Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

(TIỂU LUẬN) phân tích những điểm mới trong quy định của luật doanh nghiệp 2020 so với luật doanh nghiệp 2014 về công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.03 KB, 59 trang )

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LUẬT
--------***--------

BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
Tên bài tập: Phân tích những điểm mới trong quy định của
Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
và tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp

Nhóm thực hiện

:3

Lớp tín chỉ

: PLU401(GD2-HK1-2021).3

Người hướng dẫn

: PGS. TS. Bùi Ngọc Sơn

Hà Nội, tháng 12 - 2021


ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LUẬT
--------***--------

BÀI TẬP LỚN


MÔN HỌC PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP
Tên bài tập: Phân tích những điểm mới trong quy định của
Luật Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh
và tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp

Nhóm thực hiện

:3

Lớp tín chỉ

: PLU401(GD2-HK1-2021).3

Người hướng dẫn

: PGS. TS. Bùi Ngọc Sơn

Hà Nội, tháng 12 - 2021


STT

23

Họ v

T

H


Nh

24

Bùi

Phư

25

T

Kh

Phư

26

T

T



Phư

27

Trầ


M

Phư

28

Trần

Q

29

Ng

V

Th

30

Phạ

T

Tr


31


Ho

Th

Y

32



Y

33

Đỗ

L



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
NỘI DUNG.............................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ SỰ RA
ĐỜI CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020......................................................... 3
1.1. Sơ lược về Luật Doanh nghiệp 2014........................................................ 3
1.2. Những hạn chế của Luật Doanh nghiệp 2014.........................................5
1.3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp 2020..........................12
CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
DOANH NGHIỆP 2020 VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN, CÔNG

TY HỢP DANH VÀ TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ, PHÁ SẢN DOANH
NGHIỆP............................................................................................................. 15
2.1. Điểm mới trong quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn.................15
2.1.1. Điểm mới trong quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên................................................................................................... 15
2.1.2. Điểm mới trong quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên.............................................................................................................. 29
2.2. Điểm mới trong quy định về công ty hợp danh..................................... 32
2.3. Điểm mới về tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp.....................34
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VỀ CÁC ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT DOANH NGHIỆP 2020 VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN,
CÔNG TY HỢP DANH VÀ TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ, PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP............................................................................................. 45
KẾT LUẬN............................................................................................................ 49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................. 50


LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Đạo luật đầu tiên về doanh nghiệp ra đời vào năm 1999 (dựa trên sự
hợp nhất của Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty 1990), phụ thuộc vào sự thay
đổi của tình hình kinh tế xã hội, tính đến nay, Luật Doanh nghiệp đã trải qua 03 lần
thay thế: Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Doanh nghiệp
2020. Trong đó có thể nói Luật Doanh nghiệp 2014 đã và đang góp phần trong việc tạo
hành lang pháp lý an tồn, thơng thống đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt động
của doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta hiện nay. Tuy
nhiên, sau gần 05 năm thi hành, Luật Doanh nghiệp 2014 đã bộc lộ một số vấn đề bất
cập, hạn chế như: Người thành lập doanh nghiệp kê khai không đúng địa chỉ trụ sở
chính của doanh nghiệp hoặc địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp khơng phù hợp với
quy định của pháp luật; sổ đăng ký thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên;… Tất cả những vấn đề này đang gây khó khăn cho bản thân doanh nghiệp

cũng như các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan, địi hỏi cần phải có những giải
pháp khắc phục trong thời gian tới.

So với Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020 ra đời
nhằm tác động tích cực đến việc thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, thu hút vốn đầu
tư và nâng cao quản trị doanh nghiệp, hướng tới sự phát triển bền vững của doanh
nghiệp chứ không kỳ vọng tăng cao số lượng doanh nghiệp. Bộ luật đã có nhiều nội
dung sửa đổi mang tính đột phá, đổi mới cơ bản về các quy định của Nhà nước đối
với doanh nghiệp, thể chế hóa những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải
cách kinh tế; nhất quán với tiến trình cắt giảm thủ tục hành chính và tạo thuận lợi
hơn cho việc đăng ký doanh nghiệp; bổ sung các quy định không được thành lập và
quản lý doanh nghiệp; cập nhật kịp thời các quy định mới phù hợp với xu hướng
phát triển nền kinh tế thị trường; đồng thời, nội luật hóa các quy định có liên quan
trong các Điều ước quốc tế nước ta là thành viên, góp phần tạo cơ sở pháp lý đầy
đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Nhận thấy những điểm mới nổi bật trong Luật Doanh nghiệp 2020, nhóm
chúng em đã lựa chọn đề tài “Phân tích những điểm mới trong quy định của Luật
Doanh nghiệp 2020 so với Luật Doanh nghiệp 2014 về công ty trách nhiệm hữu
1


hạn, công ty hợp danh và tổ chức lại, giải thể, phá sản doanh nghiệp” làm vấn đề
nghiên cứu cho bài báo cáo bộ môn Pháp luật doanh nghiệp của mình. Qua bài báo
cáo so sánh, phân tích, chúng em mong rằng thông qua việc vận dụng những kiến
thức đã học, tham khảo từ tài liệu và những trường hợp thực tế, chúng em có thể
phần nào góp phần trong vấn đề xây dựng phát triển doanh nghiệp tại Việt Nam.
Mặc dù nhóm chúng em đã cố gắng tìm hiểu song do kiến thức còn nhiều hạn
chế nên chắc chắn khơng thể tránh khỏi những sai sót. Vì vậy chúng em rất mong
thầy góp ý bổ sung để chúng em có thể hồn thiện thêm kiến thức của mình. Chúng
em xin cảm ơn sâu sắc nhất đến giảng viên giảng dạy, PGS.TS Bùi Ngọc Sơn đã

nhiệt tình giải đáp, chỉ dạy để chúng em có thể hồn thành bài báo cáo một cách
trọn vẹn nhất!

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 VÀ SỰ RA ĐỜI
CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP 2020
1.1. Sơ lược về Luật Doanh nghiệp 2014
Hoàn cảnh ra đời
Luật Doanh nghiệp 2014 được Quốc hội khóa 13 thơng qua ngày 26/11/2014
đã được phổ biến tới các doanh nghiệp, với mục tiêu cao nhất là đưa doanh nghiệp
trở thành một công cụ kinh doanh với chi phí hợp lý hơn, an tồn hơn và hấp dẫn
hơn cho các nhà đầu tư để qua đó tăng cường thu hút và huy động hơn nữa mọi
nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở kế thừa và phát huy
những kết quả đã đạt được của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp
2005, đồng thời khắc phục những điểm hạn chế, bất cập của quy định hiện hành và
thể chế hóa các vấn đề mới phát sinh từ thực tiễn, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có
những quy định mới nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho
doanh nghiệp.
Sau cuộc đột phá về thể chế của văn bản mang tên “Luật Doanh nghiệp 1999”,
thì Luật Doanh nghiệp 2014 được coi là cuộc đột phá thể chế lần hai, thể hiện đúng
tinh thần Hiến pháp 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh
nghiệp, theo đó, những gì luật pháp khơng cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự
do đầu tư, kinh doanh.
Luật Doanh nghiệp 2014 hướng tới sự phù hợp với thực tế kinh doanh hiện tại
của doanh nghiệp và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn chế góp phần tạo điều kiện mở ra
một môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với thông lệ thế giới.
Thực tiễn áp dụng

Luật Doanh nghiệp 2014 sẽ có hiệu lực từ 01/07/2015.
Luật Doanh nghiệp 2014 với nhiều cải cách đáng kể, trao quyền tự chủ nhiều
hơn cho doanh nghiệp đã đi vào thực tiễn. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới
trong thời gian đầu tăng cao liên tục so với cùng kỳ các năm trước. Đây là tín hiệu

3


tốt cho nền kinh tế của đất nước. Luật Doanh nghiệp 2014 đã góp phần trong việc
tạo hành lang pháp lý an tồn, thơng thống đối với việc thành lập, tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta.
Thành tựu
Cùng với hàng loạt các đạo luật quan trọng như Luật đầu tư, Luật đấu thầu,
Luật kinh doanh bất động sản, Luật phá sản, các Luật về thuế…, Luật Doanh nghiệp
đã góp phần xóa bỏ rào cản về đầu tư kinh doanh không phù hợp với kinh tế thị
trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi
trường đầu tư kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng
giữa các nhà đầu tư.
Giải phóng quyền tự do kinh doanh
Với tư tưởng cải cách sâu rộng, Luật Doanh nghiệp đã lan tỏa một luồng sinh
khí mới cho mơi trường kinh doanh. Trong suốt 12 tháng triển khai vừa qua, số
lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường tăng liên tục hai con số so với cùng kỳ và
số vốn cam kết đưa vào thị trường duy trì ở mức cao cho thấy doanh nghiệp vẫn
tiếp tục tin tưởng và nhìn thấy nhiều cơ hội kinh doanh từ thị trường. Báo cáo tại
Hội nghị, Ơng Bùi Anh Tuấn - Phó Cục trưởng Cục Quản lý đăng ký kinh doanh
cho biết, những quy định mang tính cải cách mạnh mẽ của Luật Doanh nghiệp “giải
phóng quyền tự do kinh doanh”. Trong vịng 01 năm từ khi thực hiện Luật Doanh
nghiệp (1/7/2015 - 1/7/2016), cả nước đã có hơn 105.975 doanh nghiệp được thành
lập mới, với số vốn 767.900 tỷ đồng, bình quân vốn là 7,25 tỷ đồng/doanh nghiệp.
Như vậy, số doanh nghiệp thành lập mới tăng 27,8%, vốn đăng ký mới cũng tăng

trên 42% và bình quân vốn tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, trong
trong giai đoạn này cũng đã có 23.950 lượt doanh nghiệp tăng vốn điều lệ với tổng
số vốn đăng ký tăng thêm là 690 nghìn tỷ đồng.
Thủ tục hành chính thuận lợi, thân thiện
Bên cạnh việc phát huy nội lực của cộng đồng doanh nghiệp, nỗ lực của hệ
thống cơ quan đăng ký đầu tư, đăng ký kinh doanh đã đóng góp một phần lớn tạo
nên những chuyển biến mạnh mẽ này. Trong đó, sự thay đổi đáng kể nhất là chất
4


lượng dịch vụ công thể hiện ở thời gian tiếp nhận, xử lý hồ sơ, thủ tục đăng ký kinh
doanh và thái độ, tính chuyên nghiệp của cán bộ nghiệp vụ tại các địa phương. Hà
Tĩnh là địa phương xử lý hồ sơ doanh nghiệp nhanh nhất chỉ trong 01 ngày; Tiền
Giang là 1,3 ngày; Hậu Giang là 1,32 ngày và Đà Nẵng là 2,52 ngày. Thời gian
trung bình xử lý hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp mới của cả nước là 2,9 ngày.
Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên và tỷ lệ hồ sơ được trả kết quả đúng
hẹn cũng tăng lên đáng kể.
Tỷ lệ sử dụng dịch vụ đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử cũng đã được
cải thiện; trong đó, Thủ đô Hà Nội đạt bước tiến ấn tượng nhất, chỉ trong một thời
gian ngắn đã trở thành địa phương có số lượng hồ sơ đăng ký doanh nghiệp cao
nhất trên cả nước, đạt tỷ lệ 40%.
Tại một số địa phương đã áp dụng những sáng kiến tốt nhằm tạo điều kiện
thuận lợi trong thực hiện thủ tục hành chính về đăng ký kinh doanh cho doanh
nghiệp trên địa bàn.


các tỉnh thành phố, từ cán bộ đến lãnh đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư thường

xuyên trao đổi, vận động doanh nghiệp tìm hiểu, thực hiện đăng ký doanh nghiệp
qua mạng điện tử. Khi lần đầu doanh nghiệp đến làm thủ tục, nếu chưa biết đến tiện

ích trên thì sẽ được cán bộ đăng ký kinh doanh hướng dẫn về việc lựa chọn nộp hồ
sơ giấy hay hồ sơ qua mạng. Nếu doanh nghiệp chọn nộp hồ sơ qua mạng thì nhân
viên ngồi tại quầy, hỗ trợ chi tiết cho đến khi doanh nghiệp khai xong hồ sơ trên
máy. Sau lần đầu tiên, doanh nghiệp hồn tồn có thể ngồi tại nhà để thực hiện thủ
tục. Doanh nghiệp nộp hồ sơ qua mạng sẽ được giải quyết trong vòng 02 ngày thay
vì 03 ngày như quy định.
1.2. Những hạn chế của Luật Doanh nghiệp
2014 Về việc đăng ký kinh doanh
Tại Điều 3 Luật Doanh nghiệp năm 2014 có quy định về áp dụng Luật Doanh
nghiệp và các luật chuyên ngành, mà theo đó: “Trường hợp luật chuyên ngành có
quy định đặc thù về việc thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt
động có liên quan của doanh nghiệp thì áp dụng quy định của Luật đó.” Nhưng hiện

5


nay, hoạt động luật sư, công chứng, giám định, giáo dục và đào tạo, trọng tài thương
mại,... cũng đã được xác định rõ là các ngành, nghề đầu tư kinh doanh theo Luật
Đầu tư năm 2014. Tuy nhiên các ngành, nghề này lại không được đăng ký kinh
doanh tại Cơ quan đăng ký kinh doanh, mà chỉ được thực hiện việc cấp giấy phép
và đăng ký hoạt động riêng theo Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm
2012); Luật Công chứng năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Giám định tư
pháp năm 2012, Luật Giáo dục đại học năm 2012; Luật Giáo dục nghề nghiệp năm
2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Luật Trọng tài thương mại năm 2010;... Hậu quả
là nhiều tổ chức hành nghề luật sư, như công ty luật và tổ chức khác hoạt động như
một doanh nghiệp, nhưng lại hồn tồn khơng có thơng tin trên “Cơ sở dữ liệu quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp” theo quy định tại khoản 6, Điều 4 về Giải thích từ
ngữ của Luật Doanh nghiệp năm 2014.Tương tự, ngân hàng thương mại, cơng ty tài
chính thì đăng ký doanh nghiệp như các doanh nghiệp khác, trong khi Công ty bảo
hiểm, là một doanh nghiệp điển hình, thì lại khơng thực hiện thủ tục này. Vì theo

Điều 65 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010), quy
định: “Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh.” Trong khi đó, hộ kinh doanh hay hợp tác xã, tuy không được xác định là
doanh nghiệp theo theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014 hay Luật Hợp
tác xã năm 2012, nhưng vẫn thực hiện việc đăng ký kinh doanh như đối với doanh
nghiệp. Do vậy, đề nghị xem xét quy định này của Luật Doanh nghiệp năm 2014
hoặc Luật Đầu tư năm 2014 theo hướng yêu cầu thống nhất đăng ký kinh doanh tập
trung đối với tất cả các cơng ty và tổ chức có hoạt động kinh doanh.
Về việc kê khai địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp khi thực hiện thủ
tục đăng ký thành lập doanh nghiệp
Theo quy định tại khoản 7, Điều 4 Luât Doanh nghiêp 2014, doanh nghiệp là “tổ
chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh”. Trụ sở giao dịch của doanh nghiệp không
hẳn chỉ là một địa chỉ để các khách hàng đến giao dịch, đây còn là nơi tập trung hệ
thống các cơ quan đầu não của doanh nghiêp. Đồng thời, nó cũng là một trong những
minh chứng quan trọng cho sự tồn tại trên thực tế của doanh nghiêp. Để xác định được
địa chỉ trụ sở giao dịch của doanh nghiệp, khi quy định về
6


nội dung của giấy đề nghị đăng kí doanh nghiêp, khoản 2, Điều 24 Luât Doanh
nghiêp 2014 đã quy định người đăng kí doanh nghiêp phải tiến hành kê khai địa chỉ
trụ sở chính của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có khơng ít trường hợp người
đăng ký thành lập doanh nghiệp đã kê khai không đúng địa chỉ như: Ghi địa chỉ ở
một nơi nhưng thực tế đặt trụ sở chính tại một nơi khác; lấy địa chỉ nhà riêng của
người khác hồn tồn khơng liên quan đến doanh nghiệp làm địa chỉ trụ sở chính
cho cơng ty mình hoặc lấy địa chỉ nhà chung cư (có mục đích để ở) làm địa chỉ trụ
sở chính của Doanh nghiệp. Chính điều này đã khiến các cơ quan nhà nước (như cơ
quan thuế, cơng an,…) khó liên hệ cơng tác và kiểm sốt, sinh ra các hệ lụy “dở
khóc dở cười”. Bên cạnh đó, hiện tượng lấy địa chỉ nhà chung cư (có mục đích để

ở) làm địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp là hành vi vi phạm pháp luật về nhà ở.
Bởi lẽ, theo quy định của pháp luật về nhà ở, nhà chung cư có hai loại: Loại để ở và
loại có mục đích sử dụng hỗn hợp - là vừa để ở và vừa kinh doanh. Tuy nhiên, tại
khoản 11, Điều 6 Luật nhà ở năm 2014 có quy định nghiêm cấm việc “sử dụng căn
hộ chung cư vào mục đích khơng phải để ở; sử dụng phần diện tích được kinh
doanh trong nhà chung cư theo dự án được phê duyệt vào mục đích kinh doanh vật
liệu gây cháy, nổ, kinh doanh dịch vụ gây ô nhiễm môi trường, tiếng ồn hoặc các
hoạt động khác làm ảnh hưởng đến cuộc sống của các hộ gia đình, cá nhân trong
nhà chung cư theo quy định của Chính phủ”. Do đó, nhà chung cư có mục đích để ở
khơng được phép sử dụng làm địa chỉ trụ sở chính của doanh nghiệp. Nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này là do pháp luật doanh nghiệp hiện hành trao cho người đăng
ký toàn quyền kê khai địa chỉ mà thiếu xác minh đối chiếu. Tức là, thực hiện theo
thủ tục “tiền bng hậu kiểm”, đến khi có vấn đề xảy ra thì cơ quan chức năng rất
khó có thể liên lạc được với doanh nghiệp.
Về sổ đăng ký thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên
Theo quy định tại Điều 49 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Cơng ty phải lập sổ
đăng ký thành viên ngay sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Sổ đăng ký thành viên phải có các nội dung chủ yếu sau đây: a) Tên, mã số doanh
nghiệp, địa chỉ trụ sở chính của cơng ty; b) Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số
Thẻ căn cước công dân, Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu hoặc chứng thực cá
7


nhân hợp pháp khác đối với thành viên là cá nhân; tên, số quyết định thành lập hoặc
mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính đối với thành viên là tổ chức; c) Phần vốn
góp, giá trị vốn đã góp, thời điểm góp vốn, loại tài sản góp vốn, số lượng, giá trị của
từng loại tài sản góp vốn của từng thành viên; d) Chữ ký của thành viên là cá nhân
hoặc của người đại diện theo pháp luật của thành viên là tổ chức; đ) Số và ngày cấp
giấy chứng nhận phần vốn góp của từng thành viên”. Theo tinh thần của Điều luật

này, sổ đăng ký thành viên chỉ đóng vai trị là nơi lưu giữ các thông tin cần thiết liên
quan đến cá nhân, tổ chức góp vốn vào cơng ty và các thơng tin liên quan đến phần
vốn góp của họ. Nếu có biến động khi trong cơng ty có thành viên chuyển nhượng
một phần hoặc tồn bộ phần vốn góp của mình cho người ngồi cơng ty hoặc cơng
ty tiếp nhận thêm thành viên mới để tăng vốn điều lệ thì thành viên mới đó chỉ trở
thành thành viên chính thức của cơng ty khi cơng ty hồn tất xong thủ tục đăng ký
thay đổi thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên (Điều 45
Nghị định số 78/2015 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp). Trong khi đó, đối
với cơng ty cổ phần, khi có sự thay đổi về tư cách cổ đông trong công ty, họ không
cần phải làm thủ tục đăng ký thay đổi cổ đông tại phòng đăng ký kinh doanh nữa
mà tư cách cổ đông đã được xác lập vào thời điểm khi bên bán được thanh tốn đủ
và những thơng tin về người mua quy định tại khoản 2, Điều 121 của Luật Doanh
nghiệp 2014 được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đơng. Kể từ thời điểm đó, người
mua cổ phần trở thành cổ đông của công ty. Quy định này giúp công ty cổ phần
giảm bớt được thủ tục thông báo thay đổi cổ đông đến cơ quan đăng ký kinh doanh,
tiết kiệm được thời gian và chi phí. Do đó, việc bổ sung thêm vai trị của sổ đăng ký
thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên để tiết giảm về thời
gian, chi phí cho loại hình cơng ty này cũng cần phải được tính đến.
Về cơ cấu tổ chức cơng ty cổ phần
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014, Cơng
ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một mô hình: “Đại
hội đồng cổ đơng, Hội đồng quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường hợp
này ít nhất 20% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có
Ban kiểm tốn nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên độc lập thực
hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều
8


hành cơng ty”. Trong mơ hình tổ chức này, có sự xuất hiện của Ban kiểm toán nội
bộ. Ban này có chức năng “giám sát và tổ chức thực hiện kiểm sốt đối với việc

quản lý điều hành cơng ty”. Tức là, Ban kiểm toán nội bộ phải hỗ trợ Đại hội đồng
cổ đông giám sát việc quản lý, điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc và các cấp quản lý điều hành khác trong công ty. Tuy nhiên,
quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2014 lại quy định Ban
kiểm toán nội bộ phải trực thuộc Hội đồng quản trị, tức là Ban này do Hội đồng
quản trị lập ra và thực hiện nhiệm vụ được Hội đồng quản trị giao phó. Điều này
khiến cho việc thực hiện nhiệm vụ kiểm soát của Ban đối với hoạt động của Hội
đồng quản trị gặp rất nhiều khó khăn, “ngược” với lẽ thường nếu khơng muốn nói là
bị tê liệt. Không những vậy, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản hướng
dẫn thi hành cũng khơng có bất cứ quy định nào về cơ cấu tổ chức quản lý của Ban
kiểm toán nội bộ, trách nhiệm của Ban kiểm toán nội bộ, điều kiện, tiêu chuẩn
thành viên và Trưởng Ban kiểm toán nội bộ, các chế độ về lương lẫn các quyền lợi
của thành viên Ban kiểm toán nội bộ, việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên
và Trưởng Ban kiểm tốn nội bộ;… Điều này khiến các cơng ty cổ phần gặp nhiều
khó khăn, dung túng khi muốn áp dụng mơ hình vào cơ cấu tổ chức quản lý công ty.
Về vấn đề họp Hội đồng quản trị công ty cổ phần
Theo quy định tại khoản 8, Điều 153 Luật Doanh nghiêp 2014 thì “Cuộc họp
Hội đồng quản trị được tiến hành khi có từ ba phần tư tổng số thành viên trở lên dự
họp. Trường hợp cuộc họp được triệu tập theo quy định khoản này không đủ số
thành viên dự họp theo quy định thì được triệu tập lần thứ hai trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày dự định họp lần thứ nhất, trừ trường hợp Điều lệ quy định thời hạn
khác ngắn hơn. Trường hợp này, cuộc họp được tiến hành, nếu có hơn một nửa số
thành viên Hội đồng quản trị dự họp”. Theo tinh thần của quy định này, cuộc họp
Hội đồng quản trị chỉ được tiến hành khi có từ 3/4 tổng số thành viên dự họp (đối
với lần triệu tập thứ nhất) và khi có hơn 1/2 thành viên Hội đồng quản trị dự họp
(đối với lần triệu tập họp thứ hai ngay sau lần thứ nhất). Tuy nhiên trên thực tế, sẽ
có khơng ít trường hợp người có thẩm quyền triệu tập cuộc họp Hội đồng quản trị
đã gửi thông báo mời họp hợp lệ đến các thành viên 02 lần nhưng vẫn không tiến

9



hành họp được do không đủ số lượng, làm ảnh hưởng đến q trình điều hành hoạt
động của cơng ty, phương hại đến lợi ích của các cổ đơng trong công ty.
Về hợp đồng, giao dịch phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng
quản trị chấp thuận
Điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định về trường hợp mà những hợp
đồng, giao dịch của doanh nghiệp phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng
quản trị chấp thuận. Theo đó thì những hợp đồng, giao dịch giữa cơng ty với các đối
tượng sau đây phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận:
a)

Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ

phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của họ;
b)

Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người có

liên quan của họ;
c)

Doanh nghiệp quy định tại khoản 2, Điều 159 Luật này.

Quy định này đặt ra nhằm mục đích hạn chế những rủi ro có thể xảy ra cho
doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng với những người có quyền và lợi ích liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp tới nội dung hợp đồng đó.
Tuy nhiên, phạm vi hạn chế của Điều luật này quá rộng mà đặc biệt là tại điểm
c, khoản 1, Điều 162 Quy định là:
"Doanh nghiệp quy định tại khoản 2, Điều 159 Luật này”. Cụ thể, tại khoản 2,

Điều 159 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định như sau: “Thành viên Hội đồng quản
trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác của công
ty phải kê khai các lợi ích liên quan của họ với cơng ty, bao gồm:
a)

Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của

doanh nghiệp mà họ có sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần; tỷ lệ và thời điểm sở
hữu phần vốn góp hoặc cổ phần đó;
b)

Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của

doanh nghiệp mà những người có liên quan của họ cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng
phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ”.
10


Theo quy định trên thì phạm vi mà những Hợp đồng, giao dịch phải được Đại
hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận sẽ rất rộng mà đặc biệt là
những doanh nghiệp mà những người có liên quan của họ cùng sở hữu hoặc sở hữu
riêng phần vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ.
Ngồi ra, theo quy định tại khoản 17, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì
“Người có liên quan là tổ chức, cá nhân có quan hệ trực tiếp hoặc gián tiếp với
doanh nghiệp trong các trường hợp sau đây:
a)

Công ty mẹ, người quản lý cơng ty mẹ và người có thẩm quyền bổ nhiệm

người quản lý đó đối với cơng ty con trong nhóm cơng ty;

b)
c)

Cơng ty con đối với cơng ty mẹ trong nhóm cơng ty;

Người hoặc nhóm người có khả năng chi phối việc ra quyết định, hoạt động

của doanh nghiệp đó thơng qua cơ quan quản lý doanh nghiệp;
d)

Người quản lý doanh nghiệp;

đ) Vợ, chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị
ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người quản lý công ty hoặc của
thành viên, cổ đơng sở hữu phần vốn góp hay cổ phần chi phối;
e)

Cá nhân được ủy quyền đại diện cho những người, công ty quy định tại các

điểm a, b, c, d và đ khoản này;
g)

Doanh nghiệp trong đó những người, công ty quy định tại các điểm a, b, c,

d, đ, e và h khoản này có sở hữu đến mức chi phối việc ra quyết định của các cơ
quan quản lý ở doanh nghiệp đó;
h)

Nhóm người thỏa thuận cùng phối hợp để thâu tóm phần vốn góp, cổ phần


hoặc lợi ích ở cơng ty hoặc để chi phối việc ra quyết định của công ty.”
Với những dẫn chứng nêu trên có thể thấy những hợp đồng, giao dịch phải
được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận sẽ rất rộng. Vậy có
cần thiết phải quy định một phạm vi rộng như vậy không hay là nên thu hẹp lại để
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể hoạt động tự do hơn.

11


Cũng theo quy định tại Điều này thì: “Hội đồng quản trị chấp thuận các hợp
đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản doanh nghiệp ghi trong
báo cáo tài chính, gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công
ty. Trường hợp này, người đại diện công ty ký hợp đồng phải thông báo các thành
viên Hội đồng quản trị, Kiểm sốt viên về các đối tượng có liên quan đối với hợp
đồng, giao dịch đó; đồng thời kèm theo dự thảo hợp đồng hoặc nội dung chủ yếu
của giao dịch. Hội đồng quản trị quyết định việc chấp thuận hợp đồng hoặc giao
dịch trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo trừ trường hợp Điều lệ
công ty quy định một thời hạn khác và “Đại hội đồng cổ đông chấp thuận các hợp
đồng và giao dịch khác ngoài các giao dịch quy định tại khoản 2 Điều này”.
Có thể thấy rằng, những trường hợp cần được Hội đồng quản trị chấp thuận sẽ
có thời hạn trong 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo; những trường hợp cần
được Đại hội đồng cổ đơng chấp thuận thì khơng quy định thời hạn nhưng phải tiến
hành cuộc họp đại Hội đồng cổ đông hoặc lấy ý kiến bằng văn bản thì thời gian sẽ
kéo dài hơn rất nhiều. Như vậy sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của công ty cũng
như những đối tác có liên quan.
1.3. Sự cần thiết phải ban hành Luật Doanh nghiệp 2020
Pháp luật về doanh nghiệp với trọng tâm là Luật Doanh nghiệp cùng những
Nghị định có liên quan đã xây dựng lên một môi trường kinh doanh thuận lợi, bình
đẳng cho các doanh nghiệp kinh doanh trên địa bàn lãnh thổ Việt Nam. Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đã có tác động tích cực trong mơi trường kinh doanh, thúc đẩy

huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh, góp phần duy trì tăng trưởng và
giải quyết các vấn đề xã hội. Một số nội dung quan trọng của Luật như đăng ký
doanh nghiệp, bảo vệ cổ đông thiểu số được ghi nhận đã được Luật Doanh nghiệp
năm 2014 thay đổi mạnh mẽ so với trước đây.
Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp 2014 sau 06 năm có hiệu lực đã bộc lộ một số
hạn chế khơng cịn phù hợp trong hoàn cảnh mới, tạo gánh nặng về mặt chi phí, thời
gian cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ một số nội dung của Luật. Bên cạnh đó,
một số Luật mới có liên quan mới ban hành gần đây cũng tác động khiến Luật
Doanh nghiệp 2014 khơng cịn phù hợp. Quan trọng hơn, nội dung của Luật cần
12


phải được hoàn thiện thêm để nhằm nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh
của doanh nghiệp theo yêu cầu của Chính phủ và đạt chuẩn mực theo thơng lệ quốc
tế. Một số hạn chế mà cần phải nâng cao hơn bao gồm như sau:
Một, so với các quốc gia trong khu vực và thế giới thì quá trình khởi nghiệp
kinh doanh và gia nhập thị trường của nước ta đang được đánh giá ở mức thấp. Một
số thủ tục trong Luật cũ khơng cịn cần thiết, ngồi ra một số thủ tục còn phải nộp
hồ sơ bản cứng làm chậm quá trình gia nhập thị trường của các doanh nghiệp mới.
Hai, các cổ đông, nhà đầu tư chưa thực sự được tạo thuận lợi để thực hiện
quyền của mình. Trên thực tế cổ đông lớn và công ty thường cịn lạm dụng quyền
gây tổn hại cho cổ đơng, nhà đầu tư nhỏ.
Ba, quy định về tổ chức doanh nghiệp cịn có bất cập, hạn chế có thể kể đến
như: quy định về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp chưa được bao quát hết theo
các Luật có liên quan như Luật Cạnh tranh 2018. Các trường hợp chia, tách doanh
nghiệp còn hạn chế quyền, lựa chọn trong việc tổ chức lại doanh nghiệp.
Bốn, các quy định về đăng ký và tổ chức hoạt động của hộ kinh doanh theo
các đánh giá đã cho thấy một số khiếm khuyết như: không rõ về địa vị pháp lý và
trách nhiệm dân sự, quyền kinh doanh bị giới hạn trong phạm vi cấp huyện, quận,…
Vì có những hạn chế về mặt pháp lý như thế này dẫn đến việc các hộ kinh doanh

không pháp huy được tối đa cơ hội kinh doanh, dẫn đến việc không phát triển được
tiềm năng phát triển của hộ kinh doanh.
Năm, về tổ chức quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có
phần vốn góp của Nhà nước. Nghị quyết số 12 –NQ/TW của Hội nghị Trung ương
khóa XII đã cơ cấu lại hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nhằm đổi mới nâng
cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Qua Nghị quyết số 12-NQ/TW đã chỉ rõ các
quan điểm chỉ đạo về doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy, các quy định về doanh nghiệp
nhà nước của Luật Doanh nghiệp 2014 đã khơng cịn đúng với chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước vì vậy cần phải được rà soát lại, bổ sung, sửa đổi bổ sung nhằm thể chế
hóa các chỉ đạo trong Nghị quyết số 12-NQ/TW.

13


Từ những nội dung nêu trên về các hạn chế mà sau 06 năm có hiệu lực Luật
Doanh nghiệp 2014 đã biểu hiện ra thực tế, thì việc ban hành Luật Doanh nghiệp
mới để phù hợp với sự thay đổi về kinh tế xã hội trong bối cảnh các mạng công
nghiệp 4.0, và yêu cầu khắc phục những hạn chế mà Luật Doanh nghiệp 2014 còn
tồn tại.

14


CHƯƠNG 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH
NGHIỆP 2020 VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN, CÔNG TY HỢP
DANH VÀ TỔ CHỨC LẠI, GIẢI THỂ, PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
2.1. Điểm mới trong quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn
2.1.1. Điểm mới trong quy định về công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên
Về quyền phát hành cổ phần và trái phiếu

Về cổ phần
Khoản 3, Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: “Công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được quyền phát hành cổ phần”. Quy
định này hiện nay đang tạo ra vướng mắc là: Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên phải chờ hoàn tất các thủ tục chuyển đổi thành công ty cổ phần rồi mới có thể
phát hành cổ phần chứ khơng được phép chuyển đổi thành công ty cổ phần bằng
cách phát hành cổ phần. Điều này tạo nên những sự lãng phí về thời gian, khó khăn
khơng đáng có trong q trình huy động thành viên và vốn.
Để giúp các doanh nghiệp thốt khỏi tình trạng này, khoản 3, Điều 46 Luật
2020 đã đưa ra quy định “Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên không được
phát hành cổ phần, trừ trường hợp để chuyển đổi thành công ty cổ phần”. Ví dụ,
Cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên X thực hiện chuyển đổi thành Công ty
cổ phần X năm 2015. Trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp 2020, công ty Cổ
phần X không được phép phát hành cổ phần để huy động vốn. Sau thời điểm ban
hành và thực hiện Luật Doanh nghiệp 2020, công ty Cổ phần X được phép phát
hành cổ phần để chuyển đổi thành Cơng ty cổ phần.
Có thể thấy, đây là một quy định sửa đổi nhằm phù hợp với thực tiễn và giải
quyết các vướng mắc đang tồn tại, giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc
huy động vốn, mở rộng quy mô thành viên. Tuy vậy, Điều này mặt khác lại một
phần tạo điều kiện cho người xấu thao túng, chiếm đoạt công ty qua việc mua,
chiếm giữ tỉ lệ vốn công ty.
Về trái phiếu

15


Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2014 không quy định rõ công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên được quyền phát hành trái phiếu như theo quy định tại
khoản 1, Điều 2 Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 04/12/2018 của Chính phủ
quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị

định số 81/2020/NĐ-CP) thì đối tượng áp dụng đối với Nghị định này có nêu rõ:
“Doanh nghiệp phát hành trái phiếu là cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam”. Và đến năm 2020 đã
chính thức bổ sung thêm quy định về quyền của công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên về quyền được phát hành trái phiếu, tuy nhiên phải phù hợp với quy định
của Luật này và của pháp luật khác có liên quan.
Có thể nói đây là quyền lợi chính đáng mà cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên được hưởng và đã được pháp luật thừa nhận, do đó việc ghi nhận quyền
này cụ thể trong khoản 4, Điều 46 Luật Doanh nghiệp 2020 là điều cần thiết và phù
hợp. Điều này không chỉ tạo hành lang pháp lý vững chắc và minh thị cho cơng tác
áp dụng và thực thi pháp luật mà cịn giúp doanh nghiệp và các chủ thể khác trong
xã hội an tâm hơn trong vấn đề phát hành trái phiếu của doanh nghiệp để huy động
vốn.
Về vốn góp doanh nghiệp
Về thời hạn góp vốn
Khoản 2, Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020 bổ sung quy định: “Thời hạn góp
vốn là 90 ngày kể từ ngày doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, không kể thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục
hành chính để chuyển quyền sở hữu tài sản.”
Việc bổ sung quy định mới này là để đảm bảo tính khả thi của hoạt động góp
vốn trên thực tế. Hiện nay, nhiều trường hợp người thành lập doanh nghiệp khơng
thể hồn tất việc góp vốn bằng tài sản là máy móc, thiết bị...trong thời hạn 90 ngày
như quy định của Luật Doanh nghiệp 2014. Bởi vì, việc vận chuyển, nhập khẩu
máy móc, thiết bị là tài sản góp vốn có thể mất nhiều thời gian, như: Thời gian vận
chuyển sang Việt Nam, thời gian làm các thủ tục hành chính nhập khẩu cần thiết…

16


Nhiều trường hợp, thời gian này kéo dài hơn nhiều so với thời hạn phải hồn thành

việc góp vốn trong 90 ngày theo yêu cầu của doanh nghiệp. Ví dụ, Chủ sở hữu A
cam kết góp vốn thành lập Cơng ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên A một tài
sản cố định là chiếc xe nhập khẩu từ Mỹ. Thời gian vận chuyển và thủ tục hành
chính là 30 ngày. Trường hợp công ty thành lập ngày 30/06/2015 (ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp): Nếu ngày 05/10/2015 quá 90 ngày thực
hiện góp vốn, chiếc xe mới về đến cơng ty thì A đã vi phạm Điều 74 Luật Doanh
nghiệp 2014. Trường hợp công ty thành lập ngày 30/06/2021: nếu ngày 05/10/2021,
chiếc xe mới về đến công ty, thì A khơng vi phạm Điều 75 Luật Doanh nghiệp 2020.
Vì hạn góp vốn là 30/10/2021.
Ngồi ra tại điều khoản này, Luật cũng đưa ra định nghĩa rõ ràng hơn về khái
niệm “sự tán thành của đa số thành viên” so với Luật Doanh nghiệp 2014 khi điều
chỉnh thêm: “Trong thời hạn này, thành viên góp vốn vào doanh nghiệp có các
quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ phần vốn đã cam kết; Thành viên công ty chỉ
được góp vốn cho cơng ty bằng loại tài sản khác với tài sản đã cam kết nếu được sự
tán thành của trên 50% số thành viên còn lại”. Việc sửa đổi này góp phần giúp luật
chặt chẽ, dễ hiểu, dễ áp dụng hơn.
Về việc điều chỉnh vốn điều lệ
Khoản 4, Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020 đã rút ngắn thời hạn thay đổi vốn
điều lệ, tỷ lệ vốn góp của các thành viên từ 60 xuống còn 30 ngày kể từ ngày cuối
cùng phải góp đủ phần vốn góp. Có thể thấy việc rút ngắn thời hạn này là phù hợp
sau khi đã nới lỏng thời hạn góp vốn ở khoản 2 nói trên. Giả dụ nếu hạn góp vốn
của anh A là 1/3/2016 mà anh vẫn chưa góp đủ phần vốn góp của mình thì cơng ty
phải làm thủ tục thay đổi vốn điều lệ, vốn góp của các thành viên trước ngày
30/4/2016. Nhưng nếu trong cùng tình huống tại năm 2021 thì hạn sẽ là ngày
31/3/2021.
Về thời điểm người góp vốn trở thành thành viên
Luật Doanh nghiệp 2020 đã bổ sung thêm khoản 5, Điều 47: “Trừ trường hợp
quy định tại khoản 2, Điều này, người góp vốn trở thành thành viên của công ty kể

17



×