê độ
công hữu. Đe thích ứng với nhu cầu công nghiệp hoá đất
nưốc, Liên Xô triển khai việc tập thể hoá nông nghiệp
toàn diện. Trong một thời gian ngắn hàng chục vạn nông
trang tập thể đã được thành lập, qua đó cải tạo chê độ sỏ
27
hữu cá thể ở nông thôn thành chế độ sở hữu tập thể.
Nông trang tập thể chịu sự không chê chặt chẽ của kê
hoạch nhà nước, lại phải có nhiệm vụ giao nộp và bán
lương thực cùng các nông sản khác với số lượng lớn. Vì
vậy, nông trang tập thể không có quyền tự chủ kinh
doanh, và trở thành sở hữu nhà nước biến tướng.
Thứ hai, xây dựng nền kinh tê theo kê hoạch pháp
lệnh, bác bỏ cơ chê thị trường, hạn chế sản xuất hàng
hoá trong phạm vi rất nhỏ hẹp. Xtalin cho rằng, kinh tê
kê hoạch là đặc tính cô" hữu của riêng chủ nghĩa xã hội,
rằng chê độ tư bản chủ nghĩa không bao giờ có thể tổ
chức được sản xuất theo kế hoạch. Đặc trưng cơ bản của
kinh tê kê hoạch là ỏ chỗ, nó mang tính chất pháp lệnh
và tính chất cưỡng chế; kế hoạch là luật pháp. Nếu
không kê hoạch hoá sẽ không thể chỉ đạo được nền kinh
tê toàn quôc.
Quan niệm của J. Xtalin vê quan hệ hàng hoá - tiền
tệ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói chung,
không thoát khỏi sự ràng buộc của quan niệm truyền
thông. Tuy nhiên, J. Xtalin không thể không nhìn thấy
một thực tế là Liên Xô lúc ấy vẫn còn sản xuất và lưu
thông hàng hoá, không thể xoá bỏ được. Vì vậy, quan
niệm của ông về lĩnh vực này khá phức tạp. Ông cho
rằng, sản xuất hàng hoá là giai đoạn cao nhất của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng không thể lẫn lộn
sản xuất hàng hoá với sản xuất tư bản chủ nghĩa, rằng
trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn sản xuất hàng
hoá có liên hệ với chê độ công hữu; trong chủ nghĩa xã
28