Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

(TIỂU LUẬN) PHÂN TÍCH rủi RO TRONG môi TRƯỜNG KINH tế, CHÍNH TRỊ, PHÁP LUẬT đối với VINFAST tại THỊ TRƯỜNG mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 79 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KHOA THƯƠNG MẠI


BÁO CÁO
MÔN RỦI RO VÀ BẢO HIỂM TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ

Đề tài
PHÂN TÍCH RỦI RO TRONG MƠI TRƯỜNG KINH TẾ, CHÍNH
TRỊ, PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI VINFAST TẠI THỊ TRƯỜNG MỸ

GVHD: Hồ Thúy Trinh
Nhóm thực hiện: Nhóm Daisy
1. Trần Thị Thu Uyên
2. Hoàng Tuyết Ngân
3. Phùng Thị Thúy Phụng
4. Vũ Thị Phương Hồng

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 6 NĂM 2022

0

0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT......................................................................................................4
1.1 Môi trường kinh tế.........................................................................................................4
1.1.1 Hệ thống kinh tế thế giới..........................................................................................4


1.1.2 Một số dự báo tình hình kinh tế thế giới năm 2022....................................................7
1.1.3 Kinh tế Việt Nam...................................................................................................10
1.1.4 Những rủi ro tiềm ẩn trong môi trường kinh tế.......................................................18
1.2 Mơi trường chính trị.....................................................................................................25
1.2.1 Tác động của mơi trường chính trị đến hoạt động kinh doanh.................................26
1.2.2 Mơi trường chính trị tại Việt Nam..........................................................................27
1.2.3 Rủi ro trong mơi trường chính trị...........................................................................29
1.3 Mơi trường pháp luật...................................................................................................33
1.3.1 Tổng quan mơi trường pháp luật............................................................................33
1.3.2 Môi trường pháp luật Việt Nam..............................................................................34
1.3.3 Các dòng luật........................................................................................................37
1.3.4 Các luật ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp......................49
CHƯƠNG 2. QUẢN TRỊ RỦI RO MƠI TRƯỜNG KINH TẾ - CHÍNH TRỊ - PHÁP LUẬT
TRONG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ................................................................................................58
2.1 Tình huống đặt ra.........................................................................................................58
2.2 Nhân diện rủi ro...........................................................................................................58
2.2.1 Kinh tế................................................................................................................... 58
2.2.2 Chính trị................................................................................................................59
2.2.3 Pháp luật............................................................................................................... 59
2.3 Phân tích rủi ro............................................................................................................59
2.3.1 Kinh tế................................................................................................................... 59
2.3.2 Chính trị................................................................................................................63
2.3.3 Pháp luật............................................................................................................... 65
2.4 Đo lường rủi ro.............................................................................................................67
2.5 Kiểm sốt và phịng ngừa..............................................................................................74
2.5.1 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro kinh tế................................................................74
2.5.2 Các biện pháp phịng ngừa rủi ro chính trị..............................................................74
2.5.3 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro pháp luật............................................................75
2.6 Tài trợ rủi ro................................................................................................................75


0

0


MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay ngày càng phát triển, mức sống người dân tăng
cao cùng với xu hướng ơ tơ hóa đang phổ cập. Tốc độ đơ thị hóa nhanh và nhu cầu sở
hữu ơ tơ ngày căng tăng, nhưng lại khơng có hãng ơ tơ nào từ Việt Nam được bán ra.
Thấy được điều đó tập đồn Vingroup đã quyết định đầu tư vào ngành cơng nghiệp ơ
tơ với thương hiệu Vinfast nhằm hình thành nên doanh nghiệp ô tô đầu tiên đến từ
Việt Nam với tham vọng từng bước giành thế tự chú và chủ động về cơng nghiệp ơ tơ.
Sau 5 năm hình thành và phát triển Vinfast đã đặt được nhiều thành công trong
ngành cơng nghiệp ơ tơ, chiếm được lịng tin của khách hàng trong và ngoài nước,
Vinfast ngày căng phát triển ra mắt nhiều dự án ô tô đặc sắc, đầy tính thu hút. Khi đã
thành cơng được như vậy Vinfast lại ấp ủ một giấc mơ có thể đưa ơ tô Việt ra thị
trường Châu Âu, mà thị trường hiện tại đang được doanh nghiệp này nhắm tới đó là
Mỹ, một thị trường với nhiều cơ hội nhưng cũng khó tinh đầy sự thách thức cũng như
rủi ro cả về pháp luật, chinh trị, nền kinh tế. Nếu xâm nhập vào Mỹ Vinfast khơng có
những chiến lược kinh doanh, khơng tìm hiểu rõ về thị trường và có các biện pháp
quản trị những rủi ro có thể gặp phải tại thị trường sẽ gây rất nhiều khó khăn, thách
thức do doanh nghiệp.

0

0


CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT
1.1 Môi trường kinh tế

1.1.1 Hệ thống kinh tế thế giới
Hệ thống kinh tế là một cơ chế liên quan đến sản xuất, phân phối và tiêu dùng
hàng hố, dịch vụ. Nó bao gồm các cấu trúc và các quá trình hướng dẫn phân bố các
nguồn lực và hình thành nguyên tắc hoạt động kinh doanh trong một đất nước. Người
ta có thể phân chia hệ thống kinh tế thế giới theo nhiều tiêu chí khác nhau:
Theo chế độ chính trị có: nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
-

Chủ nghĩa tư bản
Là một hệ thống thị trường tự do được xây dựng trên cơ sở tư nhân nắm quyền

sở hữu và kiểm sốt nguồn lực. Theo đó những người sở hữu vốn có tồn quyền
hưởng lợi nhuận từ cơng sức và sự đầu tư đã bỏ ra cũng như những mạo hiểm mà họ
chấp nhận đối mặt.
Trái ngược lại, chủ nghĩa xã hội lại đề cao hệ thống kế hoạch tập trung xây
dựng cơ sở hữu công tất cả các nhân tố sản xuất và điều khiển tất cả các hoạt động
kinh tế.
Theo cơ chế quản lý có: nền kinh tế thị trường, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung và
kinh tế hỗn hợp.
-

Kinh tế thị trường
Là một hệ thống trong đó các cá nhân chứ khơng phải là chính phủ sẽ quyết

định các vấn đề kinh tế. Mọi người có quyền tự do chọn làm việc gì, ở đâu, tiêu dùng
hay tiết kiệm như thế nào và nên tiêu dùng bây giờ hay sau này. Như vậy, trong một
nền kinh tế thị trường khu vực kinh tế tư nhân được tự do phát triển. Nền kinh tế thị
trường được tác động bởi mục tiêu lợi nhuận, các nhà sản xuất sẽ sản xuất hiệu quả
những sản xuất hiệu quả những sản phẩm mà người tiêu dùng có nhu cầu. Đến lượt

mình người tiêu dùng sẽ đảm bảo rằng vốn và sức lao động nhà sản xuất bỏ ra xứng

0

0


đáng, bằng cách quyết định mua hay không mua sản phẩm. Như vậy, kinh tế thị
trường khuyến khích việc phát triển trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa người sản xuất
và người tiêu dùng. Kinh tế thị trường luôn tạo ra cơ hội cho mọi người sáng tạo, ln
tìm cách để cải tiến lối làm việc và rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công
hay thất bại để phát triển không ngừng. Kinh tế thị trường tạo ra cơ chế đào tạo, tuyển
chọn, sử dụng người quản lý kinh doanh năng động, có hiệu quả và đào thải các nhà
quản lý kém hiệu quả. Kinh tế thị trường tạo ra môi trường kinh doanh tự do, dân chủ
trong kinh tế bảo vệ lợi ích người tiêu dùng. Tuy nhiên, kinh tế thị trường chú trọng
đến những nhu cầu có khả năng thanh tốn, khơng chú ý đến những nhu cầu cơ bản
của xã hội. Kinh tế thị trường, đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cái gì có lãi thì làm, khơng
có lãi thì thơi nên nó khơng giải quyết được cái gọi là hàng hố cơng cộng (đường xá,
các cơng trình văn hố, y tế và giáo dục…). Trong nền kinh tế thị trường có sự phân
biệt giàu nghèo rõ rệt và khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng: giàu ít, nghèo nhiều,
bất cơng xã hội. Suy đồi đạo đức, khơng cịn lương tâm do chạy theo lợi nhuận mà
làm mọi thứ (hàng giả, hàng kém chất lượng, thực phẩm ôi thiu)
-

Kinh tế tập trung
Là hệ thống kinh tế trong đó nhà nước sở hữu và chi phối mọi nguồn lực. Có

nghĩa là, nhà nước có quyền quyết định hàng hoá và dịch vụ nào được sản xuất, với số
lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào và giá cả ra sao. Ví dụ, trong một nền kinh tế
thị trường, nếu chính phủ muốn có nhiều ơ tơ hơn, chính phủ đó phải thu thuế và mua

xe từ thị trường. Còn trong nền kinh tế tập trung, bàn tay vơ hình của chính phủ sẽ u
cầu các nhà sản xuất ô tô do nhà nước sở hữu và điều khiển phải sản xuất nhiều xe
hơn mà không cần quan tâm đến giá cả. Những nền kinh tế tập trung có nhiều nhược
điểm. Việc Nhà nước sở hữu các phương tiện sản xuất – đất đai, nông trại, nhà xưởng,
ngân hàng cửa hàng, bệnh viện…., các phương tiện này lại được quản lý bởi các nhân
viên làm việc cho chính phủ chứ khơng phải người tiêu dùng quyết định điều này. Nền
kinh tế tập trung có thể hoạt động tốt trong ngắn hạn, đặc biệt là trong quá trình tăng
trưởng bởi nhà nước có khả năng di chuyển những nguồn lực chưa được khai thác hay
khai thác chưa hiệu quả để tạo ra tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng ấn tượng có thể đạt
được cho đến khi những nguồn lực chưa được sử dụng được đem vào hoạt động hiệu
quả (chủ yếu là nguồn lao động). Tương tự như vậy, các nước kinh tế tập trung có xu

0

0


hướng phát triển những ngành sản xuất đòi hỏi quy mơ và vốn lớn để có được lợi
nhuận cao nhưng lại chỉ sản xuất các sản phẩm khơng có lợi thế cạnh tranh với nước
ngoài với chất lượng chỉ ở mức thấp nhận được.
Nền kinh tế hỗn hợp là một hệ thống kết hợp các khía cạnh của cả chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội. Hệ thống kinh tế hỗn hợp bảo vệ tài sản tư nhân và cho phép
mức độ tự do kinh tế trong việc sử dụng vốn, nhưng cũng cho phép các chính phủ can
thiệp vào các hoạt động kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu xã hội. Ví dụ, chính phủ
có thể sở hữu các công ty sản xuất ô tô. Nhưng thay vì yêu cầu các nhà quản lý phải
bán mỗi chiếc với giá bao nhiêu, chính phủ để cung cầu thị trường quyết định giá bán
của xe. Các nước được xếp vào bảng các nền kinh tế hỗn hợp tiêu biểu gồm có Nam
Phi, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Brazil, Đức và Ấn Độ.
Theo chế độ sở hữu tài sản có: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tư nhân…
-


Chế độ sở hữu toàn dân

Là chế độ sở hữu gồm tổng thể các quy phạm pháp luật xác định chủ thể, khách
thể, nội dung, phương thức thực hiện quyền sở hữu của toàn dân. Sở hữu toàn dân là
hình thức cao nhất của sở hữu xã hội chủ nghĩa, trong đó các tư liệu sản xuất, tư liệu
sinh hoạt, các phương tiện và tài sản khác thuộc về nhà nước – người đại diện chính
thức của nhân dân. Ví dụ, Nhà nước đại diện cho nhân dân nắm toàn bộ các tư liệu
sản xuất chủ yếu trong tay để thực hiện sứ mệnh lịch sử cao cả của mình. Hiến pháp
2013 đã tiếp tục khẳng định tại Điều 53: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài
sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.” Như vậy, toàn bộ những tư liệu sản xuất
chủ yếu như đất đai, tài nguyên trên mặt biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm
lục địa Việt Nam.,. cùng với những tài sản khác theo quy định của pháp luật đều thuộc
quyền quản lý, khai thác và sử dụng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam.
Quyền sở hữu tư nhân là một phạm trù pháp lý được hiểu là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những tài

0

0


sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân hoặc là những quyền dân sự cụ thể của cá nhân
với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản của mình thơng qua các quyền năng chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản.
1.1.2 Một số dự báo tình hình kinh tế thế giới năm 2022
-


Tăng trưởng toàn cầu được dự báo giảm trong năm 2022
Theo Báo cáo sơ bộ Triển vọng kinh tế thế giới phát hành vào tháng 3/2022, Tổ

chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) nhận định cuộc xung đột giữa Nga và
Ukraine đã tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn, ảnh hưởng đến hàng triệu
người và là một cú sốc kinh tế nghiêm trọng về thời gian và mức độ bất ổn. Mức độ
tác động kinh tế do cuộc xung đột gây ra rất khó định lượng, phụ thuộc một phần vào
thời gian xảy ra cuộc chiến và các phản ứng chính sách, nhưng chắc chắn xung đột sẽ
tạo ra một lực cản lớn đối với tăng trưởng toàn cầu trong ngắn hạn và tạo áp lực lạm
phát mạnh hơn. Theo ước tính của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế ),
tăng trưởng tồn cầu năm 2022 có thể giảm hơn 1 điểm phần trăm trong năm 2022 từ
mức dự báo 4,5% đưa ra vào tháng 12/2021.
-

Thương mại toàn cầu có xu hướng tăng sau khi đã chạm đáy.
Thước đo thương mại hàng hóa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong

tháng 02/2022 cho thấy sự gián đoạn nguồn cung đã làm giảm sức mạnh của phục hồi
thương mại hàng hóa tồn cầu, nhưng điều này có thể sẽ thay đổi khi áp lực chuỗi
cung ứng có dấu hiệu giảm bớt. Chỉ số tổng hợp là 98,7. Tuy nhiên, dấu hiệu chạm
đáy của chỉ số tổng hợp cho thấy giao dịch hàng hóa có thể sớm tăng lên quanh mức
cơ sở (100) trong ngắn hạn.
Hầu hết các chỉ số thành phần của thước đo đều gần với giá trị cơ sở cho thấy xu
hướng tăng trưởng, ngoại trừ chỉ số các sản phẩm ô tô (92,0) và vận chuyển công-tennơ (97,2). Chỉ số vận chuyển công-ten-nơ tiếp tục giảm xuống dưới xu hướng do tắc
nghẽn tại các cảng, nhưng tốc độ giảm chậm lại có thể cho thấy dấu hiệu của sự thay
đổi trong tương lai gần.
-

Giá cả và lạm phát tăng


0

0


Theo Bộ phận dự báo của tổ chức The economist (EIU)[2], giá các mặt hàng
năng lượng tiếp tục tăng trong năm 2022. Xung đột giữa Nga và Ukraine đã khiến giá
dầu thơ, khí đốt tự nhiên và khí tự nhiên hóa lỏng tăng vọt. Cuộc chiến ở Ukraine và
mối bất hịa giữa Nga và phương Tây có thể kéo dài trong vài tháng tới, điều này sẽ
khiến giá năng lượng duy trì ở mức cao như hiện tại trong phần lớn thời gian của năm.
Ukraine và Nga là những nhà xuất khẩu ngũ cốc lớn trên thế giới, tổng nguồn
cung của 2 quốc gia này chiếm 30% thương mại toàn cầu về lúa mì, 17% ngơ và hơn
50% dầu hạt hướng dương. Ukraine cung cấp khoảng 1/4 lượng ngũ cốc và dầu thực
vật nhập khẩu của EU và khoảng một nửa lượng ngô nhập khẩu của EU. Khoảng 2/3
lượng ngũ cốc xuất khẩu của Ukraine và 3/4 lượng dầu hạt hướng dương xuất khẩu
qua các cảng Biển Đen của nước này, nhiều cảng hiện đã bị đóng cửa. Do đó, giá tồn
cầu đối với các mặt hàng nơng sản đã tăng vọt và sẽ tiếp tục tăng lên chừng nào xung
đột vẫn diễn ra ở Ukraine.
-

Điều kiện tài chính có xu hướng thắt chặt trên toàn cầu.
Ngày 16/3/2021, Fed (Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ) đã tăng lãi suất thêm 25

điểm cơ bản (0,25%) và đạt mức 0,5% nhằm làm giảm đà gia tăng của chỉ số giá tiêu
dùng. Fed cũng cho biết đã lên kế hoạch tăng thêm sáu lần nữa trong năm 2022 với lãi
suất dự kiến đạt 1,9% vào cuối năm 2022.
Theo IMF (Quỹ tiền tệ Quốc tế), việc tiết giảm chính sách tiền tệ của Hoa Kỳ sẽ
khiến các điều kiện tài chính tồn cầu thắt chặt hơn, gây áp lực lên các đồng tiền của
thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển. Lãi suất cao hơn cũng sẽ làm

cho việc đi vay trên toàn thế giới trở nên đắt đỏ hơn. Mặc dù việc củng cố tài khóa
được thực hiện ở nhiều thị trường mới nổi và các nền kinh tế đang phát triển vào năm
2022, gánh nặng nợ cao sau đại dịch sẽ là một thách thức trong những năm tiếp theo.
-

Thị trường lao động phục hồi chậm và không chắc chắn.
ILO (Tổ chức lao động Quốc tế) cho rằng khả năng phục hồi của thị trường lao

động năm 2022 chậm và không chắc chắn do đại dịch sẽ tiếp tục tác động đáng kể đến
thị trường lao động toàn cầu. ILO đã hạ mức dự báo về khả năng phục hồi của thị
trường lao động năm 2022, dự kiến mức thâm hụt thời gian làm việc toàn cầu trong

0

0


năm 2022 so với Quý IV/2019 sẽ tương đương với 52 triệu việc làm tồn thời gian.
Ước tính thất nghiệp toàn cầu năm 2022 là 207 triệu người, so với 186 triệu năm
2019. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động toàn cầu năm 2022 dự kiến sẽ vẫn thấp hơn
1,2 điểm phần trăm so với năm 2019.
-

Đầu tư quốc tế dự kiến tăng trong thời gian tới
Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển UNCTAD [6] nhận định

nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu tăng trở lại mạnh mẽ vào năm
2021, nhưng khơng đồng đều. Dịng vốn FDI tồn cầu tăng 77% từ mức 929 tỷ USD
vào năm 2020 lên mức 1,65 nghìn tỷ USD vào năm 2021. Các nền kinh tế phát triển
có mức tăng mạnh nhất cho đến nay, với vốn FDI ước tính đạt 777 tỷ USD vào năm

2021, gấp ba lần mức đặc biệt thấp vào năm 2020. Ở châu Âu, hơn 80% sự gia tăng
dòng vốn là do sự thay đổi lớn ở các quốc gia trung gian tài chính. Dịng tiền vào Hoa
Kỳ tăng hơn gấp đơi, với sự gia tăng hồn tồn do sự gia tăng các hoạt động mua bán
và sáp nhập xuyên biên giới (M&A).
Trong tổng mức tăng của dịng vốn FDI tồn cầu vào năm 2021 (718 tỷ USD),
hơn 500 tỷ USD, tức gần ba phần tư, được ghi nhận ở các nền kinh tế phát triển. Các
nền kinh tế đang phát triển có mức tăng trưởng phục hồi khiêm tốn hơn. Dòng vốn
FDI đổ vào các nền kinh tế đang phát triển tăng 30% lên gần 870 tỷ USD, trong đó
Đơng và Đông Nam Á tăng 20%, khu vực Mỹ Latinh và Caribe ghi nhận sự phục hồi
gần mức trước đại dịch.
-

Một số nhân tố rủi ro tác động tới triển vọng kinh tế thế giới.
Theo WB (ngân hàng thế giới), sau sự phục hồi tăng trưởng đáng kể vào năm

2021, triển vọng tồn cầu tiếp tục có nhiều bất ổn và tăng trưởng kinh tế có xu hướng
giảm. Tái bùng phát đại dịch do biến thể Omicron có thể áp đảo các hệ thống y tế và
dẫn tới các biện pháp kiểm sốt đại dịch bổ sung trên tồn cầu. Đại dịch có thể tiếp tục
làm trầm trọng thêm tình trạng tắc nghẽn nguồn cung, làm tăng lạm phát, gia tăng áp
lực thắt chặt hơn chính sách tiền tệ ở nhiều nền kinh tế. Sự phục hồi các nền kinh tế
đang phát triển và thị trường mới nổi cũng có thể bị ảnh hưởng do thiên tai và các sự
kiện liên quan đến biến đổi khí hậu.

0

0


-


Tác động kinh tế toàn cầu của cuộc xung đột giữa Nga và Ukraine

Theo IMF, xung đột giữa Nga và Ukraine là một địn giáng mạnh vào nền kinh tế
tồn cầu, sẽ ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng và làm tăng giá. Các tác động sẽ phản ánh
qua ba kênh chính. Thứ nhất, giá các mặt hàng như thực phẩm và năng lượng cao hơn
sẽ đẩy lạm phát lên cao hơn nữa, từ đó làm giảm giá trị thu nhập và tác động đến nhu
cầu. Thứ hai, các nền kinh tế, đặc biệt là các quốc gia láng giềng, sẽ phải vật lộn với
thương mại, chuỗi cung ứng và kiều hối bị gián đoạn cũng như sự gia tăng dòng người
tị nạn. Thứ ba, niềm tin kinh doanh giảm và sự không chắc chắn của nhà đầu tư cao
hơn sẽ tác động lớn đến giá tài sản, thắt chặt các điều kiện tài chính và có khả năng
thúc đẩy dịng vốn chảy ra từ các thị trường mới nổi.
Nga và Ukraine là những nhà sản xuất hàng hóa lớn, xung đột giữa hai quốc gia
này đã khiến giá toàn cầu tăng cao, đặc biệt là đối với dầu và khí đốt tự nhiên. Chi phí
lương thực đã tăng vọt. Về lâu dài, chiến tranh có thể làm thay đổi cơ bản trật tự kinh
tế và địa chính trị tồn cầu nếu thương mại năng lượng thay đổi, chuỗi cung ứng được
cấu hình lại, mạng lưới thanh tốn bị phân mảnh và các quốc gia phải xem xét lại việc
nắm giữ tiền tệ dự trữ. Căng thẳng địa chính trị gia tăng càng làm tăng thêm rủi ro
phân tán kinh tế, đặc biệt là đối với thương mại và công nghệ.
Theo EIU (Cơ quan tình báo kinh tế), xung đột giữa Nga và Ukraine sẽ ảnh
hưởng đến nền kinh tế toàn cầu thơng qua ba kênh chính: trừng phạt tài chính, giá
hàng hóa và gián đoạn chuỗi cung ứng. Giá hàng hóa cao hơn sẽ làm tăng lạm phát
tồn cầu trong năm nay và có thể kéo dài sang năm 2023. Trước đây EIU dự báo lạm
phát toàn cầu lên mức gần 6% trong năm 2022, nhưng giờ đây, mốc đó dự kiến sẽ bị
vượt qua do giá hàng hóa tăng đột biến. Giá cao hơn cũng sẽ khiến các ngân hàng
trung ương thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát.
1.1.3 Kinh tế Việt Nam
Hệ thống kinh tế Việt Nam
Kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực


0

0


tiếp nước ngoài. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng ở Việt Nam một hệ
thống kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đặc trưng về sở hữu: Trước đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một chế độ sở hữu
về tư liệu sản xuất là chế độ công hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể). Từ
khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận trên thực tế có
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả công hữu và tư hữu.
- Đặc trưng về cơ cấu kinh tế: Là nền kinh tế có nhiều thành phần kinh tế, trong đó
kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế.
- Đặc trưng về phân phối: Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh
tế, mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc
của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể
quyết định phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần
đầu và Nhà nước thực hiện phân phối lại.
- Về cơ chế vận hành của nền kinh tế: Kết hợp giữa cơ chế thị trường với vai trò
quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa X, tháng 3-2008, Đảng ta
khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền
kinh tế vừa tuân theo quy luật của thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây cũng là nền kinh tế có tổ chức, có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa vừa phát huy những ưu thế của kinh tế thị trường và kinh tế
kế hoạch, vừa loại bỏ những khuyết tật của hai nền kinh tế đó, nhằm thực hiện mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Hội nhập kinh tế: Việt Nam là quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, Tổ chức
Thương mại Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Nhóm Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng
Phát triển châu Á, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Hiệp định

0

0


Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương, ASEAN. Việc hội nhập kinh tế
không chỉ ở trong khu vực Đơng Nam Á mà thậm chí hội nhập với kinh tế Thế Giới
đã mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế Việt Nam. Lợi ích đó có thể kể đến là:
● Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ
hội để thị trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ
mang vốn và công nghệ vào nước ta sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của
nước ta ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu
đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động và
sử dụng vốn có hiệu quả.
● Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính
của Việt Nam, các nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ từ
năm 1992 đã đem lại những kết quả đáng khích lệ góp phần quan trọng trong
việc nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng…
● Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của Việt Nam:
trong những năm vừa qua nhờ phát triển tốt mối quan hệ đối ngoại song
phương và đa phương các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam trước đây được
giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. Điều
đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn lực cho các
chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.

● Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho chúng ta tiếp thu
khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý. Việt Nam gia nhập kinh
tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật công nghệ tiên tiến của các nước đi trước
để đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo cơ sở vật
chất kỹ thuật cho công cuộc xây dựng CNXH. Hội nhập kinh tế quốc tế là con
đường khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường
đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó mà các kỹ thuật và cơng nghệ mới có
điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ
thuật cơng nghệ nước ngồi nhằm phát triển kỹ thuật cơng nghệ quốc gia.
Tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay

0

0


-

Cơ cấu xuất khẩu nhóm hàng chủ lực.
Năm 2021, có 8 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm

69,7% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tám mặt hàng gồm điện tử, máy tính và linh kiện;
điện thoại và linh kiện; phương tiện vận tải và phụ tùng; sắt thép; gỗ và sản phẩm gỗ;
giày dép; hàng dệt, may; máy móc thiết bị và dụng cụ phụ tùng khác.

-

Kim ngạch xuất khẩu cao song giá trị gia tăng thấp.
Trong 5 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 152,81 tỷ


USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước.

0

0


Trị giá một số mặt hàng xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2022.
-

Mức xuất siêu đạt được cũng do đóng góp của khối doanh nghiệp FDI
Mấy năm nay, Việt Nam xuất siêu đang phụ thuộc vào khối FDI, doanh nghiệp

FDI xuất siêu nhiều thì Việt Nam xuất siêu nhiều. Khối doanh nghiệp nội địa hiện vẫn
nhập siêu lớn và giá trị xuất khẩu so với khối FDI ở nhiều nhóm ngành hàng vẫn chưa
cao.
Các doanh nghiệp FDI góp mặt ở hầu hết các nhóm hàng xuất nhập khẩu quan
trọng của Việt Nam, đặc biệt là ưu thế lớn ở những ngành hàng xuất khẩu quan trọng
nhất như điện thoại; máy vi tính; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; dệt may; giày
dép; gỗ và sản phẩm gỗ…
Năm qua, Samsung vẫn là "ơng lớn" FDI có đóng góp lớn nhất cho xuất khẩu.
Trong báo cáo về kết quả kinh doanh được Samsung Việt Nam công bố hôm 19/1,
Samsung ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ về doanh thu và xuất khẩu so với năm
2020. Cụ thể, doanh thu của Samsung Việt Nam đạt 74,2 tỷ USD tăng 14% so với với
năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đạt 65,5 tỷ USD tăng 16% so với năm 2020.
-

Tính dễ tổn thương của nền kinh tế khi dựa quá nhiều vào xuất khẩu
Các mặt hàng tiềm năng xuất khẩu cao của VN có sắn, cà phê, mây tre lá, cao


su, gốm sứ, cá tra, du lịch... Nhóm có tiềm năng xuất khẩu thấp gồm gạo, mía đường...
Trong đó sắn là cây trồng dễ thích nghi, dễ trồng ở VN nên việc sắn được xuất khẩu
ngày càng được mở rộng từ con số 59 nước và vùng lãnh thổ năm 2009 đã lên đến
khoảng gần 100 nước và vùng lãnh thổ vào năm 2012 cần nhập. Tuy nhiên, thị trường

0

0


xuất khẩu sắn chủ yếu của VN vẫn là Trung Quốc với 85% tổng giá trị xuất khẩu
ngành sắn Việt Nam, việc phụ thuộc vào một thị trường để xuất khẩu cũng mang lại
rất nhiều rủi ro cho hộ nông dân như: ép giá, ngừng nhập khẩu từ phía doanh
nghiệp…
Tuy nhiên, dù xuất khẩu tăng nhanh nhưng tỷ trọng xuất khẩu của các thành
phần kinh tế trong nước ngày càng giảm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI chủ yếu
làm gia công xuất khẩu với phần lớn nguyên vật liệu nhập khẩu. Họ có rất ít kết nối
với các doanh nghiệp trong nước. Nói cách khác, các doanh nghiệp FDI đầu tư mạnh
vào VN chỉ để giải bài toán về lao động, tận dụng lao động giá rẻ của VN. Đóng góp
của FDI trong việc cải tiến cơng nghệ và nâng cao năng lực sản xuất, vì vậy, vẫn
khơng đáng kể. VN không thể phát triển bền vững nếu chỉ dựa vào khối FDI.
Thứ hai, cơ cấu xuất khẩu của VN dựa quá nhiều vào các sản phẩm thô, thâm
dụng tài nguyên, thâm dụng lao động, có giá trị gia tăng thấp. “Kinh nghiệm của các
nước chỉ ra rằng nếu cơ cấu xuất khẩu chỉ tập trung vào một số ngành hàng, đặc biệt là
những hàng hóa thơ, thì khó có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng bền vững trên diện
rộng”.
-

Xuất khẩu điện, điện tử: tiềm năng cao nhưng không bền vững
Báo cáo cũng đánh giá về việc phát triển ngành điện tử của VN. Vài năm gần


đây, đặc biệt từ khi các hãng điện tử lớn như Intel, Nokia, Samsung đầu tư nhà máy
lắp ráp tại VN thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tăng mạnh, chỉ trong vịng một
năm, từ một nước chỉ có vài trăm ngàn USD xuất khẩu lên nhóm các nước xuất khẩu
hàng điện tử lớn nhất thế giới. Trên thế giới, nhu cầu về các sản phẩm điện tử vẫn còn
rất lớn. Năm 2012, kim ngạch nhập khẩu của thế giới đạt 2.334 tỷ USD. Tiềm năng
xuất khẩu của các mặt hàng điện tử của VN được đánh giá cao. Tuy nhiên, báo cáo
cảnh báo VN cần lưu tâm đến tính bền vững của ngành. Ngành điện tử VN nói chung
và của khu vực miền Bắc nói riêng vẫn chỉ dừng ở mức gia cơng, lắp ráp, phụ thuộc
hồn tồn vào các doanh nghiệp nước ngoài ở cả thị trường xuất khẩu và thị trường
trong nước.Các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực điện tử đều là doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài, đặt cơ sở tại VN để tận dụng nguồn lao động phổ thông giá rẻ. Một

0

0


khi thế mạnh về lao động khơng cịn, các doanh nghiệp này rất dễ dàng đóng cửa nhà
máy, rút lui khỏi thị trường VN do khơng cịn gì ràng buộc, giữ chân.)
-

Lạm phát tăng cao
Một trong những rủi ro lớn nhất của nền kinh tế trong năm 2022 chính là lạm

phát. Các dự báo của các tổ chức trong nước, quốc tế, cũng như các chuyên gia kinh tế
cho rằng, lạm phát năm nay sẽ tiệm cận ngưỡng 4% mà Chính phủ đặt ra, chứ khơng
thể ở mức thấp như những năm vừa qua.
Theo Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê cho biết, với độ trễ của gói phục hồi
và phát triển kinh tế - xã hội tại Việt Nam, đặt trong bối cảnh giá cả hàng hóa thế giới

đang tăng cao, lạm phát của Việt Nam năm nay sẽ khoảng 4-4,5%. Con số này trong
năm 2023 được ông Lâm dự báo ở mức 5-5,5%. Lạm phát đang gia tăng tại nhiều nơi
trên thế giới do giá năng lượng, lương thực trên toàn cầu tăng mạnh đã tạo tác động
dây chuyền đến giá cả các hàng hoá dịch vụ khác tại Việt Nam, gây ra những biến
động không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam.
-

Đẩy mạnh phục hồi nền kinh tế sau đại dịch Covid-19
Năm 2020-2021 dù ảnh hưởng nặng bởi dịch COVID-19 nhưng GDP của nền

kinh tế trong giai đoạn này vẫn duy trì tăng trưởng dương chủ yếu nhờ tăng trưởng
xuất nhập khẩu và đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực tế, một số ngành
hồi phục mạnh sau dịch như: bán lẻ, hàng cá nhân, dược phẩm… do cầu nội địa phục
hồi tốt; trong đó ngành dịch vụ ăn uống và lưu trú được kỳ vọng sẽ trở lại “bình
thường mới” nhờ sự phục hồi của ngành du lịch, tăng trưởng lượng khách du lịch
quốc tế.
Ngành xây dựng đáng được kỳ vọng là đầu tư cơng, FDI và bất động sản. Một
số ngành có sự phục hồi tốt đạt gần tiệm cận với tốc độ trước dịch là vận tải, kho bãi,
lâm nghiệp… và logistics sẽ là điểm sáng, triển vọng tăng trưởng cao trong những
năm tới. Số lượng hàng hố thơng quan qua các cảng biển Việt nam dự kiến sẽ tăng
trưởng từ 12-15% trong vòng 2-3 năm tới do sự phục hồi của hoạt động sản xuất trong
nước và hoạt động xuất nhập khẩu. Cùng với đó, nền kinh tế Việt Nam đã có độ mở
lớn khi đã tham gia 15 Hiệp định Thương mại tự do, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng

0

0


trưởng liên tục trên 12% trong 10 năm trở lại đây, dòng vốn FDI tiếp tục chảy mạnh

vào, đưa Việt Nam trở thành một trong những trung tâm sản xuất lớn trong khu vực.
Tính đến thời điểm này, triển vọng tăng trưởng trong năm 2022 của hầu hết các
ngành chính được dự báo tích cực. Tuy nhiên, một số ngành có sự hồi phục rất chậm,
như hàng khơng và du lịch quốc tế; xây dựng và vật liệu, cần phải được kích hoạt để
hồi phục mạnh hơn nữa, nhằm góp sức tăng trưởng kinh tế cao hơn, nhất là trong bối
cảnh môi trường lãi suất đã “tạo đáy” và lạm phát có thể gia tăng vượt kỳ vọng
-

Dự báo GDP tăng bật trở lại vào năm 2022
Trong Báo cáo điểm lại tháng 01/2022 của WB, GDP của Việt Nam sẽ bật tăng

trở lại từ 2,58% năm 2021 lên 5,5% năm 2022, nhưng những rủi ro tiêu cực vẫn ở
mức cao. Dự báo trên dựa trên giả định là đại dịch sẽ được kiểm soát cả trong nước và
quốc tế. Trong điều kiện như vậy kết hợp với nới lỏng các biện pháp hạn chế đi lại và
dịch tễ, khu vực dịch vụ được kỳ vọng sẽ phục hồi phần nào khi nhà đầu tư và người
tiêu dùng củng cố niềm tin vào năm 2022. Khách du lịch quốc tế cũng được kỳ vọng
sẽ bắt đầu quay trở lại từ giữa năm 2022 trở đi, giúp cho ngành du lịch từng bước
phục hồi. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến, chế tạo sẽ được
hưởng lợi từ nhu cầu ổn định tại các nền kinh tế Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc, do các
quốc gia này tiếp tục tăng trưởng mặc dù với tốc độ chậm hơn. Chính sách tài khóa có
thể sẽ được nới lỏng hơn, ít nhất trong nửa đầu năm 2022 vì các cấp có thẩm quyền
đang cân nhắc ban hành gói hỗ trợ phục hồi kinh tế vào đầu năm. Chính sách tiền tệ sẽ
quay lại cách tiếp cận an toàn nhằm cân đối giữa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và kiểm
soát lạm phát, đồng thời cần theo dõi chặt chẽ sức khỏe của khu vực tài chính. Cán
cân vãng lai được kỳ vọng sẽ đạt thặng dư ở mức nhỏ trong trung hạn nhờ kết quả
xuất khẩu và dòng kiều hối tiếp tục xu hướng tăng trưởng vững chắc. Do xuất khẩu
của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu, nên thặng dư chỉ ở mức khiêm
tốn, khoảng 1,5-2% GDP trong trung hạn. Kiều hối dự kiến đóng góp ổn định từ 18 tỷ
USD đến 20 tỷ USD cho tài khoản vãng lai trong trung hạn.
1.1.4 Những rủi ro tiềm ẩn trong môi trường kinh tế

-

Ảnh hưởng của Covid 19 đến môi trường kinh tế thế giới

0

0


Đại dịch Covid-19 đã tác động rất lớn đến các hoạt động thương mại và đầu tư
của các nước trên thế giới. Giãn cách xã hội ở nhiều quốc gia gây ra suy giảm giá trị
xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, kèm theo đó là thu nhập giảm, tiêu dùng giảm
và hoạt động xuất, nhập khẩu bị đình trệ.
Trong giai đoạn 2020 - 2022, nền kinh tế toàn cầu phải đối mặt với mức mất
thu nhập lũy kế khoảng 13 nghìn tỷ USD. Nếu nền kinh tế tồn cầu tăng trưởng như
vào đầu những năm 2000 (khoảng 3,5% mỗi năm) thì phải đến năm 2030 mới có khả
năng lấy lại mức trước đại dịch. Theo IMF, năm 2020, GDP toàn cầu tăng trưởng âm
4,2 - 4,4%; thương mại toàn cầu giảm hơn 10%; vốn FDI đã giảm khoảng 40%; “đốt”
41% tài chính, tương đương 157 tỷ USD giá trị vốn hóa của 116 hãng hàng khơng
niêm yết trên tồn thế giới. Nợ cơng thế giới tăng vọt, hiện hơn 103% GDP toàn cầu;
dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2021 là 5,9% và năm 2022 là 4,9%. Đại dịch
Covid-19 đã khoáy sâu sự mong manh tiềm tàng của chuỗi cung ứng tồn cầu và
khiến dịng FDI tồn cầu ước giảm từ 30 - 40% trong giai đoạn 2020 - 2021, có liên
quan rất chặt chẽ đến việc gián đoạn trong chuỗi cung ứng toàn cầu do hậu quả của
đại dịch, nhất là trong các lĩnh vực dịch vụ liên quan đến dịch vụ hàng không, khách
sạn, nhà hàng, vui chơi giải trí, cũng như các ngành sản xuất và lĩnh vực năng lượng.
-

Sự bất ổn của thị trường tài chính tồn cầu đe dọa mơi trường kinh tế thế
giới.

Những thay đổi trong mơi trường tài chính quốc tế gần đây, chẳng hạn như các

chính sách kinh tế mà chính phủ Mỹ sử dụng nhằm nỗ lực vực dậy nền kinh tế đang
suy giảm trong đại dịch COVID-19; tham vọng vươn ra tồn cầu và quốc tế hóa đồng
Nhân dân tệ của Trung Quốc; những thay đổi trong xu hướng chuyển dịch của dòng
vốn quốc tế và chuỗi cung ứng toàn cầu; hay khả năng tái định vị các trung tâm tài
chính quốc tế được cho là sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế tồn cầu trong
những năm tới.
+ Nguy cơ bất ổn tài chính tồn cầu đang hiện hữu: mặc dù nguy cơ bong
bóng tài chính bong bóng chứng khốn tồn cầu khó xảy ra, song không thể loại trừ
nguy cơ sụt giảm, đảo chiều mạnh trước khi thực sự hồi phục bền vững. Thực tế, các
dấu hiệu rủi ro chính đối với hệ thống tài chính tồn cầu mặc dù đã được nhận diện và
cảnh báo song vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ gia tăng, bùng phát thậm chí kéo dài 2-3 năm

0

0


tới (giai đoạn 2021-2023, đáng lo ngại là dạng nguy cơ “Tê giác xám” (một thuật ngữ
miêu tả rủi ro mà nền kinh tế một quốc gia đã nhận thấy song thường bị lơ là).

+ Nguy cơ “phục hồi chưa chắc chắn và khơng đồng đều” của nền kinh tế
tồn cầu khiến rủi ro tài chính gia tăng.
Cuộc khủng hoảng kinh tế và y tế do ảnh hưởng của dịch COVID-19 đã khiến
tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 đã sụt giảm -3,3% so với năm 2019 - mức thấp
nhất kể từ năm 1930; đà phục hồi dự báo ở mức tăng trưởng 6% năm 2021 và 4,4%
năm 2022 (IMF, tháng 4/2021). Quá trình phục hồi kinh tế phụ thuộc rất chặt chẽ vào
việc phát triển, cung cấp, phân phối và tiêm chủng vaccine trên phạm vi toàn cầu.
Theo dự báo của Citi Research (tháng 2/2021), vaccine sẽ giúp GDP toàn cầu tăng

trưởng thêm 4,1 điểm % giai đoạn 2021-2022 thông qua việc nâng cao sức khỏe cộng
đồng, kiểm soát dịch bệnh, thúc đẩy nhu cầu đầu tư, thương mại, tiêu dùng. Tuy nhiên,
việc phân phối vaccine đang đối diện với nhiều khó khăn, đáng lo ngại nhất là “tình
trạng bất bình đẳng, khơng đồng đều, yếu tố tâm lý”. Đây sẽ là yếu tố tiêu cực khiến
đà phục hồi kinh tế bị chậm lại, kéo dài và mức độ phục hồi “khơng chắc chắn”, từ đó
có thể ảnh hưởng, làm trầm trọng thêm nguy cơ rủi ro tài chính. Thêm vào đó, biến

0

0


động địa chính trị cịn phức tạp khiến giá vàng, giá dầu biến động mạnh, có tác động
đến thị trường tài chính tồn cầu cũng là một thách thức lớn.
Ngồi ra, áp lực lạm phát tăng, lãi suất tăng và xu hướng giảm dần các gói nới
lỏng định lượng; xu hướng bảo hộ thương mại; cạnh tranh chiến lược, căng thẳng
thương mại - công nghệ giữa Mỹ và Trung Quốc cịn leo thang và khó đốn; sự biến
động mạnh và khó đốn hơn của giá cả hàng hóa thế giới... đều khiến rủi ro bất ổn tài
chính gia tăng.
+ Tham vọng vươn ra tồn cầu và quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ của Trung
Quốc
Sự ổn định của nhân dân tệ trong cuộc khủng hoảng Ukraine đem lại hy vọng
cho hơn 20 năm nỗ lực của Bắc Kinh nhằm toàn cầu hóa đồng tiền tệ của mình và
thay đổi vị thế thống trị của đồng USD. Trong những tháng gần đây, mục tiêu này có
những tiến triển nhất định. Đồng nhân dân tệ đã vượt qua đồng yên của Nhật Bản, lần
đầu tiên lên tới vị trí thứ tư trong bảng xếp hạng của hệ thống thanh toán quốc tế
SWIFT. Chỉ số tồn cầu hóa tiền tệ do Standard Chartered thống kê cũng cho thấy vị
thế toàn cầu của nhân dân tệ tăng lên mức cao kỷ lục.
Nhưng tham vọng thực sự của Trung Quốc khơng dừng lại ở đó, nước này
muốn thoát khỏi sự phụ thuộc vào các cơ sở hạ tầng tài chính do phương Tây kiểm

sốt như SWIFT. Vì vậy, Bắc Kinh đã dành nhiều năm để xây dựng hệ thống thanh
toán quốc tế nội địa CIPS - hoạt động bằng đồng nhân dân tệ. Qua đó, các khoản
thanh toán bằng đồng tiền này đã tăng khoảng 20% lên 45,2 tỷ CNY (tương đương với
7,1 tỷ USD) vào năm 2020.
Trung Quốc cũng nhanh chóng nắm lấy cơ hội đẩy mạnh đồng tiền của mình
khi các mạng lưới thanh tốn Visa, Mastercard và American Express cơng bố kế hoạch
tạm ngừng hoạt động tại Nga. Ngay sau đó, nhiều ngân hàng Trung Quốc nhanh
chóng đưa ra phương án phát hành loại thẻ liên kết với cả 2 hệ thống thanh toán quốc
tế Mir của Nga và UnionPay của Trung Quốc. Benjamin Cohen, một học giả kỳ cựu
về tiền tệ quốc tế, phân tích rằng: “Một khi Mỹ và các đồng minh sử dụng đồng USD
như một vũ khí (nhằm vào kinh tế của Nga), thì điều đó sẽ càng khuyến khích Trung
Quốc tận dụng lợi thế (về đồng tiền) của họ”.
/>
0

0


/>-

Do những căng thẳng về chính trị gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến kinh tế
tồn cầu.
Cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine leo thang đúng thời điểm kinh tế toàn cầu

đang phục hồi sau đại dịch khiến kinh tế thế giới đối mặt nhiều rủi ro. Những lo ngại
về bất ổn địa chính trị đã khiến thị trường chứng khoán khắp thế giới liên tục”đỏ sàn”
trong tuần qua, trong khi giá vàng tăng vọt do các nhà đầu tư muốn tìm kiếm kênh đầu
tư an toàn. Giá dầu lên mức cao nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây.
Có thể nhận thấy những tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng hiện nay qua
"cơn bão giá" trên thị trường dầu mỏ. Giá dầu lên mức cao nhất trong khoảng 10 năm

trở lại đây. Giá dầu Brent đã tăng gần 25% trong một tuần kể từ khi Tổng thống Nga
Vladimir Putin thông báo triển khai chiến dịch quân sự đặc biệt ở miền Đông Ukraine
ngày 24/2. Mức chênh lệch trong 6 tháng của mặt hàng này cũng đạt mức cao kỷ lục
là hơn 21 USD/thùng. Theo nhà phân tích Phil Flynn của cơng ty tài chính Price
Futures Group tại Mỹ, thị trường “vàng đen” biến động mạnh do những quan ngại
rằng căng thẳng hiện nay làm gián đoạn xuất khẩu của Nga - quốc gia sản xuất dầu
lớn thứ ba thế giới và là nước xuất khẩu dầu lớn nhất ra thị trường toàn cầu. Đáp trả
các biện pháp trừng phạt về năng lượng, Nga có thể hạn chế bán dầu và nhiên liệu cho
châu Âu, bất chấp những thiệt hại đối với nền kinh tế này, thu hẹp nguồn cung, đẩy
giá dầu và nhiên liệu tăng cao, đặc biệt là đối với các nước châu Âu.
Giám đốc điều hành công ty nghiên cứu năng lượng Rystad Energy (Na Uy)
Jarand Rystad dự báo xuất khẩu dầu của Nga sẽ giảm 1 triệu thùng/ngày do tác động
gián tiếp của các lệnh trừng phạt, theo đó, giá dầu sẽ tiếp tục tăng và có khả năng vượt
trên 130 USD/thùng.
Cùng với đó, các lệnh trừng phạt mà phương Tây áp đặt đối với Nga và các
biện pháp đáp trả tiềm tàng của Moskva đặt ra những rủi ro mới cho chuỗi cung ứng
toàn cầu. Theo Oxford Economics, các biện pháp trừng phạt có thể làm “bốc hơi” tới
6% GDP của Nga, nền kinh tế lớn thứ 11 thế giới.
-

Sự biến đổi của khí hậu trên trái đất.
Từ lũ lụt và cháy rừng, đến xung đột và di cư, các mơ hình kinh tế gặp khó

khăn để đưa ra ước tính về những tác động có thể xảy ra do trái đất nóng lên. Theo

0

0



ước tính của IMF, nhiệt độ tăng khơng kiểm sốt sẽ làm giảm 7% tổng sản lượng kinh
tế (GDP) thế giới vào năm 2100. Nhóm Mạng lưới Xanh hóa hệ thống tài chính
(NFGS) đưa ra con số là 13%.
Rõ ràng, là các quốc gia đang phát triển. Phần lớn người nghèo trên thế giới
đang sinh sống ở các vùng nhiệt đới hoặc vùng trũng thấp đã phải hứng chịu những hệ
quả của biến đổi khí hậu, như hạn hán hoặc mực nước biển dâng cao. NFGS dự báo
mức thiệt hại tổng sản lượng kinh tế trên 15% đối với phần lớn châu Á và châu Phi.
Biến đổi khí hậu có khả năng làm giảm thu nhập trung bình trên thế giới khoảng 23%
vào năm 2100, theo ước tính trong nghiên cứu được cơng bố trên tạp chí Nature ngày
21¬10 của các giáo sư Đại học Stanford và UC Berkeley. Kết quả nghiên cứu cho thấy
thay đổi khí hậu sẽ khiến trái đất nóng lên, mang lại điều kiện thuận lợi cho các nước
có khí hậu lạnh và gây tác hại cho các nước khí hậu nóng. Trong khi đó, những nước
trong vùng khí hậu lạnh đa số là nước giàu và ngược lại. Vì vậy, thay đổi khí hậu sẽ
làm giảm thu nhập trung bình của 40% người nghèo nhất trên thế giới xuống 75% vào
năm 2100, trong khi giúp 20% người giàu nhất có thu nhập tăng thêm
-

Cơ sở hạ tầng nền kinh tế, quy định tỷ lệ nội địa hoá, hạn chế nhập khẩu
Cơ sở hạ tầng kinh tế là một bộ phận thuộc những ngành phục vụ cho quá trình

sản xuất tạo ra sản phẩm hoặc tiếp tục q trình sản xuất trong lưu thơng hàng hóa. Nó
sẽ gồm hệ thống đường xá, giao thơng vận tải, thủy lại, cấp thoát nước, sân bay, bến
cảng…
Tỷ lệ nội địa hóa thấp sẽ gây ra rủi ro cao, chi phí lớn cho doanh nghiệp FDI.
Chẳng hạn như tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, vật tư, linh kiện đạt thấp là nguyên nhân
gây khó khăn cho sản xuất trung, dài hạn của doanh nghiệp FDI Nhật Bản tại Việt
Nam. Theo đó, tỷ lệ nội địa hóa nguyên liệu, vật tư, linh kiện của DN Nhật Bản tại
Việt Nam chỉ đạt 34%, trong khi Trung Quốc là 68%, Thái Lan là 57%. Vì vậy, doanh
nghiệp buộc phải nhập khẩu từ các nước trong khu vực. Điều này làm gia tăng chi phí
và rủi ro lớn cho DN hoạt động trong lĩnh vực chế tạo tại Việt Nam.

Hạn chế nhập khẩu là biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định áp dụng nhằm hạn chế số lượng, khối lượng, trị giá của hàng hóa nhập khẩu, cửa
khẩu nhập khẩu hàng hóa, quyền nhập khẩu hàng hóa của thương nhân. Trong thập
niên 90 của thế kỉ XX, Hoa Kỳ phàn nàn Nhật Bản thặng dư trong mua bán với Hoa
Kỳ quá nhiều và Nhật Bản bảo hộ ngành sản xuất thiết bị máy bay trong nước. Sau khi

0

0


đàm phán thất bại, Hoa Kỳ quyết định trả đũa bằng luật Super 3013 nhằm hạn chế
nhập khẩu ô tô từ Nhật. Sau đó, Nhật phải nhượng bộ tự hạn chế xuất khẩu ô tô sang
Hoa Kỳ và tăng nhập máy bay từ Hoa Kỳ. Tranh chấp thương mại mới kết thúc. Có
thể thấy rằng rủi ro từ việc hạn chế nhập khẩu có ảnh hưởng khơng nhỏ tới tình hình
sản xuất của các quốc gia cũng như nền kinh tế thế giới.
-

Thuế, các hàng rào phi thuế quan nhằm giới hạn thương mại

Hàng rào phi thuế quan là khái niệm chỉ các rào cản đối với thương mại không phải về
thuế quan do chính phủ áp đặt đối với hàng nhập khẩu của mình, để bảo vệ các doanh
nghiệp trong nước, hạn chế nhập khẩu. Khi hàng hóa được nhập khẩu vào các nước
khác, cịn phải thơng qua những hàng rào phi thuế quan. Đó là cách để gây trở ngại
cho các mặt hàng nhập khẩu, phương thức này sẽ không đánh thuế nhập khẩu. Nhưng
sẽ ngăn chặn được phần nào đó, khơng dựa trên bất kỳ cơ sở pháp lý nào cả.
Ví dụ về hàng rào phi thuế quan của EU đối với hàng thủy sản của Việt Nam
❖ Các biện pháp hạn chế định lượng: Đây là các biện pháp nhằm trực tiếp giới
hạn khối lượng hoặc giá trị hàng hóa nhập khẩu vào một quốc gia. Do đó, có
tính chất bảo hộ rất cao, bao gồm cấm nhập khẩu, hạn ngạch và cấp phép nhập

khẩu không tự động.
❖ Các biện pháp quản lý về giá: Các biện pháp quản lý giá nhập khẩu hay giá bán
tại thị trường EU thông qua việc quy định giá tối đa, giá tính thuế, các khoản
phí và phụ thu có thể có tác động trực tiếp hay gián tiếp tới xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam vào EU.
❖ Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời: Thuộc nhóm này là các biện pháp
tự vệ, chống trợ cấp và chống bán phá giá. Xu hướng gần đây cho thấy EU sử
dụng khá thường xuyên các biện pháp này trong việc hạn chế nhập thủy sản
vào thị trường EU.
❖ Các biện pháp quản lý hành chính: Quy định về thanh tốn, quy định về đặt
cọc, quy định về kích cỡ hàng hóa, quy định về quảng cáo, vị trí thơng quan.
Ngồi ra cịn có các rủi ro tiềm ẩn khác như:
-

Kiểm soát hối đoái, dự trữ ngoại tệ và cán cân thanh toán
Kiểm soát hối đoái là những ràng buộc đối với dòng tiền tệ giữa các quốc gia

được đặt ra bởi các ngân hàng trung ương và những cơ quan tiền tệ. Khơng phải mọi
quốc gia có thể sử dụng các biện pháp này, ít nhất là theo cách hợp pháp. Theo Điều

0

0


14 của Điều khoản Thỏa thuận của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, chỉ cho phép các quốc gia có
cái gọi là nền kinh tế chuyển đổi sử dụng các biện pháp kiểm sốt trao đổi. Kiểm sốt
hối đối có thể dẫn đến việc tạo ra thị trường chợ đen để trao đổi tiền tệ yếu hơn cho
các đồng tiền mạnh hơn. Điều này dẫn đến một tình huống mà tỷ giá hối đoái của
ngoại tệ cao hơn nhiều so với tỷ giá do chính phủ quy định, và do đó tạo ra một thị

trường trao đổi tiền tệ trong bóng tối.
Dự trữ ngoại tệ là lượng ngoại tệ mà ngân hàng trung ương hoặc cơ quan hữu
trách về tiền tệ của một quốc gia hay lãnh thổ nắm giữ. Đây là một loại tài sản của
Nhà nước được cất giữ dưới dạng ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh như: Dollar
Mỹ, Euro, Yên Nhật, v.v...) nhằm mục đích thanh toán quốc tế hoặc hỗ trợ giá trị đồng
tiền quốc gia
Cán cân thanh toán là tổng hợp tất cả các giao dịch dưới hình thức tiền tệ của
quốc gia này với quốc gia khác, được sử dụng để xác định sự thay đổi trong các dịng
vốn nước ngồi. Đồng thời, nó tác động trực tiếp đến tỷ giá hối đối – một yếu tố làm
tăng rủi ro trong các khoản đầu tư quốc tế. Nếu một quốc gia xuất khẩu một mặt hàng
(giao dịch tài khoản vãng lai), thì quốc gia đó sẽ nhập khẩu vốn nước ngồi một cách
hiệu quả khi mặt hàng đó được thanh tốn (giao dịch tài khoản vốn). Nếu một quốc
gia không thể tài trợ cho nhập khẩu của mình thơng qua xuất khẩu tư bản, thì quốc gia
đó phải làm như vậy bằng cách giảm lượng dự trữ của mình. Tình trạng này thường
được gọi là thâm hụt cán cân thanh toán. Khi cán cân thanh toán (BOP) thâm hụt,
lượng cầu lớn hơn cung trên thị trường ngoại hối. Lúc này, đồng nội tệ sẽ bị mất giá.
-

Kiểm soát giá cả lạm phát cung tiền, lãi suất
Khi thực thi chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ nhằm thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, tạo cơng ăn việc làm cho dân chúng thì mức giá chung sẽ tăng lên. Với
những nền kinh tế ít có sự minh bạch về chính sách thì sự mở rộng của chính sách tài
khóa thơng qua tăng cường vay nợ công cũng như thâm hụt ngân sách kéo dài khó
kiểm sốt sẽ khiến xuất hiện loại tâm lý lạm phát “kỳ vọng” một khi nợ công vượt
ngưỡng trần quy định cũng như tình trạng lãng phí, thất thốt trong đầu tư cơng.
Để có thể loại bỏ lạm phát “kỳ vọng” thì có xu hướng phải thắt chặt chính sách
tiền tệ, điều này lại khiến tăng trưởng kinh tế bị sụt giảm. Nếu như Chính phủ vừa
phải áp dụng các giải pháp kiểm sốt lạm phát cũng như duy trì được tốc độ tăng


0

0


trưởng kinh tế cao theo cam kết thì rất có thể chính sách tiền tệ phải triển khai theo
hướng “lúc chặt, lúc lỏng”, điều này tạo nên sự hoang mang dao động của các chủ thể
trong nền kinh tế.
Thêm vào đó, việc tăng cường sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính
sách tiền tệ hướng tới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng lại lỏng lẻo, ngược lại sẽ
gây ra các bất ổn tiềm ẩn trên thị trường tài chính và tác động bất lợi đến tăng trưởng
kinh tế. Việc chính sách tài khóa khơng gắn liền với chính sách tiền tệ sẽ khá lớn khi
có các cú sốc hệ thống và có nhiều cơ quan điều hành chính sách. Ví dụ như khi
NHTW thực hiện mục tiêu giảm thiểu sự chênh lệch giữa tăng trưởng thực tế với tăng
trưởng tiềm năng, cũng như lạm phát thực tế và lạm phát mục tiêu, khi đó, nếu NHTW
phối hợp thêm với nhiều cơ quan điều hành chính sách tài khóa chỉ nhằm mục tiêu
bình ổn tăng trưởng kinh tế thì sự phối hợp đó sẽ khơng hiệu quả, vì sẽ có nhiều áp lực
đặt nặng lên mục tiêu bình ổn tăng trưởng kinh tế
1.2 Mơi trường chính trị
Chính trị (chính: việc nước, trị: sửa sang, cai quản) là tồn bộ những hình thức,
nhiệm vụ, nội dung hoạt động của Nhà nước để quản lý đất nước. Nói đến chính trị
tức đề cập đến hệ thống điều hành quốc gia được thiết lập để hợp nhất xã hội thành
một thực thể vững chắc.
Mơi trường chính trị là thuật ngữ nhằm nhấn mạnh đến phạm vi nội bộ quốc
gia thường gồm 3 bộ phận hợp thành: chính đảng, nhà nước và tổ chức xã hội. Thành
phần quan trọng của môi trường chính trị trong nước là hệ thống thể chế chứa đựng
các văn bản quy phạm xác định vai trò, vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của chính đảng,
nhà nước và tổ chức xã hội trong mối quan hệ lẫn nhau giữa 3 bộ phận này. Mơi
trường chính trị trong nước hàm chứa cả những tập quán truyền thống, văn hóa chính
trị, ý thức cơng dân... là những yếu tố khó nhận dạng nhưng có vai trị, sức ảnh hưởng

khơng kém phần quan trọng.
Rủi ro chính trị xảy ra khi một cơng ty lo sợ bầu khơng khí chính trị ở nước
ngồi thay đổi sẽ khiến vị trí hoạt động của cơng ty bị tổn thương. Rủi ro về chính trị
có thể xuất hiện ở mọi quốc gia, nhưng mức độ rủi ro thì mỗi nơi một khác. Ở những
nước có chế độ chính trị ổn định thì mức độ rủi ro chính trị thấp, ngược lại ở những

0

0


×