Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận, văn hoá tộc người, NHẬN THỨC về mối QUAN hệ tộc NGƯỜI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.47 KB, 14 trang )

TIỂU LUẬN
NHẬN THỨC VỀ MỐI QUAN HỆ TỘC NGƯỜI
VỚI VĂN HOÁ QUỐC GIA

1


MỤC LỤC
trang
MỞ ĐẦU................................................................................................3
I. VĂN HOÁ VÀ VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI ………………………..4
1.1. Văn hoá …………………………………………………………..4
1.2. Văn hoá tộc người ……………………………………………….5
1.3. Các dạng thức cơ bản của văn hóa tộc người ………………….6
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI VỚI VĂN HỐ
QUỐC GIA …………………………………………………………..8
2.1. Văn hóa tộc người là bộ phận cấu thành và tồn tại song song với
văn hóa quốc gia ……………………………………………………………8
2.2. Văn hóa quốc gia tạo điều kiện cho văn hóa tộc người hội nhập
và phát triển ………………………………………………….…………….11
KẾT LUẬN…………………………..……………………………….13
TÀI LIỆU THAM KHẢO………….………………………………..14

2


MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống ngày nay sự hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh nhu
vũ bão đã làm cho nhu cầu nhận thức sâu sắc vấn đề bảo tồn, phát huy bản sắc
văn hoá dân tộc và văn hoá tộc nguời trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Coi
trọng văn hoá truyền thống chính là coi trọng nền tảng sức mạnh tinh thần của


dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung uơng Đảng lần thứ V khoá VIII đã nêu rõ:
“Di sản văn hoá là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản
sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao luu văn hoá. Cần phải
hết sức coi trọng, bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống”. Xu thế
trở về cội nguồn để khẳng định những giá trị văn hoá truyền thống là huớng đi
mang tính tất yếu của thời đại. Muốn nhận diện đuợc sự biến đổi văn hóa tư
truyền thống đến hiện đại trong giao luu hội nhập trên những bình diện mới
giữa các quốc gia dân tộc hiện nay thì vấn đề bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và văn hóa tộc nguời có ý nghĩa lớn lao trong việc tham gia đối thoại
với các nền văn hóa, văn minh trong khu vực và có thể xa hơn, rộng hơn.
Mối quan hệ giữa văn hoá tộc nguời với văn hoá quốc gia là mối quan hệ tổng
thể tạo nên sự phát triển chung của cả dân tộc, cũng nhu vậy cho sự ra đời của
dân tộc Việt Nam có liên quan đến vấn đề các tộc nguời cu trú trên dải đất Việt
Nam tạo thành cộng đồng dân tộc Việt Nam. Việt Nam là một quốc gia, một
cộng đồng dân tộc với 54 tộc nguời đuợc chi theo các nhóm ngôn ngữ tộc
nguời.

3


I. VĂN HỐ VÀ VĂN HỐ TỘC NGƯỜI
1.1. Văn hố
Quan điểm biện chứng khẳng định rằng, sự tồn tại của con nguời và xã
hội là cuộc đấu tranh nhằm đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần trong cuộc
sống của mình. Đời sống vật chất và đời sống tinh thần là hiện tuợng phở quát
của xã hội lồi nguời nói chung và các tộc nguời. Trong quá trình đó, con
nguời với tính cách là con nguời hiện thực, là chủ thể lịch sử của quá trình
thành và phát triển gắn với sự biến đổi của phuơng thức sản xuất trong những
điều kiện địa lý tự nhiên và xã hội nhất định. Chính sự tìm kiếm các phuơng
thức sống đã hình thành nên những lối sống khác nhau, những cách thức sinh

hoạt khác nhau, gắn với kinh tế chiếm đoạt, kinh tế chăn dắt bầy đàn, kinh tế
trồng trọt (lúa nuớc và lúa khô). Đây là cơ sở của sự hình thành các dạng thức
đặc trung văn hóa khác nhau. Trong lịch sử truyền thống, hai loại hình văn hóa
gốc du mục và văn hóa gốc nông nghiệp là nổi trội nhất. Văn hóa là sản phẩm
kết quả của tu duy, hoạt động sáng tạo của con nguời, gắn bó với môi truờng
thiên nhiên cụ thể và trong tổ chức xã hội của các cộng đồng nguời qua tưng
giai đoạn lịch sử. Nói cách khác, văn hóa là tất cả những gì con nguời đã bỏ
công sức để tạo ra, khác với những gì tồn tại trong tự nhiên ngoài con nguời.
Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm khẳng định “Văn hóa là hệ thống hữu cơ
những giá trị tinh thần và vật chất do con nguời sáng tạo ra và tích lũy qua quá
trình hoạt động thực tiễn, trong sự tuơng tác giữa con nguời với môi truờng tự
nhiên và xã hội”. Cho nên, có thể căn cứ vào vào mức độ đuợc con nguời biến
thành bản chất nguời, tức là mức độ tự nhiên đuợc con nguời khai thác, cải tạo
thì có thể xét trình độ văn hóa chung của con nguời (C.Mác). Tuy nhiên, quá
trình hình thành và phát triển của các dạng thức văn hóa là không thuần nhất,
mà có sự đan cài phức tạp giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản địa và ngoại
lai, giữa cuỡng bức và tự nguyện.
Đó cũng chính là quy luật của hình thành văn hóa tộc nguời. Sự vận
động về mặt vật chất và tinh thần của chủ thể tộc nguời luôn luôn gắn với thời
4


gian và không gian cụ thể. Quá trình quan hệ với tự nhiên và xã hội, các tộc
nguời đã sáng tạo những sản phẩm có giá trị, đồng thời qua đó thể hiện mình
truớc tự nhiên và xã hội. Văn hóa chính là sự thể hiện mình theo một cách
riêng, trong điều kiện cụ thể của một chủ thể văn hóa. Trong truờng hợp này,
một trong những định nghĩa văn hóa sau đây đáp ứng đuợc các ý nghĩa khi tiếp
cận nghiên cứu văn hóa tộc nguời: “Văn hóa là tổng thể sống động của các
hoạt động sáng tạo trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, các hoạt động
sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị

hiếu-những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Trong mối liên hệ
với văn hóa tộc nguời, văn hóa truớc hết là những sáng tạo giá trị mang tính
nhân sinh, là yếu tố để phân biệt đặc tính riêng của các cộng đờng dân tộc.
1.2. Văn hố tộc người
Trong quá trình vận động, truớc cả khi nhà nuớc xuất hiện, các tộc nguời
luôn có ý thức xây dựng và bảo vệ tộc danh và ý thức tộc nguời cũng nhu kinh
tế và văn hóa của cộng đồng mình. Văn hóa chính vì vậy không những là yếu
tố cấu thành tộc nguời, bao gồm tri thức, tín nguỡng, đạo đức, nghệ thuật, luật
pháp, tập quán, sinh hoạt,.. mà còn thể hiện bản sắc của nhiều cộng đồng có
chung tộc danh. Những sáng tạo đó thể hiện năng lực con nguời với tính cách
là thành viên của cộng đồng xã hội, nhằm đáp ứng những nhu cầu đời sớng và
những địi hỏi của sự sinh tồn.Tư sự phân tích trên đây, khái niệm văn hóa tộc
nguời đuợc hiểu nhu sau:
Văn hóa tộc người là tổng thể sống động các giá trị văn hoá vật thể và
phi vật thể do các cộng đồng tộc người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, thể
hiện bản sắc tộc người, là bộ phận hữu cơ của văn hóa quốc gia.
Văn hóa tộc nguời là toàn bộ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể
do các cộng đồng tộc nguời sáng tạo ra trong quá trình sinh tồn và phát triển,
gắn với môi truờng tự nhiên và xã hội, nó phản ánh những đặc điểm trong tu duy
và lao động sáng tạo của các tộc nguời trong các giai đoạn phát triển với các
thông tin về nội hàm và ngoại diên phản ánh sự vận động nội tại và trong mối
quan hệ văn hóa ở cấp độ tộc nguời và quốc gia.
5


Dù cách thức diễn đạt khác nhau, nhung nói đến văn hóa tộc nguời là nói
đến giá trị; các giá trị do cộng đồng tộc nguời sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử;
là căn cứ quan trọng để phân biệt tộc nguời; là bộ phận cấu thành văn hóa quốc
gia.
Sắc thái văn hóa tộc nguời đuợc thể hiện trên ba cấp độ: văn hóa tộc

nguời, văn hóa nhóm ngôn ngữ - tộc nguời và văn hóa nhóm địa phuơng của tộc
nguời (Ngô Đức Thịnh). Văn hóa tộc nguời thể hiện sớng động tồn bộ cuộc
sớng của một cộng đờng tộc nguời trong suốt quá trình lịch sử. Trong mối liên
hệ hữu cơ giữa các yếu tố, ý thức tự giác tộc nguời thể hiện sâu sắc bản sắc văn
hóa tộc nguời, không chỉ ở tộc danh mà còn là những nét đặc thù về phong cách
sống, sinh hoạt, ứng xử và quan niệm giá trị. Nói đến văn hóa tộc nguời là nói
đến những khía cạnh tiêu biểu của tộc nguời đó tạo những nét khác biệt với
văn hóa tộc nguời khác. Văn hóa tộc nguời vưa là cái bên ngoài vưa là cái bên
trong của tiến trình vận động và phát triển tộc nguời.
1.3. Các dạng thức cơ bản của văn hóa tộc người
Dạng thức chính là sự tồn tại của sự vật, hiện tuợng bằng những hình
thức, cách thức nhất định. Sự phân biệt các dạng thức văn hóa thuờng căn cứ
vào các góc độ tiếp cận về tính hệ thống, tính giá trị, hình thức tồn tại của văn
hóa hay cơ sở của sáng tạo văn hóa.... Nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Đức Thịnh
phân chia các dạng thức văn hóa ở Việt Nam nhu sau: Văn hóa cộng đồng (bao
gồm văn hóa tộc nguời; văn hóa quốc gia; văn hóa làng; văn hóa gia đình, gia
tộc và dòng họ; văn hóa tôn giáo tính nguỡng; văn hóa nghề nghiệp);
- Văn hóa cá nhân;
- Văn hóa vùng lãnh thổ;
- Văn hóa sinh thái...
Theo quan điểm trên, văn tộc nguời là một trong sáu dạng thức quan trọng của
văn hóa cộng đồng. Quan điểm này cũng phân chia văn hóa tộc nguời Việt Nam
thành các dạng thức dựa trên căn cứ chính là theo nhóm ngôn ngữ:
- Nhóm Việt - Muờng
- Nhóm Môn-Khơme
6


- Nhóm Tày-Thái
- Nhóm Nam Đảo (Austronnésien)

- Nhóm Hmông-Dao
- Nhóm Tạng-Miến
- Nhóm ngôn ngữ Hán....
Tư căn cứ phân chia này, biểu hiện cụ thể của dạng thức văn hóa tộc
nguời sẽ đuợc nghiên cứu trên các phuơng diện: Chủ nhân văn hóa tộc người
là ai? Khơng gian sinh sống và sinh hoạt kinh tế? Những sáng tạo thể hiện ở
giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần? Văn hóa tộc nguời đuợc nhìn
nhận trong mối quan hệ giữa chủng tộc - ngôn ngữ và văn hóa. Những nội
dung này sẽ đuợc trình bày cụ thể trong phần nghiên cứu về văn hóa tộc nguời
của Việt Nam.
Cũng có thể phân chia các dạng thức văn hóa tộc nguời dựa trên căn cứ
về nhu cầu và hình thức tồn tại của các sản phẩm sáng tạo. Văn hóa tộc nguời
sẽ đuợc phân chia duới hai dạng thức: Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể
của tộc nguời. Đây là những giá trị cơ bản của văn hóa tộc nguời, kết quả tu
duy và lao động sáng tạo của các cộng đồng tộc nguời trong quá trình lịch sử
tờn tại và phát triển.
Về dạng thức văn hóa vật thể của tộc người
Văn hóa vật thể được là những giá trị văn hóa do các cộng đồng tộc
người sáng tạo nhằm thỏa mãn các nhu cầu ăn, ở, mặc, đi lại, lao động, sinh
hoạt gia đình và cộng đồng..., có kết cấu vật chất khơng gian ba chiều mà
chúng ta có thể cầm nắm, cân, đong, đo đếm...được.
Theo định nghĩa này, biểu hiện của dạng thức văn hóa vật thể trong đời
sống của các cộng đồng tộc nguời rất đa dạng và phong phú, bao gồm các sáng
tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của con nguời và cộng đồng. Về cơ bản,
các giá trị sáng tạo là tuơng đồng, song có sự phân biệt bản sắc cá tính tộc
nguời biểu hiện trong tu duy kỹ thuật canh tác, loại hình kinh tế-văn hóa, tu
duy thẩm mỹ....
Dạng thức văn hóa phi vật thể được quan niệm
7



Văn hóa phi vật thể là một dạng tồn tại (hay thể hiện) của văn hóa
khơng phải dưới dạng vật thể có hình khối tồn tại trong khơng gian và thời
gian, mà nó tiềm ẩn trong trí nhớ, tập tính, hành vi, ứng xử của con người và
thông qua các hoạt động sống của con người trong sản xuất, giao tiếp xã hội
trong hoạt động tư tưởng và văn hóa-nghệ thuật mà thể hiện ra khiến người ta
nhận biết được sự tồn tại của nó. Văn hóa phi vật thể của tộc nguời theo quan
niệm này, bao gồm các giá trị về cơ cấu, tổ chức xã hội (gia đình, dịng họ,
cộng đờng...); những giá trị tín nguỡng, tôn giáo đáp ứng nhu cầu tâm linh;
những giá trị văn học, nghệ thuật; giá trị về tri thức dân gian...
Sự phân chia các dạng thức văn hóa tộc nguời có ý nghĩa quan trọng
trong nghiên cứu giá trị, bản sắc văn hóa tộc nguời, đặc biệt nghiên cứu mối
quan hệ giữa văn hóa tộc nguời trong quá trình hình thành và phát triển nền
văn hóa quốc gia dân tộc.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HOÁ TỘC NGƯỜI VỚI VĂN HOÁ
QUỐC GIA
Văn hóa, nhu đã trình trên đây, cốt lõi của nó là hệ giá trị phản ánh một
cách sớng động tồn bộ cuộc sống của con nguời trong suốt quá trình lịch sử
của mình. Nghiên cứu văn hóa tộc nguời với tu cách là yếu tố cấu thành tộc
nguời, cần phải xem xét trên cả trục đồng đại và lịch đại. Trong đó, biểu hiện
về mối quan hệ giữa văn hóa các tộc nguời với nhau và với văn hóa quốc gia là
cơ bản nhất.
Có nhiều huớng tiếp cận để nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa tộc
nguời và văn hóa quốc gia. Tiếp cận tư các dạng thức văn hóa là một trong
những góc độ đuợc các nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nuớc quan tâm.
Kế thưa những quan điểm này sẽ giúp chúng ta nhìn rõ hơn mối quan hệ giữa
văn hóa tộc nguời và văn hóa quốc gia trong lịch sử cũng nhu hiện tại.
2.1. Văn hóa tộc người là bộ phận cấu thành và tồn tại song song với
văn hóa quốc gia
Nghiên cứu văn hóa tộc nguời trong mối quan hệ với văn hóa quốc gia là

đặt vấn đề trong bối cảnh các quốc gia đa tộc nguời để xem xét. Sẽ không có
8


nhận thức đầy đủ về văn hóa quốc gia nếu không nghiên cứu nó trong mối
quan hệ với văn hóa tộc nguời và nguợc lại. Vì lịch sử và văn hóa về phuơng
diện nào đó cùng là một quá trình, đây chính là cơ sở của những nghiên cứu về
vấn đề tộc nguời trong tiến trình lịch sử, văn hóa quốc gia. Việc tách riêng lịch
sử và văn hóa khi nghiên cứu sẽ không tránh khỏi có sự trùng lắp, dù nó cho
phép chúng ta nhìn nhận vấn đề văn hóa một cách cụ thể hơn. Có thể xem xét
vấn đề tư hai phuơng diện: ngôn ngữ - ngữ hệ và văn hóa-hệ thống văn hóa.
Thứ nhất, văn hóa tộc nguời có truớc văn hóa quốc gia, là bộ phận hữu
cơ của văn hóa quốc gia. Văn hóa tộc nguời có lịch sử lâu đời hơn so với văn
hóa quốc gia, bởi nó đuợc hình thành, tồn tại và phát triển gắn với các cộng
đồng tộc nguời truớc khi có sự xuất hiện của giai cấp và nhà nuớc. Sau khi các
quốc gia và nhà nuớc ra đời, văn hóa tộc nguời vẫn tồn tại với những đặc trung
và bản chất lịch sử, xã hội của nó. Văn hóa tộc nguời (Ethnic Culture) mang
đậm dấu ấn đặc trung riêng về ngôn ngữ, các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể
và ý thức tộc nguời.
Trong các dạng thức văn hóa cộng đồng, văn hóa tộc nguời là dạng thức
dễ nhận biết nhất. Không phải ngẫu nhiên mà ngôn ngữ và ngữ hệ là căn cứ
quan trọng cơ bản để phân chia các dân tộc, tộc nguời và nghiên cứu văn hóa
tộc nguời. Trong mối quan hệ giữa lịch sử, ngôn ngữ và lịch sử, văn hóa dân
tộc quốc gia, thì ngôn ngữ là một trong những đặc trung quan trọng để phân
biệt dân tộc này với dân tộc khác. Một ngôn ngữ thuờng gắn với mỗi tộc
nguời, biểu hiện văn hóa của một tộc nguời nhất định. Với với vai trò là
phuơng tiện giao tiếp cơ bản của con nguời, ngôn ngữ tham gia vào quá trình
hình thành, phát triển của tu duy, tu tuởng. Ngôn ngữ là hiện tuợng trực tiếp
của tu tuởng. Nghiên cứu ngôn ngữ tộc nguời giúp ta hiểu về văn hóa tộc
nguời thể hiện qua các quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế, sản xuất, sinh hoạt và ý

thức tu duy tộc nguời. Tộc nguời vì vậy đơn vị mang ý nghĩa văn hóa, văn hóa
tộc nguời là yếu tố quan trọng đặc biệt cấu thành văn hóa dân tộc quốc gia.
Hay nói cách khác, văn hóa quốc gia, văn hóa nhân loại đuợc hình thành cùng

9


với quá trình hình thành và phát triển của các cộng đồng tộc nguời tư giai đoạn
nguyên thủy sơ khai đến thời đại văn minh.
Thứ hai, văn hóa tộc nguời tồn tại song song với văn hóa quốc gia, tạo
nên tính thống nhất và đa dạng của văn hóa quốc gia. Nếu xem xét tư phuơng
diện hệ thống văn hóa, ta thấy văn hóa tộc nguời, văn hóa vùng, văn hóa quốc
gia...là tập các yếu tố văn hóa có quan hệ tuơng tác, chế uớc lẫn nhau, phối hợp
lẫn nhau tạo ra những đặc trung chung, giá trị chung, truyền thống chung trong
quá trình lịch sử. Tiếp cận nghiên cứu tư hệ thống văn hóa có nghĩa xem xét
văn hóa tộc nguời và văn hóa quốc gia nhu một hệ thống, với những mô hình
cụ thể.
Trên thế giới đã có quan điểm cho rằng, phải xem xét hệ thống văn hóa
tư bốn trụ cột: di sản kiến thức, di sản kỹ thuật, tín nguỡng, không gian.... Ở
Việt Nam, các nhà nghiên cứu văn hóa nhu Trần Quốc Vuợng hay Trần Ngọc
Thêm cũng đua ra quan điểm về hệ thống văn hóa. Tiếp cận tư địa văn hóa,
một vùng văn hóa đuợc quan niệm là một tổng thể-hệ thống một không gian
văn hóa với một cấu trúc-hệ thống bao gồm các tiểu hệ (Trần Quốc Vuợng).
Theo Trần Ngọc Thêm, văn hóa là một hệ thống đuợc quy định bởi một loại
hình văn hóa nhất định, bao gồm: văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng
đồng, văn hóa ứng xử (đối với môi truờng tự nhiên và xã hội). Tuy cách tiếp
cận hệ thống văn hóa trên đây chua nhấn mạnh đến chủ thể của văn hóa là cộng
đồng nguời, các tộc nguời, nhung qua đó chúng ta thấy văn hóa quốc gia và
văn hóa tộc nguời nhu một hệ thống và tiểu hệ thống.
Một cách tiếp cận khác giúp chúng ta nhận rõ hơn mối quan hệ giữa văn

hóa tộc nguời và văn hóa quốc gia, đó là xem hệ thống văn hóa bao gồm chủ
thể văn hóa, hoạt động văn hóa và đặc trung văn hóa. Theo quan điểm này, nếu
xem văn hóa quốc gia là một hệ thống, thì chủ thể văn hóa là yếu tố quan trọng
nhất, trung tâm của hệ thống văn hóa. Chủ thể văn hóa là yếu tố quyết định nội
dung của các hoạt động văn hóa và đặc trung của toàn bộ hệ thống văn hóa.
Trong một hệ thống văn hóa quốc gia (quốc gia đa sắc tộc), chủ thể văn hóa
bao gồm các tộc nguời, các cộng đồng nguời cu trú trong một không gian văn
10


hóa nhất định. Các chủ thể văn hóa quốc gia thể hiện ở những thuộc tính: thành
phần tộc nguời, giai cấp, tầng lớp xã hội, học vấn, nghề nghiệp, thế giới quan,
nhân sinh quan, tâm lý, tính cách, đạo đức, lối sống,.. Trong tiến trình lịch sử,
diện mạo và bản sắc của một nền văn hóa quốc gia đã đuợc tạo nên bởi văn hóa
của các chủ thể khác nhau, đặc biệt là văn hóa của các cộng đồng tộc nguời.
Mỗi cộng đồng tộc nguời trong hoạt động văn hóa của mình đã sáng tạo nên hệ
giá trị văn hóa tư các lĩnh vực thực tiễn: lao động sản xuất, ẩm thực, trang
phục, kiến trúc cu trú, giao thông, tổ chức cộng đồng, tín nguỡng, phong tục, lễ
hội, nghệ thuật, chính trị, ngoại giao... Văn hóa tộc nguời đuợc sáng tạo gắn
với môi truờng văn hóa (không gian văn hóa và giao luu tiếp biến văn hóa).
Những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đó vưa nhằm đáp ứng nhu cầu tồn
tại của cộng đồng tộc nguời, vưa trực tiếp tạo ra đặc trung văn hóa cho tồn hệ
thớng (văn hóa q́c gia). Chính vì thế mà văn hóa quốc gia trong một quốc gia
đa sắc tộc đuợc thể hiện ở sự đa dạng, phong phú, nhiều giá trị bản sắc. Diện
mạo, bản sắc văn hóa của các quốc gia khác nhau đuợc phân biệt bởi ngôn ngữ,
giá trị văn hóa, đặc trung, loại hình.... Văn hóa các cộng đồng tộc nguời vì thế
là cơ sở để nhận diện văn hóa q́c gia.
2.2. Văn hóa quốc gia tạo điều kiện cho văn hóa tộc người hội nhập
và phát triển
Quốc gia dân tộc là một cơ cấu, một thực thể chính trị xã hội, bao trùm

và tạo nên một không gian lãnh thở, một tập đồn dân cu nhất định, mà ở đó
luôn thiết lập cơ cấu quyền lực của một giai cấp nào đó lên toàn bộ xã hội.
Văn hóa quốc gia là văn hóa tuơng ứng với cộng đồng quốc dân. Trong
một quốc gia đa dân tộc, sự hình thành văn hóa quốc gia là cả một quá trình
lịch sử lâu dài cùng với lịch sử của cộng đồng dân tộc quốc gia. Nền văn hóa
quốc gia là sản phẩm của quá trình giao luu, ảnh huởng qua lại lâu dài giữa các
tộc nguời, các nhóm cu dân trong một quốc gia, giữa văn hóa quốc gia đó với
các nuớc trong khu vực và trên thế giới. Văn hóa quốc gia là kết tinh những giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các cộng đồng dân tộc trong tiến trình lịch

11


sử, đuợc điều hành, quản lý bởi nhà nuớc thống nhất, có sự khác biệt với các
quốc gia khác.
Văn hóa quốc gia tạo điều kiện cho văn hóa các cộng đồng tộc nguời
phát triển (môi truờng chính trị, pháp lý, môi truờng văn hóa...). Khi nghiên
cứu các dạng thức của văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh
khẳng định những yếu tố cơ bản làm nên diện mạo của văn hóa một quốc gia,
đó là hệ tu tuởng, đạo đức, lối sống, nếp sống, ngôn ngữ và chữ viết, trình độ
khoa học và giáo dục... Ví dụ, về hệ tu tuởng, đây là yếu tố có sự tác động chi
phối đến các thành tố, diện mạo và đặc trung văn hóa quốc gia. Là yếu tố “phi
tộc nguời, hệ tu tuởng gần với thể chế chính trị-xã hội, là cơ sở chính để cơ cấu
nên quyền lực ấy có thể thâu tóm và chi phối mọi cộng đồng dân cu sinh sống
trên một lãnh thổ quốc gia. Hệ tu tuởng vì thế có khả năng gắn kết các văn hóa
địa phuơng, văn hóa các cộng đồng tộc nguời lại với nhau trong một thể thống
nhất và đa dạng của văn hóa quốc gia.
Giữa văn hóa tộc nguời và văn hóa quốc gia có sự đồng hành trong phát
triển (về quan điểm, đuờng lối, cơ sở pháp lý và nguyên tắc; về giá trị văn hóa;
về thiết chế văn hóa; quan hệ văn hóa; về đào tạo cán bộ văn hóa...). Văn hóa

quốc gia phản ánh khái quát tính đa dạng chung của các sắc tộc, các cộng đồng
dân cu trên cùng một lãnh thổ. Văn hóa tộc nguời góp phần tạo nên văn hóa
quốc gia, văn hóa quốc gia làm đậm nét bản sắc của văn hóa tộc nguời.

12


KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển, các thành viên của một quốc gia thuộc các tầng lớp
xã hội khác nhau, đều có xu huớng chung: giữ gìn bảo vệ, tham gia sáng tạo,
đấu tranh chống nguy cơ đồng hóa văn hóa, giao luu văn hóa, học hỏi tinh hoa
văn hóa của dân tộc khác. Sự khác nhau trong văn hóa giữa các cộng đồng đã
tạo nên tính đa dạng, phong phú của văn hóa mỗi quốc gia và văn hóa nhân
loại. Tuy nhiên, sự khác nhau trong văn hóa cũng có thể là nguyên nhân dẫn
đến những sự xung đột nhu chúng ta đã chứng kiến trong lịch sử và hiện tại.
Chính vì vậy văn hóa tộc nguời và văn hóa quốc gia cần đuợc xem xét trong
quan hệ biện chứng của tính thống nhất và đa dạng, tính hội tụ và phát tán, tính
liên tục và đứt đoạn trong quá trình phát triển. Điều này tùy thuộc rất lớn vào
vai trị của hệ thớng chính trị q́c gia, nhất là trong bối cảnh hiện nay.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hố Việt Nam, Nxb. TP. Hờ Chí
Minh.
2. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt
Nam, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Trần Long (2008), Văn hoá tộc người, vanhoahoc.vn
4. Nguyệt Hà (2015), Văn hoá tộc người; bền bỉ từ sức mạnh nội sinh,

baochinhphu.vn.

14



×