Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

(TIỂU LUẬN) đề tài sự cần THIẾT PHẢI HOÀN THÀNH THỂ CHẾ KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.3 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÁO CÁO THUYẾT TRÌNH
ĐỀ TÀI: SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THÀNH THỂ CHẾ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM.
Sinh viên thực hiện: Cao Hiếu Trang
Lý Xuân Trà
Nguyễn Ngọc Hiền Linh
Dương Hồng Anh
Nguyễn Thị Hải Yến
Lớp: POHE Truyền thông Marketing 63
GVHD: TS Nguyễn Văn Hậu

HÀ NỘI, 2022


MỤC LỤC

Trang

I.

PHẦN MỞ ĐẦU (THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM) ……… 2

II.

PHẦN NỘI DUNG
1. CÁC LÝ DO PHẢI HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA……………… 4


2. ĐÁNH GIÁ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MỘT
SỐ HẠN CHẾ TRONG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘ CHỦ
NGHĨA………………………..................................................8

III.

PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………… 10

1


MỞ ĐẦU
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. THỰC TRẠNG
Trong suốt chiều dài lịch sử, nhân loại đã chứng kiến nhiều mơ hình kinh tế khác
nhau. Mỗi mơ hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều
kiện lịch sử cụ thể. Việt Nam là một đất nước đi theo mơ hình chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Điều này hồn tồn phù hợp với tiến trình phát triển khách
quan của lịch sử nhân loại. Từ năm 1986 trở về trước, nền kinh tế nước ta là nền kinh
tế sản xuất nhỏ, mang tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế quan liêu bao cấp.
Mặt khác, do những sai lầm nhận thức về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế
nước ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân khó
khăn. Muốn thốt khỏi tình trạng đó, con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, Đảng ta trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm
thực tế và lý luận chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối
kinh tế mới với nội dung quan trọng, nền kinh tế nước ta chuyển sang hướng đi mới:
nền kinh tế thị trường dưới sự điều chỉnh của nhà nước. 15 năm đổi mới đã khẳng
định được tính đúng đắn của đường lối đổi mới. Tuy vậy, xung quanh việc áp dụng

kinh tế thị trường vào nước ta vẫn còn rất nhiều quan điểm trái ngược nhau, có quan
điểm cho rằng kinh tế thị trường không dung hợp CNXH, chấp nhận KTTT là xa rời
định hướng XHCN. Bài thuyết trình này là để nhấn mạnh sự cần thiết phải hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM


Thể chế: là những quy tắc, luật pháp, bộ máy quản lý và cơ chế vận hành nhằm

điều chỉnh các hoạt động của con người trong một chế độ xã hội

2




Thể chế kinh tế: là hệ thống thể chế nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể

kinh tế, các hành vi sản xuất kinh doanh và các quan hệ kinh tế


Kinh tế thị trường: là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa, một hình

thức mà ở đó hầu hết các quan hệ kinh tế trên diễn ra trên thị trường, chịu sự chi phối
của các quy luật kinh tế vốn có của nó.


Kinh tế thị trường định hướng XHCN (có nhiều quan điểm, ý kiến khác nhau

xung quanh việc đưa ra khái niệm cụ thể của KTTT định hướng XHCN nhưng nói

chung đều tập trung làm nổi bật 1 số ý sau): là việc sử dụng công nghệ kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, là quá trình giải quyết đồng thời
hai nhiệm vụ: vừa phát triển kte thị trường, vừa thực hiện mục tiêu của CNXH. Phát
triển nền KTTT định hướng XHCN nhằm mục đích phát triển LLSX, phát triển kinh tế
để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.


Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN: là hệ thống đường lối, chủ

trương chiến lược, hệ thống luật pháp, chính sách quy định xác lập cơ chế vận hành,
điều chỉnh chức năng, hoạt động, mục tiêu, phương thức hoạt động, các quan hệ lợi ích
của các tổ chức, các chú thể kinh tế nhằm hướng tới xác lập đồng bộ các yếu tố thị
trường, các loại thị trường hiện đại theo hướng góp phần thúc đẩy dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Gồm: + Các luật lệ, qui tắc điều hành nền kinh tế
+ Các chủ thể tham gia vào hoạt động trong nền kinh tế
+ Cơ chế thực thi pháp luật, quy tắc và điều chỉnh các mối quan hệ
giữa các chủ thể
+ Hệ thống thị trường
Tựu chung lại, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN giúp tạo nên nền
kinh tế vận hành theo các quy luật của thij trường đồng thời góp phần hướng tới bước
xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh, có
sự điều tiết của nhà nước

3


NỘI DUNG
I.


CÁC LÝ DO PHẢI HOÀN THIỆN THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Lịch sử phát triển của sản xuất và xã hội đã trải qua 2 kiểu tổ chức kinh tế, đó là
thời đại kinh tế tự cung tự cấp và thời đại kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao của nó là
nền kinh tế thị trường. KTTT không chỉ tồn trong CNTB mà cịn tồn tại trong q
trình xây dựng CNXH cũng như khi CNXH được xây dựng xong. Sở dĩ sự cần thiết
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ 3 lý do
cơ bản sau:
1. Do KTTT mới được hình thành và phát triển, nên thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa đồng bộ.
Chưa đồng bộ tức là sự thiếu thống nhất, chồng chéo về mặt nội dung, chức
năng, nhiệm vụ của thể chế kinh tế, ảnh hưởng đến phát triển nói chung.
PGS Nguyễn Thị Như Hà - Giảng viên cao cấp của Viện Kinh tế Chính trị học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhận định: “Một điểm nhấn quan trọng
trong hồn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN là tạo dựng được hành lang pháp lý
đồng bộ, hiệu quả để các chủ thể trong nền kinh tế có cơ hội được tiếp cận, được phát
triển bình đẳng”.
 Ví dụ 1: Sự chưa đồng bộ, thiếu thống nhất trong hệ thống luật pháp giữa Luật
Đầu tư và Luật Đất đai. Về hoạt động đầu tư, khi xin cấp phép chuyển mục đích sử
dụng đất (dưới 10ha đất nơng nghiệp) thì:
Luật Đầu tư (điểm a khoản 1 Điều 32) quy định: “Ủy ban nhân dân (UBND) cấp
tỉnh sẽ có thẩm quyền chấp thuận cấp phép chuyển mục đích sử dụng đất”
Luật Đất đai (Điều 58) lại xác định đó là thẩm quyền của Hội đồng nhân dân
(HĐND) cấp tỉnh.
4


Điều này, làm cho doanh nghiệp đầu tư muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất
dưới 10 ha khơng biết là xin đơn vị nào cấp phép là đúng.
 Ví dụ 2: Sự thiếu đồng bộ giữa Luật Giáo dục đại học (2018) và Luật Viên chức

về vấn đề tự chủ đại học. Luật Giáo dục đại học 2018 trao thẩm quyền cho các đơn vị
tự chủ việc quyết định về tuyển dụng, quản lý và sử dụng nhân sự trong trường, và chi
thường xuyên trong quá trình quản trị trường.
Tuy nhiên, đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, đa số nhân sự trong
trường là viên chức, phải tuân thủ các quy định của Luật Viên chức hiện hành. Với tư
cách là viên chức, lương và phụ cấp của giảng viên hiện nay được thực hiện theo chức
danh nghề nghiệp và thang, bậc lương tương ứng (như các chức danh nghề nghiệp viên
chức khác) chứ các trường Đại học không được quyền tự ý quyết định.
Như vậy, có sự chồng chéo về nội dung, khơng thống nhất trong quy định thẩm
quyền giữa các bộ luật như hiện nay. Nó thể hiện sự thiếu đồng bộ về thể chế, mà cụ
thể ví dụ trên đó chính là Luật pháp và chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Do
vậy, đây là lý do đầu tiên cần phải hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, đồng
bộ các giải pháp để vận hành thông suốt, hiệu quả các loại thị trường, giảm thiểu thất
bại của thị trường, thực hiện công bằng xã hội.
2. Do hệ thống thể chế KTTT định hướng XHCN của chúng ta chưa đầy đủ.
Khi chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung năm 1986, hệ thống thể chế kinh tế gồm luật pháp, quy tắc chuẩn mực, cơ quan
quản lý kinh tế của nhà nước hay chủ thể kinh tế tất yếu sẽ phải điều chỉnh. Tuy nhiên,
hiện nay, mặc dù có sự điều chỉnh, nhưng hệ thống thể chế của chúng ta vẫn chưa đầy
đủ bởi thể chế luôn luôn đi sau sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhiều nội dung
quan trọng liên quan tới vấn đề đổi mới kinh tế – xã hội chậm được thể chế hố.
Ví dụ: Trong thời đại cách mạng cơng nghiệp 4.0 hiện nay, các hình thức kinh
doanh online (trên facebook, youtube, tiktok) đang nở rộ, và phổ biến. Nhưng nhà

5


nước hiện vẫn chưa có văn bản luật và cơ chế thu thuế từ các hoạt động kinh doanh
online. Điều đó cho thấy về mặt thể chế kinh tế chúng ta còn thiếu và chưa đầy đủ.
3. Do hệ thống thể chế còn kém hiệu lực (chưa đủ mạnh), hiệu quả thực thi

chưa cao; chưa có đầy đủ các loại thị trường và các yếu tố của thị trường,
chất lượng của chúng cịn ở trình độ thấp.
Kinh tế thị trường được tạo lập bởi nhiều loại thị trường thành viên như: thị
trường hàng hóa dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài
chính và thị trường công nghệ. Các loại thị trường cơ bản này của chúng ta cịn hồn
thiện hoặc ở trình độ thấp. Các yếu tố thị trường, các loại hình thị trường mới ở trình
độ sơ khai. Một số văn bản pháp luật quan trọng đã ban hành song hiệu lực thực thi
chưa cao, nên hệ thống thể chế của chúng ta còn kém hiệu lực. Điều này dễ dẫn đến
một số vấn đề như tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh, gian lận thương mại, trốn
thuế còn nhiều, chậm được khắc phục.
 Ví dụ 1: Thị trường tài chính
Ở các nước phát triển, người dân chủ yếu chi tiêu, mua sắm, nhận và trả lương
bằng tiền điện tử. Thị trường tài chính của họ tương đối hiện đại, nên nhà nước dễ
dàng kiểm sốt được dịng tiền lưu thơng, kiểm sốt được thu nhập cá nhân, thu nhập
doanh nghiệp. Do đó, hạn chế chế thất thoát khoản thuế thu nhập cá nhân hay thuế
doanh nghiệp cho ngân sách nhà nước.
Còn đối với nước ta, thị trường tài chính đang trong quá trình hồn thiện, cơ chế
kiểm sốt dịng tiền trong dân còn kém hiệu quả, giao dịch chủ yếu qua tiền mặt, nên
nhà nước khó kiểm sốt thuế thu nhập và thuế nghiệp, ngân sách bị thất thoát nhiều,
hiện tượng tham ơ tham nhũng, rửa tiền khó phát hiện.
 Ví dụ 2: Cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước chưa đủ mạnh để kiểm sốt các
loại hình cơng ty, dẫn đến một vài công ty đa cấp biến tướng, gây phương hại đến lợi
ích của nhân dân và người tiêu dùng. Cơ quản quản lý thị trường chưa đủ hiệu quả
quản lý dẫn đến hiện tượng hàng giả, hàng nhái, gây ơ nhiễm mơi trường cịn phổ biến.
6


4. Một số lý do khác.
Tính cụ thể, minh bạch, rõ ràng của nhiều luật còn thấp: Những sai phạm về hình
thức văn bản vẫn xảy ra. Việc cơng bố, đăng tải, hướng dẫn các văn bản quy phạm

pháp luật chưa được các cơ quan nhà nước chấp hành kịp thời và nghiêm chỉnh.
Quy trình xây dựng pháp luật cịn thiếu tính dân chủ, tính đại chúng: cịn nhiều
cứng nhắc và nhiều bất cập, cách phân công và thực hiện quy trình soạn thảo dễ dẫn
đến tình trạng bảo vệ lợi ích cục bộ của ngành, địa phương; chưa thật sự vì lợi ích
chung và vì sự thuận lợi của người dân; v.v. -> Trình độ phát triển và năng lực cạnh
tranh của các đơn vị kinh tế còn nhiều hạn chế, nền kinh tế thị trường còn nhiều khiếm
khuyết.
Bởi vậy, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là yêu cầu khách quan trong giai đoạn hiện nay. Báo cáo chính trị được Ðại hội
XIII của Ðảng thơng qua có 15 mục lớn, thì mục lớn thứ 4 là: “IV – Hồn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” thể
hiện mục tiêu quyết tâm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Đảng và Nhà nước.
Thể chế kinh tế thị trường là sản phẩm của nhà nước, bởi nhà nước là chủ thể lập
ra luật pháp, và tổ chức thi hành pháp luật. Nhà nước Việt nam về bản chất là nhà nước
của dân, do dân, vì dân, vì thế thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam mục tiêu phục vụ
vì lợi ích của nhân dân. Do vậy, khi xã hội càng phát triển, nhu cầu của nhân dân, lợi
ích của nhân dân, và mục tiêu kinh tế ngày càng thay đổi thì vai trò quản lý của Nhà
nước đối với nền kinh tế thị trường là đặc biệt quan trọng nhằm khắc phục các khuyết
tật của thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh, sự phát triển của nền kinh tế, đảm
bảo lợi ích của nhân dân và tồn dân tộc. Và trình độ cũng như năng lực tổ chức, quản
lý nền kinh tế thị trường của nhà nước thể hiện chủ yếu ở năng lực xây dựng và thực
thi thể chế.

7


II.

ĐÁNH GIÁ CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ MỘT SỐ HẠN CHẾ

TRONG THỂ CHẾ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở NƯỚC TA.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ là phổ
biến do đó nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng chưa phải là nền kinh tế xncn mà là
một nền kinh tế quá độ: nền kinh tế thị trừơng định hướng XHCN nên nó khơng tránh
khỏi những mâu thuẫn q độ của nó. Thực tế hơn 10 năm qua, Việt Nam ta đã chứng
tỏ được quá trình quá trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là q trình đơit mới tất yếu, tiến bộ và đã ít nhiều gặt hái được những thành
công nhất định. Trong một khoảng thời gian ngắn, đất nước đã có nhiều thay đổi và đạt
được nhiều thành tựu quan trọng đặc biệt là trong sản xuất nơng nghiệp, văn hóa giáo
dục y tế và các lĩnh vực xã hội khác, hoạt động kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, đó cũng
là một q trình phức tạp lâu dài và vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định:
1. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
thực hiện còn chậm: Tuy đã đạt được một số thành tựu quan trọng, nhưng nhìn chung
chúng ta vẫn chưa thốt khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vẫn là nước nghòe, kém
phát triển. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách cịn chồng chéo, mâu thuẫn,
thiếu ổn định, nhất quán, chưa tọa được đột quá trong huy động, phân bố và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực phát triển.
2. Hiệu quả hoạt động còn nhiều hạn chế: Hoạt động của các chủ thể kinh tế, các
hoạt động doanh nghiệp trong nền kinh tế vẫn chưa đạt hieeujq ủa cao. Việc tiếp cận
một số nguồn lực xã hội chưa bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính
cịn chậm. sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế cũng còn yếu, năng suất
lao động và tích lũy cịn thấp, kỹ thuật cơng nghệ cịn lạc hậu. Phân cơng lao động xã
hội chưa phát triển, cơ sở hạ tầng cịn thấp.
3. Mơi trường đầu tư, kinh doanh chưa thật sự thơng thống, mức độ minh bạch,
oornh định chưa cao. Quyền tự do kinh donah chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở
hữu tài sản chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh.

8



4. Một số thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng
mắc, kém hiệu quả, giá cả của một vài hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa phù hợp với cơ
chế thị trường. Việc chuyển dịch cơ cấu diễn ra cịn chậm, lao động nơng nghiệp vẫn
chiếm 75% dân số và việc làm luôn là vấn đề gay gắt.
5. Thể chế đảm bảo thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội cịn nhiều bất cập. Bất
bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Xóa đói, giảm nghèo
cịn chưa bền vững. Hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả chưa cao, thiếu chủ động phòng
ngừa và xử lý tranh chấp thương mại quốc tế. Bên cạnh đó, trình độ phát triển sản xuất
hàng hóa vẫn cịn khá chênh lệch giữa các vùng và các ngành.
6. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế; cơ chế kiểm
sốt quyền lực, phân cơng, phân cấp cịn nhiều bất cấp. Quản lý nhà nước chưa đáp
ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực, hiệu
quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
Mục tiêu tổng quát là khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản
những cơ sở kinh tế xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị và cơ sở văn hóa phù
hợp và làm cho đất nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.

9


KẾT LUẬN

Nền kinh tế thị trường là công cụ quan trọng để phát triển kinh tế đối với mỗi
quốc gia. Các nước phải lựa chọn mơ hình kinh tế phù hợp với tình hình cũng như
hồn cảnh của đất nước mình. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường của
Việt Nam tuy muộn nhưng nước ta cũng đã gặt hái được một số thành tựu nhất định
trong phát triển kinh tế-xã hội. Tuy kinh tế thị trường ra đời từ thời kì tư bản chủ
nghĩa, bên cạnh những mặt tích cực nó cịn biểu hiện mặt tiêu cực (mặt trái). Vì vậy

khi một nền kinh tế áp dụng theo mơ hình kinh tế thị trường thì cần phải có sự kết hợp
giữa sự tự điều tiết nền kinh tế của thị trường và sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế. Chúng ta cũng đã định hướng cho nó để phù hợp với chiến lược, phương
hướng mà Đảng, Nhà nước đã chọn. Một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có những cái chung của nền kinh tế thị trường và nó cũng có những cái khác biệt
so với nền kinh tế thị trường của các nước khác. nó mang bản sắc riêng thể hiện đường
lối lãnh đạo, cũng như chủ trương phát triển kinh tế của nước ta sao cho phù hợp với
nguyện vọng của quần chúng nhân dân cũng như xu hướng tất yếu hiện nay của thế
giới.
Tuy nền kinh tế thị trường Việt Nam đang trong giai đoạn hình thành và phát
triển, đang cịn gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta đều tin rằng với sự lãnh đạo của
Đảng, sự điều tiết kinh tế của Nhà nước cũng như sự đoàn kết, thống nhất và quyết
tâm của nhân dân ta nó sẽ phát triển lên một trình độ cao và sẽ là cơng cụ quan trọng
để chúng ta hồn thành q trình đi lên CNXH.

10



×