Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

tiểu luận phân tích chi phí lợi ích phân tích lợi ích chi phí của việc hội nhập kinh tế đông nam á đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.25 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các nước thành viên
ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đều là những thực thể đa quốc gia
và quốc gia có vị trí, vai trò ngày càng lớn hơn trong sự phát triển chung của
Đông Nam Á và cả thế giới. Chính do vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế
và khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nên trong hơn thập niên vừa qua ASEAN
đã được thế giới đặc biệt quan tâm trong các chính sách hợp tác phát triển kinh
tế. Thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế của các nước Đông Nam Á
(ASEAN) trong thời gian vừa qua đã được cả thế giới công nhận.
Về thương mại hàng hóa, theo cam kết của Hiệp định Thương mại hàng hóa
ASEAN (ATIGA), các nước ASEAN đã tiến rất gần đến mục tiêu xóa bỏ hoàn
toàn hàng rào thuế quan đối với các nước ASEAN 6 (năm nước sáng lập và Brunây), 99,2% số dòng thuế đã được xóa bỏ, trong khi 90,9% số dòng thuế của các
nước gia nhập sau là Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và Việt Nam (các nước
CLMV) đã được xóa bỏ tính tới năm 2017. Dự kiến, tới hết năm 2018, tỷ lệ xóa
bỏ thuế quan trong toàn ASEAN sẽ đạt 98,67%. Ngoài tự do hóa thuế quan, các
nước ASEAN cũng đang triển khai các biện pháp tạo thuận lợi cho hoạt động
thương mại của các doanh nghiệp (DN) như dự án thí điểm cơ chế tự chứng nhận
xuất xứ, cơ chế hải quan một cửa...; các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRA) về
tiêu chuẩn trong các lĩnh vực điện-điện tử, cao-su, thực phẩm chế biến sẵn, dược
phẩm và thiết bị y tế...
Về thương mại dịch vụ, tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những
ưu tiên quan trọng trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương
mại dịch vụ giữa các nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp
định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được
đàm phán nhằm tự do hóa dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN.

1



Về hợp tác ngoại khối, ASEAN đã ký kết và thực hiện sáu hiệp định thương
mại tự do (FTA) bao gồm: nội khối ASEAN (AFTA); và 5 FTA giữa ASEAN với
các đối tác Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật, Ấn Ðộ, Úc và Niu Di-lân.
Trong tương lai, nếu như ASEAN ngày càng phát triển trở thành một cộng
đồng kinh tế lớn mạnh thì không thể không kể đến Việt Nam cùng với những
thách thức và cơ hội trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước Đông Nam Á.
Trong bối cảnh chung đó, dưới đây, chúng ta sẽ xem xét riêng vị thế của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập với các nước Đông Nam Á cùng những chi phí và
lợi ích đối với nước ta trong tiến trình đó.
2. Mục đích của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, nêu
thực trạng hội nhập kinh tế Đông Nam Á hiện nay, sau đó đưa ra các đánh giá về
lợi ích và chi phí của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế ASEAN, cuối
cùng đề ra giải pháp cần thiết để cải thiện thực trạng này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việt Nam và các nước Đông Nam Á.
- Phạm vi nghiên cứu: Hội nhập kinh tế Việt Nam và Đông Nam Á.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá chi phí – lợi ích,…
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan tình hình hội nhập kinh tế Đông Nam Á hiện nay.
Chương II: Phân tích các tác động của quá trình hội nhập kinh tế Đông Nam
Á đến Việt Nam.
Chương III: Giải pháp để Việt Nam hội nhập kinh tế Đông Nam Á hiệu quả.

2


CHƯƠNG I:

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ ĐÔNG NAM Á HIỆN
NAY

1. Các thỏa thuận, hiệp định kinh tế khu vực Đông Nam Á:
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được thành lập vào cuối năm 2015 cùng
các thoả thuận kinh tế khác được đánh giá là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa
nhập toàn diện của các nền kinh tế khu vực Đông Nam Á.
1.1. Thương mại hàng hóa:
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đóng vai trò quan trọng
trong các quyết định liên quan đến lĩnh vực thương mại hàng hóa của các nước
Đông Nam Á. Hiệp định được ký kết ngày 26/02/2009, chính thức có hiệu lực từ
ngày 17/5/2010 khi Thái Lan, nước thành viên cuối cùng của ASEAN nộp văn
kiện phê chuẩn Hiệp định ATIGA cho ban Thư ký ASEAN.
ATIGA điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây
dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống nhất trong CEPT/AFTA
cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết
trong ATIGA là các nước ASEAN phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương
hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận
thương mại tự do (FTA) mà ASEAN là một bên của thỏa thuận. Hiệp định bao
gồm các nội dung chính như:
Xóa bỏ hàng rào thuế quan:
Đối với hiệp định AFIGA, đến năm 2015, cơ bản các mặt hàng sẽ được xóa bỏ
thuế quan trong khuôn khổ này và 7% tổng số dòng thuế được linh hoạt đến năm
2018. Cụ thể, đối với ASEAN 6 (gồm Bru-nei, In-đô-nê-si-a, Ma-lai-si-a, Philipine,
Sin-ga-po và Thái Lan) vào năm 2010, với các nước CLMV (Cam-pu-chia, Lào, Myan-ma, Việt Nam) vào năm 2015 và một số linh hoạt đến 2018 (khoảng 7% tổng số
dòng thuế). Ngoài ra, một số mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm
3


của Việt Nam như mía đường… được phép duy trì mức thuế suất 5% sau giai

đoạn 2018.
Xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh,
kiểm dịch…:
Về các biện pháp phi thuế quan, được quy định tại Chương 4, theo đó các
nước còn áp dụng hạn ngạch thuế quan sẽ dỡ bỏ TRQ (hạn ngạch thuế quan) theo
ba gói thống nhất với Chương trình làm việc về xoá bỏ hàng rào phi thuế quan.
Các nước thành viên ASEAN sẽ xoá bỏ hàng rào phi thuế quan theo ba gói với
thời gian quy định cụ thể tại Điều 42 của Hiệp định: Brunei, Indonesia, Malaysia,
Singapore, Thái lan sẽ xoá bỏ lần lượt vào các năm 2008, 2009 và 2010;
Philippines xoá bỏ lần lượt vào các năm 2010, 2011, 2012; các nước CLMV xoá
bỏ lần lượt vào các năm 2013, 2014, 2015, có linh hoạt tới năm 2018.
Về quy tắc xuất xứ, ATIGA kế thừa toàn bộ Bộ quy tắc xuất xứ đã được sửa
đổi và quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ của Hiệp định
CEPT/AFTA, ngoài tiêu chí xuất xứ thuần tuý, cộng gộp với 40% hàm lượng khu
vực đã được quy định như trước đây, các quy định về chuyển đổi mã số thuế, quy
tắc xuất xứ cụ thể (PSR) được quy định linh hoạt hơn nhằm bảo đảm thực hiện
nguyên tắc cam kết nội khối phải tương đương hoặc thuận lợi hơn so với cam kết
dành cho các nước đối tác trong các khu vực mậu dịch tự do ASEAN cộng.
Xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong
bối cảnh xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
ATIGA còn là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ
thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các
cam kết đã được thống nhất trong CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư
có liên quan. Nguyên tắc xây dựng cam kết trong ATIGA là các nước ASEAN
phải dành cho nhau mức ưu đãi tương đương hoặc thuận lợi hơn mức ưu đãi dành
cho các nước đối tác trong các Thỏa thuận thương mại tự do (FTA) mà ASEAN
là một bên của thỏa thuận.

4



Hiệp định ATIGA là thành tựu to lớn, góp phần thiết lập thị trường và cơ sở
sản xuất đồng nhất để xây dựng AEC vào năm 2015 cũng như góp phần thúc đẩy
thương mại nội khối thông qua việc đơn giản hóa các thủ tục, giảm bớt thời gian
và chi phí kinh doanh, từ đó làm tăng lợi nhuận cho khối doanh nghiệp và đông
đảo người tiêu dùng. Tuy nhiên viêc gỡ bỏ hàng rào thuế quan càng đến gần,
hàng rào kỹ thuật càng trở nên đa dạng, phức tạp hơn đối với các doanh nghiệp và
hàng xuất khẩu. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước cần có sự chuẩn bị
chu đáo nhằm cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu có mức giá ngày càng giảm.
1.2. Thương mại dịch vụ:
Tự do hóa thương mại dịch vụ là một trong những ưu tiên quan trọng trong
cộng đồng kinh tế ASEAN. Quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các
nước ASEAN được thực hiện trong khuôn khổ của Hiệp định khung ASEAN về
dịch vụ (AFAS), ký kết vào năm 1995 và tiếp tục được đàm phán nhằm tự do hóa
dần dần thương mại dịch vụ giữa các nước ASEAN. Mục đích của Hiệp định là
thúc đẩy hợp tác trong nội bộ khu vực ASEAN, hướng tới các mục tiêu:
Xóa bỏ rào cản thương mại
Đẩy mạnh hợp tác đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ
Đến nay, các nước ASEAN đã ký gần 10 gói cam kết về thương mại dịch vụ.
Các cam kết về tự do hóa thương mại bao gồm nhiều lĩnh vực như: xây dựng, môi
trường, dịch vụ kinh doanh, dịch vụ chuyên nghiệp, phân phối hàng hóa, giáo dục,
vận tải biển, viễn thông và du lịch. Các cam kết trong AFAS đều có phạm vi rộng và
mức độ tự do hóa sâu hơn so với cam kết trong khuôn khổ WTO. Nhằm mục đích
thúc đẩy hợp tác dịch vụ giữa các nước thành viên ASEAN, nâng cao hiệu quảvà sức
cạnh tranh của khối, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) đã và đang được
thực thi với cam kết mở cửa hoàn toàn đối với 128 phân ngành.

1.3. Đầu tư:
Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area – gọi tắt là AIA) được
hiểu là khu vực đầu tư giữa các nước ASEAN, mà tại đó các quốc gia thành viên

tiến hành các hoạt động tự do hóa, bảo hộ, xúc tiến và thuận lợi hóa đầu tư nhằm
5


thu hút đầu tư trong và ngoài khối, tăng cường khả năng cạnh tranh và phát triển
năng động của ASEAN.
Đến năm 1996, thêm một văn bản nữa của ASEAN đã được kí kết nhằm tạo
đà cho những bước khởi sự của quá trình tự do hóa đầu tư nước ngoài là Công
ước về Khu vực đầu tư ASEAN nhằm tăng cường niềm tin đầu tư vào khu vực
ASEAN của các nhà đầu tư. Trong tuyên bố chung cuộc họp Thượng đỉnh không
chính thức của ASEAN về tình hình tài chính ngày 15/12/1997, các nhà lãnh đạo
các nước thành viên ASEAN đã khẳng định cam kết tiếp tục duy trì việc mở cửa
thương mại và môi trường đầu tư trong ASEAN, kể cả việc đẩy nhanh tiến độ
thực hiện AFTA, AIA và Cơ chế hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO).
Khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã ký kết và triển khai thực hiện nhiều văn
bản quan trọng về đầu tư với nội dung mở cửa thị trường Việt Nam cho các nhà đầu
tư nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, thực hiện các biện pháp tự do
hóa và thuận lợi hóa đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và tiến tới dành cho các
nhà đầu tư nước ngoài quy chế đãi ngộ quốc gia. Cụ thể một số văn kiện cũng như
chương trình mà nước ta đã tham gia tích cực trong thời gian khác như:

 Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) và 10 danh mục các biện
pháp hạn chế đầu tư của các nước thành viên ASEAN
 Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN
 Hiệp định ASEAN năm 1987 về khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Nghị
định thư năm 1996 bổ sung Hiêp định này
 Hiệp định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và việc thực
hiện Chương trình Hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO)
 Hiệp định đầu tư ASEAN – Trung Quốc
 Hiệp định đầu tư ASEAN – Hàn Quốc

 Mô hình cắt giảm/ xóa bỏ các hạn chế đầu tư trong ASEAN
 Khu vực đầu tư ASEAN (AIA)
Ngoài ra nước ta còn thực hiện một số cam kết có liên quan đến hoạt động
đầu tư như: Cam kết về sở hữu trí tuệ dựa trên Hiêp định TRIPS và các công ước
6


của WIPO, theo đó ta sẽ phải tôn trọng và thực hiện bảo hộ các quyền vè bản
quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế, thương hiệu, thiết kế, kiểu dáng công
nghiệp, giống vật nuôi, cây trồng; Cam kết về công khai hóa với nội dung nước ta
phải công khai hóa các chính sách, luật lê, quy định về chế độ thương mại, thủ
tục hành chính có liên quan và bảo đảm cho mọi người có thể tiếp cận thuận lợi
và rõ rang các thông tin đó.

2. Cơ hội, thách thức đối với Việt Nam trong hội nhập Đông Nam Á:
2.1. Cơ hội:
Quá trình tham gia ASEAN đã mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan
trọng và thiết thực.
Trước hết, việc gia nhập ASEAN đã góp phần bảo đảm môi trường hòa
bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Suốt 20 năm qua,
Đông Nam Á là một trong số ít khu vực trên thế giới không xảy ra chiến tranh
nóng hoặc xung đột quy mô lớn. Đứng trong ASEAN, Việt Nam cũng có thêm
điều kiện tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước trong và ngoài khu vực
nhằm bảo vệ các lợi ích an ninh và phát triển của đất nước, trong việc duy trì hòa
bình và ổn định ở Biển Đông.
ASEAN cũng là sân chơi đầu tiên để Việt Nam nâng cao năng lực hội nhập
quốc tế, tạo chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách,
luật lệ và thủ tục trong nước cho phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế. Có thể nói,
nếu không có thành công từ Hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA) và các
hiệp định Thương mại tự do giữa ASEAN với các Đối tác, thì rất khó có thể có

một Việt Nam chủ động, tự tin tham gia các sân chơi lớn hơn như TPP, RCEP và
một loạt các FTA lớn với EU, Hàn Quốc, Liên minh Kinh tế Á-Âu… Qua đó,
chúng ta đã mở rộng thị trường, tăng cường thu hút đầu tư, tiếp nhận công nghệ,
kinh nghiệm quản lý hiện đại phục vụ cho phát triển đất nước. Điều đáng chú ý là
suốt 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN

7


và Việt Nam luôn ổn định và cao hơn tốc độ trung bình của thế thế giới khoảng 2
điểm phần trăm, kể cả trong những giai đoạn khủng hoảng.
Bên cạnh đó, tham gia ASEAN cũng giúp Việt Nam nâng cao khả năng xử lý
các vấn đề xuyên quốc gia như môi trường, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu;
đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ ngoại giao đa phương ở những
diễn đàn toàn cầu. Nếu không có chặng đường “mài giũa” kinh nghiệm trong
ASEAN, Việt Nam sẽ khó có thể đạt những thành công trên cương vị thành viên
không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009), nước
chủ nhà của các Hội nghị Cấp cao ASEM-5 năm 2004, Hội nghị Cấp cao APEC
2006, Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132 (2015)…
Đặc biệt, vai trò ngày càng quan trọng của Việt Nam trong ASEAN là chất
xúc tác góp phần nâng cao giá trị chiến lược của Việt Nam, tăng cường quan hệ
song phương của chúng ta với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn.
Chặng đường 20 năm gia nhập ASEAN cũng song hành với những thành công
trong việc thể chế hóa khuôn khổ quan hệ với các nước lớn và các nước chủ chốt
ở khu vực. Đến nay, chúng ta đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng quan hệ Đối
tác chiến lược và Đối tác toàn diện với tất cả các nước lớn, nhất là 5 nước thành
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Chúng ta đã định vị vai trò của
Việt Nam trong Cộng đồng ASEAN.
2.2. Thách thức:
Những thách thức đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập Đông Nam Á

được thể hiện rõ rệt. Việt Nam vẫn còn phải thay đổi tiến bộ nhiều hơn nếu muốn
quá trình hội nhập đạt được kết quả tốt nhất.
Trước hết, ta cần nâng cao nhận thức về Cộng đồng ASEAN và tầm quan trọng
chiến lược của việc Việt Nam tham gia hợp tác ASEAN là yêu cầu bắt buộc. Thực
trạng có đến 70% doanh nghiệp Việt Nam được khảo sát vẫn rất “mù mờ” về Cộng
đồng Kinh tế ASEAN là điều đáng quan ngại. Do đó, tăng cường công tác thông tin
tuyên truyền, phổ biến kiến thức về những cơ hội và thách thức từ việc tham gia
Cộng đồng ASEAN không chỉ là việc riêng của các cơ quan Nhà
8


nước, mà cũng là nghĩa vụ và lợi ích sát sườn của mỗi doanh nghiệp, thậm chí
mỗi người dân. Sức nóng của việc hình thành Cộng đồng ASEAN nói riêng và
thực thi các cam kết quốc tế nói chung đòi hỏi tất cả các Bộ, ban ngành Trung
ương, các địa phương cũng như doanh nghiệp và người dân cùng nhau vào cuộc.
Hai là, trong giai đoạn hội nhập quốc tế toàn diện, Việt Nam chưa thể chủ
động phát huy vai trò nòng cốt, đi đầu trong ASEAN trong các lĩnh vực ta có lợi
ích và thế mạnh, bằng việc chủ động đề xuất các sáng kiến, dự án hợp tác cụ thể.
Để làm được điều đó, chất lượng công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về
những vấn đề liên quan đến ASEAN cũng như đội ngũ cán bộ đối ngoại đa
phương và chuyên gia về ASEAN cần được đầu tư nhiều hơn nữa.
Ba là, ASEAN và Việt Nam đang đứng trước yêu cầu thích ứng, điều chỉnh
cho phù hợp với tình hình mới. Bên cạnh việc kiên trì các nguyên tắc đã làm nên
nền tảng và bản sắc của Hiệp hội, sự linh hoạt về biện pháp, cách làm sẽ giúp làm
tăng điểm đồng, hạn chế và thu hẹp sự khác biệt giữa các nước thành viên cũng
như giữa ASEAN và các đối tác.
Cuối cùng, thành bại của việc tham gia ASEAN nói riêng cũng như hội nhập
quốc tế nói chung nằm ở chỗ có chiến lược, lộ trình và bước đi bài bản. 20 năm
qua, việc tham gia ASEAN đã tạo đà để con tàu Việt Nam tiến ra biển lớn. Trong
thời gian tới, với kim chỉ nam là Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị về hội nhập

quốc tế và sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ban, ngành, địa phương cả nước cũng
như sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, chúng ta tin tưởng rằng Việt Nam sẽ tiếp tục
phát huy vai trò tích cực của mình, tiếp tục đồng hành cùng ASEAN vì mục tiêu
xây dựng một Cộng đồng ASEAN gắn kết và có vai trò quan trọng đối với hòa
bình, an ninh và thịnh vượng ở khu vực và trên thế giới.

9


CHƯƠNG II:
PHÂN TÍCH CÁC TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
ĐÔNG NAM Á ĐẾN VIỆT NAM

1. Thương mại:
1.1. Hoạt động xuất khẩu:
1.1.1. Thực trạng việc xuất khẩu của Việt Nam sau gia nhập AFTA:
1.1.1.1. Tác động đến kim ngạch xuất khẩu:
Trước khi gia nhập AFTA
Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu từ năm 1991 – 1995
1991
1992
1993
1994
1995

Xuất khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
2087.1
-13.2
2580.7

23.7
2985.2
15.7
4054.3
35.8
5449.0
34.4
Data from database: World Development Indicators

 Sau khi gia nhập AFTA
Bảng 2 Kim ngạch xuất khẩu từ năm 1996 – 2011
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005

Xuất khẩu (triệu USD)
7255.9
9185.0
9360.3
11541.4
14482.7
15029.2
16706.1

20149.3
26485.0
32447.1
10

Tốc độ tăng (%)
33.2%
26.6%
1.9%
23.3%
25.5%
3.8%
11.1%
20.6%
31.4%
22.5%


2006
2007
2008
2009
2010
2011

39826.2
22.7%
48561.4
21.9%
62685.1

29.1%
57096.3
-8.9%
72236.7
26.5%
96905.7
34.1%
Data from database: World Development Indicators

Nhận xét:
Trước khi gia nhập AFTA: Chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu
của Việt Nam đã thu được những thành tựu đáng khích lệ: tốc độ tăng kim ngạch
xuất khẩu bình quân hàng năm đạt 19.28%, kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng
qua các năm và đạt 5449.0 triệu USD vào năm 1995 – đóng góp 36.5% vào GDP
cả nước. Tốc độ tăng xuất khẩu ngày càng cao, nhất là vào năm 1994: 35.8%.
Sau khi gia nhập AFTA: Xuất khẩu thực sự khởi sắc biểu hiện: Kim ngạch
xuất khẩu ngày càng tăng và đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của
đất nước: đạt 72236.7 triệu USD, 77.9% GDP vào năm 2010. Tuy nhiên, tốc độ
tăng xuất khẩu biến động với biên độ lớn qua các năm và không đạt được con số
cao như giai đoạn trước. Tốc độ tăng cao nhất là vào năm 2011, đạt 34.1% thấp
hơn năm con số 35.8% năm 1994. Tốc độ tăng bị giảm đột biến vào các năm
1998, 2001 và đặc biệt âm vào năm 2009.
Nguyên nhân:
Việc Việt Nam tham gia vào AFTA đã làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa
Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và các hàng rào phi thuế
quan, gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường ngoài ASEAN
do nhập khẩu được đầu vào cho sản xuất xuất khẩu với giá rẻ hơn từ các nước
ASEAN. Do đó, kim ngạch xuất khẩu tăng.
Khi gia nhập AFTA đồng nghĩa với việc thị trường Việt Nam ngày càng gắn
kết chặt chẽ và phụ thuộc hơn vào thị trường nước ngoài, dẫn đến những biến

động của tình hình kinh tế khu vực và trên thế giới đã có tác động lớn đến kinh tế
nói chung và hoạt động động xuất nói riêng của Việt Nam.
11


1.1.1.2. Tác động đến xuất khẩu trong và ngoài khối AFTA:
 Trước khi gia nhập AFTA
Bảng 3 Kim ngạch xuất khẩu trong và ngoài khối AFTA năm 1995

1995

Trong AFTA
%
Triệu USD
13.7
996.9

Ngoài AFTA
%
Triệu USD
86.3 6259
Nguồn: Tổng cục thống kê

 Sau khi gia nhập AFTA
Bảng 4 Kim ngạch xuất khẩu trong và ngoài khối AFTA 1996 – 2011

1996
1997
1998
1999

2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011

%
22.8
20.8
20.8
21.8
18.1
17.0
14.6
14.7
15.3
17.7
16.7
16.7
16.5
15.3
14.3
14.0


Trong AFTA
Triệu USD
1652.8
1913.5
1945.0
2516.3
2619.0
2553.6
2434.9
2953.3
4056.1
5743.5
6632.6
8110.3
10337.7
8761.3
10364.7
13583.3

Nhận xét:
 Trong khối AFTA
Trước khi gia nhập

12

Ngoài AFTA
%
Triệu USD
77.2

5603.1
79.2
7271.5
79.2
7415.3
78.2
9025.1
81.9
11863.7
83.0
12475.6
85.4
14271.2
85.3
17196.0
84.7
22428.9
82.3
26703.6
83.3
33193.6
83.3
40451.1
83.5
52347.4
84.7
48335.0
85.7
61872.0
86.0

83322.4
Nguồn: Tổng cục thống kê


Tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN trong tổng kim
ngạch xuất khẩu vẫn còn khiêm tốn với 13.7% vào năm 1995. Việt Nam xuất
khẩu phần lớn là sang Singapore: thị trường này chiếm 66.4% giá trị xuất khẩu
sang ASEAN giai đoạn 1991 – 1995. Đây là thị trường tạm nhập tái xuất, do đó
khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế, buôn bán qua
trung gian sẽ giảm, khi đó giá trị xuất khẩu sang Singapore sẽ giảm và ảnh hưởng
tới kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN.
Các mặt hàng xuất khẩu sang ASEAN giai đoạn này còn đơn điệu, chủ yếu
là nguyên liệu thô và nông sản.
Xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN giai đoạn 1991 – 1995 đã
tăng trưởng lớn trong điều kiện hàng rào thương mại vẫn chưa được bãi bỏ.
Sau khi gia nhập
Về kim ngạch xuất khẩu: Tỷ trọng xuất khẩu sang khối AFTA tăng lên trong
vài năm đầu, sau đó biến động không nhiều nhưng có xu hướng giảm dần trong
những năm gần đây, từ 22.8% năm 1996 xuống còn 14.0% năm 2011. Tuy nhiên
khối AFTA vẫn luôn giữ vị trí top đầu trong bảng xếp hạng quan hệ thương mại
với Việt Nam. => Tốc độ tăng trưởng bấp bênh cho thấy một nền tảng không
chắc chắn trong quan hệ thương mại Việt Nam – ASEAN.
Về cơ cấu xuất khẩu: Hàng xuất khẩu sang ASEAN chủ yếu là hàng thô hay
mới sơ chế, hàng đã tinh chế chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 1/3 giá trị xuất khẩu.
Bảng 5 Cơ cấu xuất khẩu Việt Nam vào ASEAN theo chuẩn SITC(%)
1999
2000
2001
66.8
63.2

66.5
32.4
33.7
33.5
Nguồn: Vụ kế hoạch, Bộ Công thương

Hàng thô, hàng mới sơ chế
Hàng đã chế biến hay tinh chế

Về cơ cấu xuất khẩu theo thị trường có sự biến đổi lớn: tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu với Singapore đã giảm mạnh từ 26% năm 1995 xuống còn 13.7% năm
2012, thay vào đó là một số thị trường mới nổi như: Malaysia (26.3%), Campuchia

(16.6%), Thái Lan (15.3%),…

13


15%

Campuchia

17%

14%

Indonesia
Lào

14%


Malaysia
11%

Myanma
26%

2%

Phillipines
Singapore

1%

Thái Lan

Hình 1. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN 1995
Nguồn: Tổng cục thống


Hình 2. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ASEAN 2012 Nguồn:
Tổng cục Hải quan
Nguyên nhân
Trước đó mức thuế suất nhập khẩu của Singapore gần như đã bằng 0%;
trong khi thuế suất nhập khẩu của các thành viên khác lại được cắt giảm theo cam
kết CEPT dẫn đến việc tăng tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các
nước này và giảm tỷ trọng xuất khẩu sang Singapore.
Việt Nam xuất khẩu dầu mỏ rất lớn sang Singapore và mặt hàng này đã bị
giảm sản lượng xuất khẩu do hạn ngạch xuất khẩu dầu mỏ. Các mặt hàng linh
kiện, điện từ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu và Malaysia lại

là đất nước tiềm năng về mặt hàng này.
 Ngoài khối AFTA
Trước khi gia nhập

14


Bảng 6 Tỷ trọng xuất khẩu sang một số thị trường chủ yếu 1995 (%)
1995

EU
9.2

Mỹ
2.3

Trung Quốc
5.0

Nhật Bản
Khác
20.1
63.4
Nguồn: Tổng cục thống kê

Xuất khẩu nhiều nhất sang Nhật Bản, tiếp đó là EU; xuất khẩu sang Mỹ và
Trung Quốc còn hạn chế, nhất là với Mỹ.
Sau khi gia nhập
Bảng 7 Tỷ trọng xuất khẩu sang một số thị trường chủ yếu 2010 (%)
2010


EU
17.1

Mỹ
17.5

Trung Quốc
11.5

Nhật Bản
Khác
11.1
42.8
Nguồn: Tổng cục thống kê

Nhận xét: Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường đã có sự thay đổi khá lớn:
EU vẫn là một trong những thị trường quan trọng hàng đầu của Việt Nam,
biến động tăng giảm kim ngạch xuất khẩu qua các năm là không đáng kể.
Xuất khẩu sang Mỹ có xu hướng tăng, đặc biệt là trong những năm gần đây,
trở thành thị trường dẫn đầu trong xuất khẩu của Việt Nam.
Xuất khẩu sang Nhật dù vẫn chiếm tỷ trọng cao nhưng mất vị trí dẫn đầu.
Xuất khẩu sang Trung Quốc có xu hướng tăng dần, Trung Quốc ngày càng
trở thành đối tác thương mại quan trọng của Việt Nam.
Vì sao AFTA chưa ảnh hưởng nhiều đến xuất khẩu của Việt Nam? Thứ nhất:
cơ cấu hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và phần lớn các
nước ASEAN tương đối giống nhau, mặt hàng kém đa dạng, trùng lặp, bao gồm
hàng dệt may, dầu thô, gạo, giày dép, thủy sản, cà phê, gỗ, gạo, cao su…,vì vậy
có thể gây ra sự cạnh tranh nội bộ khu vực trong việc tìm kiếm thị trường và công
nghệ cũng như thu hút đầu tư ở những mức độ khác nhau. Duy có Singapore với

trình độ phát triển kinh tế vượt trội, có cơ cấu kinh tế bổ sung cho Việt Nam; tuy
nhiên, thị trường này lại quá nhỏ hẹp cho các mặt hàng có lợi thế so sánh của Việt
Nam là nông – lâm – thủy sản và công nghiệp nhẹ cần nhiều lao động như dệt
may, da giầy,...

15


Thứ hai: bất lợi thế cho xuất khẩu Việt Nam đã nảy sinh ngay trong các quy
định mặt hàng giảm thuế theo CEPT. Các mặt hàng Việt Nam đã và đang xuất
khẩu nhiều sang các nước ASEAN bao gồm dầu thô, gạo, cao su, thủy sản, gỗ,
than, da thuộc,…,rất nhiều được xếp vào hàng nhạy cảm và nhạy cảm cao để làm
chậm quá trình giảm thuế. Do đó trong ngắn hạn, tác động của cắt giảm thuế ở
ASEAN theo CEPT đối với xuất khẩu của Việt Nam là không lớn.
Thứ ba: xét về bạn hàng, hơn 2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN
được thực hiện với Singapore nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập khẩu trước
AFTA vốn gần như bằng 0%. Do vậy khi thực hiện CEPT trên toàn khối ASEAN,
1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ
chưa làm thay đổi nhiều đến xuất khẩu của Việt Nam. Hơn nữa, Singapore là cảng
trung chuyển tự do với hệ thống thuế xuất nhập khẩu thấp.

Tóm lại: CEPT chưa làm thay đổi cục diện xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN. Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất
khẩu theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm
trong danh mục cắt giảm của CEPT, các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm
thuận lợi về yếu tố giá cả khi muốn xuất khẩu sang ASEAN.
1.1.2. Đánh giá tác động của việc gia nhập AFTA tới xuất khẩu:
1.1.2.1. Tích cực:
- Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh.
- Cơ cấu thị trường xuất khẩu mở rộng, giảm bớt sự lệ thuộc vào châu Á.

- Cơ cấu xuất khẩu có những chuyển biến tích cực.
1.1.2.2. Tiêu cực:
- Hoạt động xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế các nước nhập
khẩu nói riêng và thế giới nói chung nên biến động tăng giảm thất thường,
tăng trưởng nhanh nhưng không bền vững.
- Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nước trong AFTA trong việc tìm
kiếm thị trường tiêu thụ.
1.2. Hoạt động nhập khẩu:
16


1.2.1. Thực trạng việc nhập khẩu của Việt Nam sau gia nhập AFTA:
1.2.1.1. Về kim ngạch nhập khẩu:
 Trước khi gia nhập AFTA
Bảng 8 Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1990 – 1995
1991
1992
1993
1994
1995
Kim ngạch nhập khẩu (%GDP)
36.0
38.8
37.5
43.5
41.9
Kim ngạch nhập khẩu (triệu USD) 2338.1 2540.7 3294.0 5825.8 8155.4
Data from database: World Development Indicators
 Sau khi gia nhập AFTA
Bảng 9 Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2010

Năm

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ (theo %GDP)

1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa
và dịch vụ (triệu USD)

51.8
11143.6
51.2
11592.3
52.2
11499.6

52.8
11742.1
57.5
15636.5
56.9
16218.0
62.0
19745.6
67.7
25255.8
73.3
31968.8
67.0
36761.1
70.6
44891.1
84.1
62764.7
84.0
80713.8
72.1
69948.8
80.2
84836.6
Data from database: World Development Indicators

Nhận xét:
Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam (triệu USD)
giai đoạn 1990 – 1995 đạt 22,7 tỉ USD trong khi giai đoạn 1996 – 2000 đạt 61,6
17



tỉ USD, giai đoạn 2006 – 2010 đạt 130,1 tỉ USD. Như vậy kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam đã tăng mạnh sau khi gia nhập AFTA.
Trong giai đoạn 1996 – 2010, nhập khẩu đã khẳng định vai trò ngày càng lớn
bằng việc đóng góp ngày càng nhiều vào tỉ trọng GDP. So với năm 1996 – giá trị
nhập khẩu chỉ chiếm 51,8% GDP thì đến 2010 con số này đã lên tới 80,2%.

Các nhóm hàng hóa nhập khẩu chủ yếu: hàng hóa mà các doanh nghiệp Việt
Nam nhập khẩu chủ yếu từ thị trường này là những mặt hàng thiết yếu, nguyên
phụ liệu đầu vào phục vụ sản xuất trong nước như xăng dầu, nguyên phụ ngành
dệt may da giày, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc thiết bị
dụng cụ, phụ tùng, chất dẻo nguyên liệu…
Giải thích: Sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam tăng lên
qua các năm xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó việc gia nhập AFTA chỉ
góp một phần nhỏ, chủ yếu là do việc cắt giảm thuế nhập khẩu.
 Việc gia nhập AFTA góp phần thúc đẩy kim ngạch nhập khẩu trong giai
đoạn 1996 – 2010.
1.2.1.2. Về cơ cấu nhập khẩu theo trong và ngoài khối AFTA:
Bảng 10 Kim ngạch nhập khẩu trong và ngoài khối AFTA 1995 – 2011
Năm

Trong AFTA

Trong AFTA

Ngoài AFTA

Ngoài AFTA


(triệu USD)

(%)

(triệu USD)

(%)

1995

2270.1

27.8

5885.3

72.2

1996

2905.5

26.1

8238.1

73.9

1997


3220.5

27.8

8371.8

72.2

1998

3344.4

29.1

8155.2

70.9

1999

3290.9

28.0

8451.2

72.0

2000


4449.0

28.4

11187.5

71.6

2001

4172.3

25.7

12045.7

74.3

2002

4769.2

24.2

14976.4

75.8

2003


5949.3

23.6

19306.5

76.4

2004

7768.5

24.3

24200.3

75.7

18


2005

9326.3

25.4

27434.8

74.6


2006

12546.6

27.9

32344.5

72.1

2007

15908.2

25.3

46856.5

74.7

2008

19567.7

24.3

61146.1

75.7


2009

16461.3

23.5

53487.5

76.5

2010

16407.5

19.3

68431.1

80.7

2011

20910.2

19.6

85839.7

80.4


Nguồn: Tổng cục thống kê
Nhận xét: Năm 1995, kim ngạch nhập khẩu trong các nước AFTA chiếm
27,8%, thì trong suốt giai đoạn 1996 – 2011, tỉ lệ cao nhất cũng chỉ đạt tới 29,1%
vào năm 1998. Trong khi đó kim ngạch nhạp khẩu từ ngoài AFTA thường ổn định
và chiếm trên 70%. Điều đó cho thấy việc thực hiện lộ trình của AFTA (giảm thuế
nhập khẩu, gỡ bỏ hạn ngạch, cải cách thủ tục hải quan không ảnh hưởng nhiều tới
chuyển dịch cơ cấu nhập khẩu theo hướng tăng nhập khẩu từ các nước trong
AFTA , giảm nhập khẩu từ các nước ngoài AFTA.
Nguyên nhân: Thực tế này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, thực hiện giảm thuế theo lộ trình AFTA, nhiều mặt hàng thuế
được cắt giảm tới nhiều chục phần trăm nhưng không có nghĩa là giá các mặt
hàng này sẽ giảm như tốc độ giảm thuế. Bởi lẽ việc cấu thành nên giá cả hàng
hóa, ngoài giá thành sản xuất, thuế nhập khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khác như cước vận chuyển, phí bốc dỡ, cảng, phân phối, dịch vụ khách hàng.
Thứ hai, trao đổi mậu dịch giữa Việt Nam và ASEAN cũng không thể trông
chờ có sự đột biến do các nước ASEAN hầu như đều sản xuất giống nhau và các
mặt hàng xuất nhập khẩu cũng tương đồng. Hơn nữa kim ngạch nhập khẩu từ
ASEAN chỉ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam nên sự
ảnh hưởng của việc cắt giảm thuế chỉ trong một giới hạn nào đó.
Thứ ba, mặt hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam đều xuất phát cả từ trong
các trong AFTA và ngoài AFTA. Tuy nhiên, do những nước ngoài AFTA có thế
mạnh về chất lượng và giá cả cũng như có quan hệ đối tác lâu năm nên dù không

19


được hưởng ưu đãi từ AFTA, kim ngạch nhập khẩu của những mặt hàng này từ
các nước ngoài AFTA vẫn được duy trì ổn định như:
 Trung Quốc: giá cả hàng hóa rẻ; hai nước có chung đường biên giới dài,

mặt hàng phong phú, đa dạng, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng Việt Nam.
 Hàn Quốc: đây là quốc gia tài trợ rất nhiều vốn và chuyển giao rất nhiều
công nghệ tiên tiến cho Việt Nam; nhập khẩu hàng hóa từ nước này còn xuất phát
từ mục đích bảo đảm chính trị, duy trì quan hệ tốt đẹp giữa hai nước.
 Nhật Bản: Việt Nam nhập khẩu máy móc thiết bị, sản phẩm điện tử chủ
yếu từ quốc gia này do các sản phẩm rất hiện đại, tiết kiệm nhiều nhiên liệu.
Thứ tư, bên cạnh việc gia nhập AFTA, Việt Nam cũng là thành viên của rất
nhiều tổ chức, hiệp hội khác, tiêu biểu như gia nhập WTO năm 2007. Đồng thời
nước ta cũng kí kết và thực hiện các hiệp định hương mại tự do với Hoa Kỳ,
Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Austrlia,... Vì thế trong giai đoạn 1996 –
2011, hàng hóa từ thị trường ngoài AFTA cũng nhận được nhiều ưu đãi.
1.2.2. Đánh giá tác động của việc gia nhập AFTA lên nhập khẩu:
1.2.2.1. Tích cực:
Thứ nhất, ngay sau khi gia nhập AFTA, chúng ta đã cam kết thực hiện lộ
trình giảm thuế nhập khẩu đối với hàng hóa của các nước trong khu vực, trong đó
các mặt hàng được nhà nước ưu đãi nhập khẩu nhiều nhất là máy móc, thiết bị và
nguyên vật liệu phục vụ cho ngàng sản xuất công nghiệp đồng thời loại bỏ các
rào cản thương mại hợp tác trong lĩnh vực hải quan. Vì thế việc nhập khẩu những
mặt hàng này tăng mạnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được
hưởng lợi thế từ việc nhập khẩu với mức thuế nhập khẩu thấp, góp phần làm
giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai, việc gia nhập AFTA cũng thúc đẩy nhập khẩu khối lượng lớn hàng
hóa tiêu dùng. Người tiêu dùng có cơ hội được sử dụng những mặt hàng chất
lượng cao của các nước khác trong khu vực với giá thấp hơn rất nhiều do không
phải chịu hoặc chịu ít thuế nhập khẩu đánh vào hàng hóa đó.

20


Thứ ba, AFTA cũng góp phần thay đổi nguồn gốc và chất lượng của các

hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Việt Nam theo hướng tích cực. Trong thời
gian dài, rất nhiều hàng hóa xuất xứ từ Trung Quốc tuy chất lượng kém nhưng
vẫn chiếm giữ phần lớn thi trường Việt Nam do giá thành rẻ, sản phẩm phong
phú, đáp ứng được mọi nhu cầu của các tầng lớp xã hội. Khi VIệt Nam gia nhập
AFTA, sức cạnh tranh trên thị trường nội địa sẽ tăng mạnh, các nhà sản xuất cũng
như người tiêu đung sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn. Vì vậy, hưởng sự ưu đãi từ
AFTA, hàng hóa từ các nước ASEAN đang ngày càng chiếm lĩnh thị phần tại
Việt Nam và gây áp lực lớn lên những hàng hóa kém chất lượng từ Trung Quốc,
đặc biệt là những mặt hàng nhập lậu trái phép, mặt hàng gây độc hại tới sức khỏe
người tiêu dung…tuy nhiên tác động này không lớn.
Thứ tư, cam kết và thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu khi gia nhập AFTA
giúp giảm giá thành của nhiều loại hàng hóa nhập khẩu từ các nước trong khu
vào thị trường Việt Nam giảm.
Như vậy AFTA có tác động làm tăng kim ngạch nhập khẩu của VIệt Nam,
qua đó phần nào thúc đẩy sản xuất của doanh nghiệp phát triển đồng thời mở
rộng thị trường tiêu dùng trong nước.
1.2.2.2. Tiêu cực:
Việc gia nhập AFTA thúc đẩy nhập khẩu của Việt Nam gia tăng, đa dạng và
phong phú hàng hóa trên thị trường nội địa và đem lại rất nhiều lợi ích như đã nêu

ở trên. Tuy nhiên hàng hóa nhập khẩu tăng mạnh nhờ cắt giảm thuế cũng gây ra
một số khó khăn nhất định cho Nhà nước và doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đó là việc gây sức ép cho doanh nghiệp.
Phải cạnh tranh gay gắt với các hàng hóa từ ASEAN ngay trên thị trường nội
địa. Theo lô trình, một số mặt hàng sẽ lần lượt phải giảm thuế nhập khẩu, dẹp bỏ
hàng rào bảo hộ, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn do phải cạnh tranh với các mặt
hàng nhập khảu giá rẻ chất lượng tốt đến từ Thái Lan, Indonesia hay Malaysia.
Ngành mía đường là một ví dụ nổi bật. Ngành mía đường Việt Nam khó có thể cạnh
tranh trên thị trường thế giới cũng như khu vực vì giá thành sản xuất cao. Một phần
là do giá mua nguyên liệu mía cáo hơn các nước trong khu vực khoảng


21


30%, đồng thời dây chuyền sản xuất mía còn khá lạc hậu. hiện nay giá đường vẫn
ở khoảng 23.000 – 24.000 đồng/kg, mức cao nhất Đông Nam Á. Đường luôn
được bảo hộ nhờ mức thuế cao và hạn ngạch nhập khẩu, nhưng doanh nghiệp sản
xuất trong nước đã không tận dụng được lợi thế này. Trong khi đó, kể từ năm
2010, theo lộ trình hội nhập AFTA, Việt Nam đã hạ giá thuế nhập khẩu đường
xuống chỉ còn 5%. Vì thế, khó khăn của ngành đường chính là phải cạnh tranh
với các nước có công nghiệp phát triển như Thái Lan, vốn là quốc gia xuất khẩu
đường lớn thứ hai trên thế giới. Theo cam kết AFTA, Việt Nam sẽ mở cửa hoàn
toàn thị trường vào năm 2013. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam vẫn còn
thấp, chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm, sức cạnh tranh của hàng hóa kém đặc biệt
về mẫu mã và chất lượng. Tham gia AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đứng
trước sự thua kém về thế thương lượng cạnh tranh do nghèo vốn, kĩ thuật thấp,
chất lượng yếu và không có khả năng cạnh tranh về giá cả.
Lộ trình giảm thuế không chỉ gây ảnh hưởng đến một vài doanh nghiệp mà
thậm chí cả một nền sản xuất, ví dụ như ngành công nghiệp ô tô. Khi tham gia
vào AFTA với lộ trình cắt giảm thuế quan nhanh và đến năm 2018 thuế nhập
khẩu xe nguyên chiếc sẽ chỉ còn 0 – 5%, chưa kể đến việc ô tô của Việt Nam còn
chưa đạt chuẩn các tiêu chuẩn về môi trường Thực tế đã cho thấy rất nhiều các
doanh nghiệp kinh doanh ô tô, showroom… phải đóng cửa năm 2018.
Cho đến nay hệ thống chính sách thương mại còn nhiều bất cập, kỹ thuật
xây dựng còn thô sơ, không đồng bộ. Ví dụ như ngành công nghiệp điện tử cũng
gặp không ít những thách thức. Thuế suất nhập khẩu nhiều mặt hàng linh kiện
điện tử (dung để lắp ráp máy tính trong nước) chỉ khoảng 3%. Khi thuế giảm
nhiều, các doanh nghiệp điện tử sẽ nhập hàng từ các nước xung quanh, vì như thế
sẽ có lợi hơn so với việc lắp ráp tại Việt Nam với chi phí lao động đang tăng lên.
Thứ hai, các doanh nghiệp gian lận hàng hóa xuất xứ: Lợi dụng chính sách

giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình AFTA, rất nhiều các doanh nghiệp đã gian lận
nguồn gốc, xuất xứ của các mặt hàng có giá trị cao từ những nước nằm ngoài
AFTA thành sản phẩm có xuất xứ từ Thái Lan, Lào, Campuchia… nhằm trốn
thuế.
22


Thứ ba, đối với Nhà nước: Giảm nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế
nhập khẩu. Nhập khẩu không chỉ có vai trò cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho doanh
nghiệp và người tiêu dung mà còn đem lại nguồn thu đáng kể cho nhà nước thông
qua thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, khi gia nhập AFTA, nguồn thu này sẽ bị giảm đi
bởi hai nguyên nhân. Thứ nhất là do thuế nhập khẩu của tất cả các mặt hàng giảm
xuống còn 0 – 5% khiến nguồn thu tư thuế của hàng hóa ASEAN giảm. Thứ hai,
khi giảm thuế nhập khẩu, hàng hóa ASEAN trên thị trường Việt Nam rẻ hơn và
phong phú hơn trước, tạo áp lực cạn tranh với hàng hóa cùng loại nhưng xuất xứ
từ các nước khác không thuộc ASEAN và khiến giá cả của chúng trở nên đắt hơn
tương đối. Điều này sẽ hạn chế nhập khẩu hàng hóa từ một số nước không thuốc
ASEAN, từ đó khiến sụt giảm nguồn thu từ thuế của nhà nước. Mặc dù tác động
của AFTA đến thu ngân sách nhà nước là chưa lớn do sự gia tăng liên tục của kim
ngạch nhập khẩu đã bù đắp khoản thu ngân sách do cắt giảm thuế, nhưng cũng
phần nào ảnh hưởng đến vai trò và mục tiêu của nhập khẩu.

2. Hoạt động đầu tư:
2.1. Hoạt động thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài:
2.1.1. Đánh giá chung về hoạt động đầu tư của ASEAN vào Việt Nam:
Theo khảo sát của Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN (ABAC), các nhà
đầu tư đã xếp Việt Nam đứng thứ hai về độ hấp dẫn đầu tư, sau Indonesia. Với
quy mô thị trường hấp dẫn cộng với lợi thế về nguồn lao động rẻ và nguồn tài
nguyên phong phú, ngay từ khi gia nhập, Việt Nam đã khơi mạnh dòng chảy vốn
từ khu vực ASEAN. Tháng 6-1995, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần

200 dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỷ USD, chiếm 15% FDI vào Việt
Nam thời điểm đó. Tháng 1/1996 ngay sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định
thương mại tự do ASEAN (AFTA), tốc độ thu hút FDI từ khu vực đã tăng nhanh
chóng, đạt tới trên 7,8 tỷ USD vào thời điểm giữa năm 1997 chiếm khoảng 30%
tổng mức đầu tư của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ vào Việt Nam. Mặc dù
cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã khiến dòng vốn này chững lại và
23


sụt giảm mạnh nhưng giai đoạn từ cuối năm 2000 đến nay được coi là thời kỳ
phục hồi dòng vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam, cùng với đà phục hồi của các
nền kinh tế thành viên khu vực này. Năm 2004, ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án
với tổng số vốn đăng ký trên 10 tỷ USD, chiếm 27% FDI vào Việt Nam, đứng
đầu là Singapore với 8 tỷ USD. Tính đến hết tháng 5/2007, khu vực ASEAN có
1.179 dự án đầu tư được cấp phép tại Việt Nam, với tổng vốn trên 16 tỷ USD.
Tổng kết từ năm 1988 đến tháng 6/2011 có 1.940 dự án, với tổng số vốn đạt trên
51,8 tỷ USD vốn đăng ký, bằng 13,9% tổng số dự án và bằng 23,8% tổng số vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tương ứng. Số vốn
bình quân 1 dự án đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN cao gấp đôi của các
nước khác (26,7 triệu USD/dự án so với 13,7 triệu USD/dự án).
Bảng 11 Cơ cấu vốn theo đối tác năm 2007
Đối tác
Singapore
Malaysia
Philipine
Indonesia
Brunei

Dự án
474

219
30
14
37

Tổng vốn đầu tư (Đơn vị: USD)
9.07 tỷ
1.7 tỷ
247 triệu
137 triệu
125 triệu
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Tuy nhiên lĩnh vực mà nhà đầu tư ASEAN tập trung vốn lại không đồng đều,
chủ yếu là công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Các nhà đầu tư Singapore có mặt trong
hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, từ thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất
công nghiệp tới chế biến nông, lâm, hải sản nhưng tập trung nhiều nhất trong lĩnh
vực dịch vụ với 207 dự án và tổng vốn đầu tư là 5,5 tỷ USD, chiếm 60,7% tổng vốn
đăng ký; tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 230 dự án và tổng vốn
đầu tư là 3,3 tỷ USD, chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký; số còn lại thuộc lĩnh vực nông
- lâm - nghiệp chỉ có 37 dự án và 254 triệu USD vốn đầu tư. Trong khi đó các dự án
của Indonesia tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với 11 dự án và 73,8 triệu USD
(chiếm 56% tổng vốn đầu tư của Indonesia); 3 dự án trong lĩnh vực dịch vụ với 63,7
triệu USD; không có dự án trong lĩnh vực nông nghiệp.

24


Brunei chủ yếu đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp với 31 dự án và 116 triệu USD
vốn đầu tư (chiếm 92% tổng vốn đầu tư của Brunei), nông nghiệp và dịch vụ chỉ

chiếm tỷ lệ nhỏ với 5 dự án và 9,6 triệu USD trong lĩnh vực nông nghiệp và 1 dự
án với 120.000 USD trong lĩnh vực dịch vụ.
Bảng 12 FDI của ASEAN vào Việt Nam phân theo ngành
(Tính tới 15/9/2004 – Chỉ tính các dự án vẫn còn hiệu lực)
Chuyên ngành

Số dự TVĐT (USD)
án

Vốn pháp định
(USD)

Đầu tư thực
hiện (USD)

Công nghiệp
367 4.304.701.732 1.794.294.641 2.724.895.490
CN dầu khí
4
91.200.000
91.200.000
190.607.465
CN nhẹ
94
430.866.783
196.546.091 254.146.623
CN nặng
160 1.344.608.299 605.349.893 767.004.947
CN thực phẩm
56

1.506.990.147 545.648.990 1.260.092.305
Xây dựng
53
391.036.503
355.549.667 253.044.150
Nông–Lâm nghiệp
84
817.530.690
235.930.953 427.639.561
Nông – Lâm nghiệp
70
764.683.813
212.105.098 401.056.248
Thủy sản
14
52.846.877
23.825.855
26.583.313
Dịch vụ
191 5.865.366.868 1.902.584.967 1.764.746.820
GTVT – Bưu điện
28
338.784.528
272.996.527 138.701.417
Khách sạn – Du lịch
36
1.597.120.792 321.352.490 841.005.365
Tài chính – Ngân hàng
12
142.000.000

141.300.000
116.000.000
Văn hóa – Y tế - Giáo dục 24
44.075.368
21.654.011
15.023.487
XD khu đô thị mới
3
2.466.674.000 675.183.000
6.294.598
XD văn phòng – căn hộ
23
720.469.837
255.894.229 415.698.624
XD hạ tầng KCX – KCN
7
277.265.900
114.100.755
179.755.975
Dịch vụ khác
58
287.976.443
100.103.955
52.267.354
Tổng số
642 10.987.599.290 3.932.810.561 4.917.281.871
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Xây dựng
Nhận xét: Theo bảng 12, ta có thể thấy rằng FDI của ASEAN vào
Việt Nam tập trung chủ yếu vào 2 lĩnh vực là công nghiệp và dịch
vụ. Tính đến hết ngày 15/9/2004, FDI của các nước vào Việt Nam

trong lĩnh vực dịch vụ là 191 dự án với tổng số vốn đầu tư trên 5,86
tỷ USD; lĩnh vực công nghiệp có số dự án đăng kí lớn hơn tới 367
dự án nhưng số vốn đàu tư chỉ vào khoảng 4,3 tỷ USD. Lĩnh 25


×