Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

(TIỂU LUẬN) đề tài bình luận quy định của bộ luật tố tụng hình sự 2015 về hoạt động của kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.58 KB, 27 trang )

A. MỞ BÀI
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo
đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tộ, việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm
minh, kịp thời. Được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013:“Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát
nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật
định. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Còn theo quy định tại Điều 2
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 như sau: “Viện kiểm sát là cơ
quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt nam. viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”. Qua đó thấy được với chức năng nhiệm vụ của mình viện kiểm sát
đã thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong hoạt động tư pháp nói
chung. Đặc biệt là trong các vụ án hình sự cho thấy được vai trò quan trọng của
kiểm sát viên tại các phiên tịa hình sự sơ thẩm. Góp phần đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo vệ Nhà nước, chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức và cá nhân. Vậy qua đề tài “Bình luận quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự 2015 về hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự” nhóm chúng em xin làm rõ các quy định của pháp luật
cũng như những vướng mắc trong thực hiện.


B. NỘI DUNG
I. Sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự sơ thẩm


1. Sự có mặt của kiểm sát viên
Theo quy định tại Điều 289 bộ luật tố tụng hình sự 2015: “1. Kiểm sát viên
Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt để thực hành quyền cơng tố, kiểm sát xét xử
tại phiên tịa; nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hỗn phiên tịa. Đối với vụ án
có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì có thể có nhiều Kiểm sát viên. Trường
hợp Kiểm sát viên khơng thể có mặt tại phiên tịa thì Kiểm sát viên dự khuyết có
mặt tại phiên tịa từ đầu được thay thế để thực hành quyền công tố, kiểm sát xét
xử tại phiên tòa.
2. Trường hợp Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành
quyền cơng tố, kiểm sát xét xử mà khơng có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế
thì Hội đồng xét xử hỗn phiên tịa”.
Theo quy định trên có thể thấy được sự có mặt của kiểm sát viên tại phiên
tịa để thực nhiệm nhiệm vụ thực hành quyền cơng tố của mình và kiểm sát
phiên xét xử của tịa án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
2. Kiểm sát viên vắng mặt tạo phiên tịa hình sự sơ thẩm
Theo như quy định tại khoản 1 và 2 tại diều 289 bộ luật tố tụng hình sự
2015, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hỗn phiên tòa và trong trường hợp
Kiểm sát viên bị thay đổi hoặc không thể tiếp tục thực hành quyền công tố, kiểm
sát xét xử mà khơng có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử
hỗn phiên tịa. Việc hỗn phiên tịa được tiến hành khi có các căn cứ quy định
tại Điều 289 và Điều 297 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịa án hỗn phiên
tịa khi thuộc một trong các trường hợp: “a) Có mơtQ trong nhRng căn cứ quy
định tại các điều 52, 53, 288, 289, 290, 291, 292, 293, 294 và 295 của Bộ luật
này;
b) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà
không thể thực hiện ngay tại phiên tòa;


c) Cần tiến hành giám định bổ sung, giám định lại;
d) Cần định giá tài sản, định giá lại tài sản.

Trường hợp hỗn phiên tịa thì vụ án phải được xét xử lại từ đầu”.
II. Quy định của BLTTHS 2015 về hoạt động của Kiểm sát viên tại
phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự
1. Những hoạt động thực hành quyền cơng tố của Kiểm sát viên tại
phiên tịa sơ thẩm vụ án hình sự
1.1. Cơng bố cáo trạng
Quy định tại Điều 306 của BLTTHS 2015 về Công tố cáo trạng như sau:
“Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên cơng bố bản cáo trạng và trình
bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung khơng được làm xấu đi tình trạng
của bị cáo.”
Trước hết chúng ta phải hiểu được định nghĩa “bản cáo trạng”. Bản cáo
trạng là văn bản pháp lý do Viện kiểm sát lập ra khẳng định việc truy tố bị can ra
trước tòa án để xét xử. Bản cáo trạng phải dựa theo kết luận điều tra và phải
được giao cho bị can. Bản cáo trạng thường gồm 3 phần như sau:
1) Phần một - Thông tin cơ bản của bản cáo trạng:
 Thời gian: ngày, tháng, năm xảy ra vụ việc
 Địa điểm: nơi xảy ra tội phạm
 Chủ thể: ai là người thực hiện hành vi phạm tội
2) Phần hai - Nội dung bản cáo trạng:
 Thủ đoạn: có hay khơng thủ đoạn đê hèn, có tính chất man rợ,..
 Mục đích phạm tội: do tư thù cá nhân hay do vật chất,..
 Hậu quả của tội phạm để lại: đây là dấu hiệu cơ bản và đặc biệt quan
trọng để xác định một người có hay khơng có tội theo quy định pháp luật.
 Những tình tiết quan trọng khác như mối quan hệ cá nhân của bị can,
người giúp sức cùng phạm tội,..
 Chứng cứ, bằng chứng: tang vật, giấy tờ,...xác định tội trạng của bị can.
 Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ


 Nhân thân của bị can: sinh trưởng trong gia đình như nào, mối quan hệ

với người dân địa phương, có tiền án- tiền sự hay khơng?,...
3) Phần ba - Kết luận:
 Tội danh: tên tội danh.
 Điều khoản Bộ luật hình sự được áp dụng
Sau khi đọc bản cáo trạng xong thì Kiểm sát viên mới trình bày những ý
kiến bổ sung (nếu có). Những ý kiến bổ sung đó có thể là: giải thích về những
chứng cứ đã thu thập được, đề nghị đổi tội danh nhẹ hơn, rút một phần việc truy
tố, đề nghị đình chỉ truy tố đối với bị cáo đã chết…Những ý kiến không được bổ
sung là: truy tố thêm tội, định danh tội nặng hơn,…vì nó làm xấu đi tình trạng
của bị cáo.
Như vậy, ta có thể thấy, những ý kiến bổ sung là nhằm mục đích làm rõ
thêm nội dung của bản cáo trạng, chứ không được làm thay đổi nội dung của
bản cáo trạng.
Chính vì điều luật chưa quy định về khái niệm bản cáo trạng và như thế nào
là làm xấu đi tình trạng của bị cáo nên cần có văn bản pháp luật ra đời hướng
dẫn chi tiết về những điểm này.
1.2. Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ
1.2.1. Xét hỏi
Khoản 2 Điều 307 BLTTHS 2015 quy định như sau “Khi xét hỏi từng
người, chủ tọa phiên tịa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, người bào chRa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự thực hiện việc hỏi.”
Xét hỏi là hoạt động nhằm xác định những tình tiết chứng minh bị cáo có
phạm tội hay không và nếu bị cáo bị truy tố về nhiều tội thì phải xét hỏi để
chứng minh từng tội.
Ở đây điều luật đã quy định về thứ tự người tiến hành hỏi, Chủ tọa phiên
tòa hỏi trước rồi đến Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, ngừi bào chữa, người
bảo vệ quyền lợi của đương sự. Phạm vi xét hỏi của từng người phụ thuộc vào
địa vị tố tụng của họ tại phiên tòa. Hoạt động xét hỏi của Kiểm sát viên lúc này



là để khẳng định kết quả điều tra. Thông qua việc hỏi để khẳng định, chứng
minh các tài liệu điều tra được thu thập có trong hồ sơ vụ án đã đảm bảo tính
hợp pháp hay khơng về mặt nội dung cũng như về mặt hình thức.
1.2.2. Xem xét vật chứng
Khoản 2 điều 312 BLTTHS 2015 quy định: “Kiểm sát viên, người bào
chRa, người khác tham gia phiên tịa có quyền trình bày nhận xét của mình về
vật chứng. Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chRa, người bảo vê quyền
Q
và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự có thể hỏi thêm người tham gia phiên
tịa về nhRng vấn đề có liên quan đến vật chứng.”
Việc xem xét vật chứng là bắt buộc, nên phải mang vật chứng hoặc hình
ảnh của vật chứng ra phiên tịa để xem xét, cịn nếu khơng đưa vật chứng hoặc
hình ảnh của vật chứng ra phiên tịa thì phải đọc biên bản xác nhận vật chứng.
Khi xem xét vật chứng, Kiểm sát viên có quyền trình bày những nhận xét của
mình về vật chứng.
1.2.3. Xem xét tại chỗ
Điều 314 BLTTHS 2015 quy định: “Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử
có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chRa, người khác tham gia phiên tòa
đến xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Kiểm sát viên, người bào chRa, người khác tham gia phiên tịa có quyền trình
bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên
quan đến vụ án. Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm người tham gia phiên tịa về
nhRng vấn đề có liên quan đến nơi đó.
Việc xem xét tại chỗ được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ
luật này.”
Nếu xét thấy việc xem xét vật chứng là chưa đủ để xác định tính chính xác
của những tình tiết quan trọng trong vụ án, thì Hội đồng xét xử có thể quyết định
đến xem xét tại chỗ. Kiểm sát viên phải cùng đi với Hội đồng xét xử, và có
quyền trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác

có liên quan đến vụ án (nơi phát hiện dấu vết tội phạm, con đường mà bị cáo đã
đưa xác nạn nhân đi cất giấu…)


1.3. Luận tội, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về
tội khác bằng hoặc nhẹ hơn;
1.3.1. Luận tội
Điều 321 BLTTHS 2015 quy định về Luận tội của Kiểm sát viên như sau:
“1. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào nhRng chứng cứ, tài liệu,
đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chRa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố
tụng khác tại phiên tòa.
2. Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá khách quan, tồn diện, đầy
đủ nhRng chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ tội; tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây
ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng
điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, nhRng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiêtQ hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư
pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và nhRng tình tiết khác có ý nghĩa đối
với vụ án.
3. Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng
hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung,
biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng.
4. Kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.”
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên
tòa, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng, hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy khơng có căn cứ để kết tội thì rút toàn bộ quyết
định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tun bố bị cáo khơng có tội.
Khi trình bày luận tội, Kiểm sát viên phải căn cứ vào những chứng cứ tài
liệu đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa,

người ảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố
tụng khác tại phiên tịa. Kiểm sát viên phải trình bày lời luận tội chứ không phải
đọc lời luận tội đã chuẩn bị trước hoặc lời buộc tội mà khơng có phân tích, lập
luận gì. Tức là lời luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào kết quả xét hỏi,


những tài liệu chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia
tố tụng khác tại phiên tòa.
Lời luận tội của Kiểm sát viên phải có đầy đủ những nội dung:
- Phân tích đánh giá các chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn
diện, đầy đủ; đánh giá đúng tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của bị cáo, hậu quả mà hành vi đó gây ra và nhân thân của bị cáo; đánh giá các
tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ để áp dụng pháp luật phù hợp; khi nêu hành vi
phạm tội phải viện dẫn các chứng cứ để chứng minh, đảm bảo tính logic và lập
luận sắc bén.
- Phải phân tích, phê phán thủ đoạn phạm tội của bị cáo; phân tích để bác
bỏ những quan điểm khơng có căn cứ của những người tham gia tố tụng khác để
làm sáng tỏa sự thật.
- Đề nghị áp dụng hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các biện pháp tư
pháp, bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, đúng theo các quy định của pháp
luật.
- Phải xác định rõ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội để tuyên truyền
giáo dục góp phần phòng chống tội phạm; phải kiến nghị các biện pháp phịng
ngừa để khắc phục những thiếu sót, sơ hở trong cơng tác quản lý kình tế- xã hội
1.3.2. Rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn.
Việc rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn của Kiểm sát viên được quy định tại hai Điều 319 và Điều
325 của BLTTHS 2015.

“Điều 319. Kiểm sát viên rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ
hơn tại phiên tòa
Sau khi kết thúc viêcQ xét hỏi, Kiểm sát viên có thể rút một phần hoă Qc toàn
bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn.”
“Điều 325. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
tại phiên tòa


1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội
nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi
nghị án, Hội đồng xét xử u cầu nhRng người tham gia phiên tịa trình bày ý
kiến về việc rút quyết định truy tố đó.”
Như vậy, sau khi kết thúc việc xét hỏi Kiểm sát viên có thể thực hiện việc
rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn. Hoặc cũng có thể là sau khi
kết thúc phần tranh luận, trong lời luận tội của mình Kiểm sát viên có thể tun
bố rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn.
Khi Kiểm sát viên tuyên bố rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ
hơn, thì Hội đồng xét xử vẫn phải tiếp tục xét xử toàn bộ vụ án. Nếu Kiểm sát
viên rút một phần quyết định truy tố hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn thì Hội
đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án và ra bản án theo thủ tục bình thường. Cịn
trong trường hợp Kiểm sát viên rút tồn bộ quyết định truy tố thì trách nhiệm
của Hội đồng xét xử là phải xem xét xem quyết định đó có đúng đắn hay không,
nên cần phải yêu cầu những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến về việc rút
quyết định truy tố đó trước khi nghị án. Nếu xét thấy việc rút toàn bộ quyết định
truy tố của Kiểm sát viên là đúng đắn thì Hội đồng xét xử ra bản án tuyên bị cáo
vô tội.
1.4. Tranh luận tại phiên tòa
Tại Điều 322 BLTTHS 2015 đã quy định về tranh luận tại phiên tòa như
sau:

“1. Bị cáo, người bào chRa, người làm chứng, người tham gia tố tụng khác
có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình về đối
đáp với Kiểm sát viên về nhRng chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vơ
tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do
hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trị của bị cáo trong vụ án; nhRng
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; tránh nhiệm
dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và
nhRng tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.


Bị cáo, người bào chRa, người tham gia tố tụng khác có quyền đưa ra đề
nghị của mình.
2. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến
cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chRa, người tham gia tố tụng khác tại
phiên tịa.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác
3. Chủ tọa phiên tịa khơng được hạn chế thời gian tranh luận, phải tạo
điều kiện cho kiểm sát viên, bị cáo, người bào chRa, bị hại, người tham gia tố
tụng khác tranh luận, trình bày hết nhưng ý kiến nhưng có quyền cắt nhRng ý
kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại.
Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp trả nhRng ý kiến của
người bào chRa, người tham gia tố tụng khác mà nhRng ý kiến đó chưa được
Kiểm sát viên tranh luận.
4. Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát
viên, bị cáo, người tham gia tranh luận tại phiên tịa để đánh khách quan, tồn
diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của nhRng người
tham gia phiên tịa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản
án”
Để hiểu được tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Kiểm sát viên đại
diện Viện kiểm sát tranh luận như thế nào thì chúng ta phân tích tồn bộ nội

dung của Điều 322 BLTTHS 2015.
Tranh luận tại phiên tịa là một thủ tục khơng thể thiếu tại phiên xết xử sơ
thẩm vụ án hình sự, việc tranh luận tại phiên tòa được quy định nhằm đảm bảo
cho Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát và những người tham gia phiên tịa
được phân tích, đánh giá chứng cứ cúa vụ án, góp phần đề ra những biện pháp
xử lý phù hợp nhất với pháp luật. Việc tranh luận tại phiên tòa cũng là một
phương tiện hữu hiệu để người bào chữa hoặc bị cáo tiến hành phân tích, lập
luận, đưa ra lý lẽ hợp lý, sắc bén, có sức thuyết phục để bảo vệ bị cáo một cách
hiệu quả nhất.


Trước hết, Kiểm sát viên trình bày lời buộc tội, đề nghị kết tội bị cáo theo
toàn bộ hay một phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội danh nhẹ hơn. Lời
luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra
tại phiên tòa, ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Trong trường hợp không có
căn cứ để kết tội thì Kiểm sát viên phải rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị
Hội đồng xét xử tun bị cáo khơng có tội.
Sau khi Kiểm sát viên trình bày lời luận tội thì người bào chữa thì người
bào chữa sẽ bào chữa cho bị cáo, bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa; nếu
khơng có người bảo chữa thì bị cáo sẽ tự bào chữa cho mình.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ trình bày ý kiến
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự mà mình bảo vệ. Nếu khơng
có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
tự mình trình bày để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Tiếp theo Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng
ý kiến có liên quan đến vụ án. Khi những người tham gia tranh luận có ý kiến
khác với mình, Kiểm sát viên khơng được đối đáp kiểu “giữ nguyên quan điểm
truy tố” mà không phân tích, đối đáp gì thêm. Trường hợp Kiểm sát viên không

lập luận để đối đáp lại với những người tham gia tố tụng, Chủ tọa phiên tịa có
quyền đề nghị Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án
của người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những kiến đó
chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Trong trường hợp giữa những người tham gia tranh luận có ý kiến khác
nhau thì họ có quyền phản bác lại ý kiến mà mình khơng đồng ý. Chủ tọa phiên
tịa khơng đực hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho những
người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến
khơng liên quan đến vụ án. Đối với ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được
Kiểm sát viên tranh luận.


Trong những trường hợp giữa những người tham gia tố tụng có ý kiến khác
nhau thì họ có quyền phản bác lại ý kiến mà mình khơng đồng ý. Chủ tọa phiên
tịa khơng được hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện cho những
người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến
không liên quan đến vụ án. Đối với ý kiến có liên quan đến vụ án chưa được
Kiểm sát viên tranh luận, chủ tọa phiên tịa có quyền đề nghị Kiểm sát viên phải
tranh luận và đáp lại.
Trong quá trình tranh luận, nếu xét thấy cần xem xét thêm chứng cứ mới thì
Hội đồng xét xử có quyền trở lại việc xét hỏi, xét hỏi xong phải tiếp tục tranh
luận.
Sau khi những người tham gia tranh luận không cịn trình bày gì thêm, chủ
tọa phiên tịa tun bố kết thúc việc tranh luận và bị cáo được nói lời sau cùng.
Nếu trong lời nói sau cùng bị cáo có trình bày thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan
trọng đối với vụ án thì hội đồng xét xử phải quyết định trở lại việc xét hỏi.
Để phiên tòa không kéo dài một cách không cần thiết, Chủ tọa phiên tịa có
quyền cắt ý kiến đối đáp trong các trương hợp sau đây:
- Những ý kiến không liên quan đến vụ án.

- Những người tham gia tố tụng phát biểu nhiều lần về một vấn đề, nhưng
lời phát biểu trùng lặp nhau hoặc trùng lặp với ý kiến của người khác đã phát
biểu.
 Qua phân tích trên ta có thể rút ra như sau:
Đối đáp, tranh luận của Kiểm sát viên tại phiên tịa hình sự thể hiện tính
cơng khai, dân chủ, việc đối đáp của Kiểm sát viên sẽ đảm bảo tôn trọng sự thật
khách quan của vụ án, tôn trọng quyền bào chữa của bị cáo, luật sư và của
những người tham gia tố tụng khác, đảm bảo dân chủ, bình đẳng và có văn hóa
ứng xử thuyết phục, hợp lý.
Khi thực hành quyền cơng tó tại phiên tòa Kiểm sát viên buộc phải tranh
luận, Kiểm sát viên dự kiến những vấn đề cần tranh luận tại phiên tòa, đề cương
tranh luận được dự thảo theo mẫu của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và lưu hồ
sơ kiểm sát.


Tại phiên tòa Kiểm sát viên ghi chép đầy đủ những ý kiến của những người
tham gia tố tụng để chuẩn bị tranh luận. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài
liệu, đồ vật và lập luận để đối đáp đến cùng đối với từng ý kiến của bị cáo,
người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Nếu vụ án có nhiều người bào
chữa cho bị cáo hoặc những người tham gia tố tụng khác chưa được tranh luận
thì Kiểm sát viên thực hiện theo đề nghị của chủ tọa phiên tịa, nếu đã tranh luận
một phần thì Kiểm sát viên tranh luận bổ sung cho đầy đủ, không lặp lại những
nội dung đã tranh luận trước. Trường hợp cần xem xét thêm chứng cứ, Hội đồng
xét xử quay trở lại việc xét hỏi thì sau khi xét hỏi xong Kiểm sát viên phải tiếp
tục tranh luận theo quy định.
Khi tranh luận Kiểm sát viên phải bình tĩnh, khách quan và tôn trọng ý kiến
của những người tham gia tố tụng, ghi nhận ý kiến đúng đắn và bác bỏ những ý
kiến, đề nghị khơng có căn cứ pháp luật. Đối với vụ án phức tạp, có nhiều Kiểm
sát viên tham gia phiên tịa thì lãnh đạo Viện kiểm sát phải phân công cụ thể cho
từng Kiểm sát viên chuẩn bị các nội dung, chứng cứ, lập luận, để thực hành

quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa.
2. Hoạt động kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Kiểm sát viên
2.1. Kiểm sát thành phần của Hội đồng xét xử và sự có mặt của những
người tham gia tố tụng, giới hạn của việc xét xử
Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tồ sơ thẩm xét xử vụ án
hình sự, KSV cần phải thực hiện đúng quy định chung về thủ tục tố tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm của BLTTHS năm 2015 và Điều 22 Quy chế 505.
Tại điều 22 quy chế 505 quy định như sau:
“Điều 22. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
1. Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân theo
pháp luật từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm theo quy định tại Điều 267 Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Trước khi mở phiên tòa, Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử về việc: thực hiện các


yêu cầu cung cấp, bổ sung chứng cứ; triệu tập người tham gia tố tụng, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; thay đổi thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa
án; áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; xét
xử theo thủ tục rút gọn, xét xử công khai hoặc xét xử kín; thơng báo cho nhRng
người tham gia tố tụng biết thời gian, địa điểm xét xử và các hoạt động tố tụng
khác.
3. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét
xử, Thư ký Tòa án và nhRng người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu đến khi kết
thúc phiên tòa, bảo đảm việc xét xử được công minh, đúng pháp luật.
4. Kiểm sát viên phải đề nghị tạm ngừng phiên tịa hoặc hỗn phiên tòa
nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 251, khoản 1
Điều 297 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trường hợp Kiểm sát viên đề nghị tạm ngừng
hoặc hỗn phiên tịa mà Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử thì Kiểm sát viên
phải tham gia phiên tòa và phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải

quyết vụ án. Sau phiên tòa, Kiểm sát viên phải báo cáo ngay với lãnh đạo Viện
kiểm sát xem xét, quyết định.
5. Khi phát hiện có vi phạm khác về thủ tục tố tụng thì kiến nghị, yêu cầu
Hội đồng xét xử khắc phục kịp thời.”
Như vậy, tại phiên toà sơ thẩm xét xử vụ án hình sự Kiểm sát viên cần có
những hoạt đơng để tập trung vào kiểm sát những vấn đề sau:
- Thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX) sơ thẩm gồm 01 Thẩm phán và 02
Hội thẩm. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì HĐXX sơ
thẩm có thể gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm. Đối với các bị cáo bị đưa ra xét
xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là chung thân hoặc tử hình thì
HĐXX bắt buộc phải gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm. Khi phát hiện thấy số
lượng hoặc thành phần HĐXX khơng đúng thì Kiểm sát viên phải căn cứ vào
Điều 254 và khoản 1 Điều 288 BLTTHS 2015 để đề nghị hỗn phiên tịa.
- Sự có mặt của bị cáo, của những người tham gia tố tụng khác được quy
định tại các Điều 290, 291, 292, 293, 294, 295 BLTTHS 2015. Trong quá trình
xét xử, khi khi thấy cần thiết, HĐXX có thể triệu tập Điều tra viên, người có


thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thụ lý, giải quyết vụ án và những người khác
đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án. Khi có người vắng
mặt, tuỳ từng trường hợp mà Kiểm sát viên phát biểu quan điểm và nghị HĐXX
hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
- Về giới hạn của việc xét xử, theo quy định tại Điều 298 BLTTHS 2015
Tòa án xét xử những bị cáo và những hành vi theo tội danh mà VKS truy tố và
Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác
với khoản mà VKS truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng
hoặc nhẹ hơn tội mà VKS đã truy tố.
Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh VKS
truy tố thì Tịa án trả hồ sơ để VKS truy tố lại và thông báo lý do cho bị cáo
hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu VKS vẫn giữ tội danh

đã truy tố thì Tịa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
Nếu xét thấy có thể xét xử bị cáo theo một trong các trường hợp trên đây,
cần tuân thủ quy định của BLTTHS năm 2015 về thẩm quyền xét xử của Toà án
các cấp, về thành phần HĐXX sơ thẩm. Tại phiên tòa KSV phải chú ý theo dõi,
ghi chép đầy đủ việc điều hành của chủ tọa phiên tịa, nếu phát hiện thiếu sót thì
phải kịp thời lưu ý HĐXX bổ sung ngay.
2.2. Kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên tòa của Hội đồng xét xử
Căn cứ vào thời gian ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tồ án,
KSV phải có mặt tại phịng xử án trước khi HĐXX vào phòng xử án làm việc để
kiểm sát hoạt động của Thư ký Toà án xem có phổ biến nội quy phiên tịa
khơng? Nội quy mà Thư ký đọc, phổ biến có thống nhất với bản nội quy niêm
yết tại trụ sở Tồ án khơng? Có tuân thủ các quy định tại Điều 300 BLTTHS
2015 hay khơng, cũng như việc kiểm tra sự có mặt và vắng mặt của những
người đã được triệu tập đến phiên tịa. Nếu có người vắng mặt cần làm rõ lý do
để khi phiên tịa diễn ra thì KSV phát biểu quan điểm đề nghị HĐXX tiếp tục
xét xử hay hỗn phiên tịa theo đúng quy định của pháp luật
Khi HĐXX vào phòng xử án, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tuyên bố khai
mạc phiên tòa, đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử.Trước khi đọc, Thẩm phán


chủ tọa phiên tòa yêu cầu mọi người đứng dậy như khi tuyên án. KSV phải chú
ý lắng nghe ,theo dõi và đối chiếu với quyết định đưa vụ án ra xét xử mà Toà án
đã gửi cho VKS xem có thống nhất với nhau khơng? Nếu có điểm, mục nào mâu
thuẫn thì cần đánh dấu hoặc ghi lại để lưu ý HĐXX làm rõ tại phiên tòa hoặc
kiến nghị khắc phục. .
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải hỏi KSV và những người tham gia tố
tụng có đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người định
giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật. Khi được hỏi,KSV phải căn cứ
kết quả kiểm tra trước khi bắt đầu phiên toà; đối chiếu với tài liệu có trong hồ sơ
vụ án để phát biểu đề nghị HĐXX tiến hành xét xử hoặc phải hỗn phiên tồ

Khi có người yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật KSV căn cứ vào các điều
luật tương ứng quy định tại các điều 51, 53, 54, 68, 69, 70 và 302 BLTTHS năm
2015
HĐXX phải giải quyết những yêu cầu về xem xét chứng cứ và hoãn phiên
tịa khi có người vắng mặt theo quy định tại điều 305 BLTTHS năm 2015. Chủ
tọa phiên tòa phải hỏi KSV và những người tham gia tố tụng có mặt tại phiên
tịa xem có ai u cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm
vật chứng, tài liệu ra xem xét hay khơng? Nếu có người tham gia tố tụng vắng
mặt hoặc tuy có mặt tại phiên tồ nhưng vì lý do sức khoẻ khơng thể tham gia
tố tụng thì chủ toạ phiên tồ phải hỏi xem có ai u cầu hỗn phiên tồ hay
khơng? nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét, quyết định. Khi kiểm sát hoạt
động này, nếu thấy cần thiết thì KSV có thể yêu cầu HĐXX triệu tập thêm người
làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét tại phiên tồ;
u cầu hỗn phiên tồ khi có người vắng mặt mà việc xét xử khơng đảm bảo
tính khách quan, tồn diện và đầy đủ.
KSV phải kiểm sát việc xem xét, quyết định của HĐXX về việc cách ly
người làm chứng với những người có liên quan, cách ly bị cáo với người làm
chứng theo quy định tại khoản 2 Điều 304 BLTTHS 2015.


2.3. Kiểm sát thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
HĐXX tiến hành việc xét hỏi theo đúng trình tự quy định tại Điều 307
BLTTHS 2015. Tuỳ theo tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, số
lượng bị cáo mà HĐXX quyết định việc xét hỏi bị cáo trước hay hỏi nhân
chứng, bị hại trước. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc xét hỏi, quyết định người
hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét hỏi từng người, Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, KSV, người bào
chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi.
KSV phải lưu ý HĐXX không để xảy ra trường hợp thẩm phán chủ toạ

phiên tồ chỉ hỏi qua loa vài câu sau đó yêu cầu .
KSV hỏi. Đối với trường hợp này, KSV phải đề nghị HĐXX thực hiện
đúng trình tự theo Điều 307 BLTTHS 2015. Khi hỏi bị cáo, HĐXX phải thực
hiện câu hỏi theo khoản 2 Điều 309 BLTTHS năm 2015 sau đó mới hỏi từng
tình tiết sự việc, hỏi từng bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 307 và khoản 1
Điều 309 đã nêu trên. Chỉ được công bố lời tại CQĐT khi thuộc một trong các
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 308 BLTTHS năm 2015. Mọi chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án đều phải được thẩm tra, xác minh cơng khai tại phiên tịa. Do
vậy, tuỳ theo trình tự xét hỏi và căn cứ vào khoản 2 Điều 308 BLTTHS năm
2015, HĐXX hoặc KSV công bố lời khai hoặc tài liệu. KSV kiểm sát việc xét
hỏi của HĐXX nhằm bảo đảm việc xét hỏi bị cáo, bị hại, đương sự, người làm
chứng, người đại diện của họ, người giám định, người định giá tài sản được thực
hiện theo quy định tại các Điều 309 310,311, 316 BLTTHS năm 2015. Khi xét
hỏi, những câu hỏi của HĐXX, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự phải cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. Không được đặt
các câu hỏi có tính chất khẳng định, câu hỏi mớm cung hoặc xúc phạm danh dự,
nhân phẩm của ngươi được hỏi. KSV cần hết sức lưu ý những câu hỏi của người
bào chữa vì thực tế người bào chữa hay hỏi mớm cung, dụ cung đối với bị cáo,
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động bào chữa, nếu phát hiện KSV phải
kịp thời lưu ý HĐXX khắc phục ngay.


Trước khi kết thúc việc xét hỏi theo quy định tại Điều 316 BLTTHS năm
2015, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa phải hỏi KSV, bị cáo, người bào chữa và
những người tham gia phiên tồ xem họ có u cầu xét hỏi vấn đề gì nữa
khơng? Nếu có và xét thấy cần thiết thì chủ tọa phiên tịa phải tiếp tục việc xét
hỏi ,KSV phải lưu ý thủ tục này để bảo đảm việc xét xử thực sự dân chủ theo
đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Việc xét hỏi chỉ kết thúc khi
HĐXX thấy khơng cịn vấn đề gì cần tiếp tục xét hỏi và chủ tọa phiên tòa tuyên
bố kết thúc phần xét hỏi.

Trong quá trình xét xử, KSV phải kiểm sát việc chấp hành pháp luật của
những người tham gia tố tụng tại phiên tịa như việc có mặt theo giấy triệu tập
của Tồ án, ý thức chấp hành nội quy phòng xử án, thái độ khai báo trong quá
trình được xét hỏi V.v... Nếu có vi phạm thì tuỳ từng trường hợp mà KSV đề
nghị chủ tọa phiên tịa có thể nhắc nhở, cảnh cáo hoặc buộc ra khỏi phòng xử án.
Nếu xảy ra các trường hợp vi phạm nêu trên mà không được HĐXX áp dụng các
biện pháp giải quyết thì KSV có trách nhiệm đề nghị HĐXX có biện pháp xử lý
kịp thời.
Như vậy, để thực hiện tốt hoạt động kiểm sát thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
HSST thì điều đầu tiên Kiểm sát viên phải hiểu và nắm rõ quy định tại Điều 307
BLTTHS 2015. Thủ tục xét hỏi là một thủ tục bắt buộc trong phiên tòa HSST để
làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án, giúp quyết định hoặc bản án giải
quyết vụ án hợp tình, hợp lý. Nếu trong việc xét hỏi mà người tiến hành tố tụng
thực hiện không đúng theo quy định của luật sẽ làm sai lệch sự thật khách quan
của vụ án, dẫn đến oan sai người vô tội. Do vậy, kiểm sát viên phải thực hiện
việc kiểm sát sao cho hoạt động của người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng đúng như nội dung các điều luật liên quan có quy định.
2.4. Kiểm sát việc tuyên án và kiểm sát biên bản phiên tòa
2.4.1. Kiểm sát việc tuyên án
Trong thực tiễn, KSV thường ít chú ý đến việc tuyên án của HĐXX, vì cho
rằng đã luận tội, đối đáp, tranh luận xong thì tuyên án là nhiệm vụ của HĐXX
và thường chỉ chú ý lắng nghe phần quyết định của bản án có phù hợp với quan


điểm đề xuất của mình khơng. Chính vì vậy, những sai sót trong việc tun án
trong nhiều trường hợp khơng được phát hiện. Để bảo đảm kiểm sát việc tuyên
án của HĐXX đúng quy định của pháp luật, KSV cần nắm vững những nhiệm
vụ của HĐXX trong khi tuyên án theo các Điều 327, 263, 256 BLTTHS 2015,
bao gồm: khi tuyên án, Chủ tọa phiên tòa đề nghị mọi người trong phòng xử án
đứng dậy. Sau khi tuyên bố nhân danh nhà nước để tun án, chủ tọa phiên tịa

có thể quyết định cho mọi người ngồi xuống nghe tuyên án, riêng bị cáo phải
đứng nghe tuyên án. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của HĐXX
đọc bản án. Trường hợp xét xử kín thì chỉ đọc phần quyết định trong bản án. Sau
khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền kháng
cáo. Sau khi tuyên án, người phiên dịch có trách nhiệm dịch lại cho bị cáo nghe
trong trường hợp bị cáo, bị hại, đương sự, người làm chứng không biết tiếng
Việt, người câm, người điếc.
KSV phải kiểm sát việc trả tự do cho bị cáo hoặc bắt tạm giam bị cáo sau
khi tuyên án theo đúng Điều 328, 329 BLTTHS năm 2015. KSV chú ý lắng
nghe, ghi lại những trọng, nội dung quyết định của bản án sơ thẩm, ghi lại
những nhận định quan của bản án sơ thẩm để làm căn cứ kiểm tra, đối chiếu với
biên bản phiên tòa và báo cáo lãnh đạo Viện ngay sau khi xét xử xong, đồng thời
làm căn cứ đối chiếu bản án sau này. Đối với phần quyết định hình phạt, cần chú
ý việc khấu trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam khi áp dụng hình phạt cải tạo khơng
giam giữ hoặc xử phạt tù, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với bị cáo là người
dưới 18 tuổi... Tất cả những tình tiết này có ý nghĩa dùng để đối chiếu giữa bản
án Tòa án tuyên tại tòa với bản án ban hành sau này để phát hiện những vi phạm
của Tòa án.
Dựa trên BLTTHS 2015, Quy chế 505/2017 của VKSNDTC và các văn bản
khác có liên quan, KSV không được bỏ qua hay thực hiện không sát sao việc
kiểm sát bất kỳ thủ tục nào trong phiên tịa hình sự sơ thẩm – kể cả việc tun án
của Tòa án. Mặc dù trước khi mở phiên tòa hình sự sơ thẩm, mối quan hệ phối
hợp giữa Tịa án và Viện kiểm sát được thực hiện (Tòa án và Viện kiểm sát
thống nhất quan điểm, cách giải quyết vụ án) nhưng có thể cũng có những thay


đổi trong khi phiên tịa diễn ra. Vì vây, để đảm bảo quyền và lới ích hợp pháp
của các đương sự có liên quan, Kiểm sát viên phải thận trọng, chú ý quyết định,
bản án được Tòa án tuyên đọc.
2.4.2. Kiểm sát biên bản phiên tòa ngay sau khi Tòa tuyên án

Sau phiên tòa, KSV cần đối chiếu bút ký của mình tại phiên tịa với biên
bản phiên tịa xem biên bản đó có ghi đầy đủ khơng, có gì mâu thuẫn khơng?
Nếu phát hiện sai sót thì u cầu sửa chữa, bổ sung (khơng được sửa chữa, tẩy
xố vào những phần đã ghi mà phải ghi vào cuối biên bản phiên tòa, chủ tọa
phiên tòa và Thư ký Tòa án cùng ký vào phần bổ sung).
Kiểm sát việc tuyên án, kiểm sát biên bản phiên tòa thường liên quan chặt
chẽ đến việc kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng tại phiên tịa xét xử sơ thẩm
hình sự. Do vậy, KSV cần nắm vững các quy định của BLTTHS năm 2015, Quy
chế 505 nhằm kịp thời phát hiện các vi phạm của Tòa án để yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị khắc phục.
Biên bản phiên tòa do Thư ký phiên tịa ghi chép lại. Trong q trình phiên
tịa HSST diễn ra, Kiểm sát viên cũng phải ghi chép một bản Biên bản phiên tịa
của mình để làm cơ sở cho việc đối chiếu với Biên bản phiên tòa của Thư ký
Tịa án ghi chép. Vì Biên bản phiên tịa sẽ được lưu giữ trong hồ sơ vụ án nên
việc ghi chép đầy đủ, đúng sự thật các thủ tục đã diễn ra tại phiên tòa là điều rất
cần thiết. Do vậy, để thực hiện tốt chức năng kiểm sát của mình, Kiểm sát viên
cần kiểm sát cả Biên bản phiên tòa. Tuy nhiên, việc kiểm sát này cần được Kiểm
sát viên thực hiện ngay sau khi phiên tòa kết thúc để tránh việc bổ sung, sửa đổi
từ phía Tịa án.


III. Những hạn chế và giải pháp nâng cao cao hiệu quả hoạt động
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Kiểm
sát viên trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1. Hạn chế trong thực hành quyền cơng tố và kiểm sát xét xử vụ án
hình sự của Kiểm sát viên trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Theo quy định của pháp luật, trong các phiên tồ xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, Kiểm sát viên (KSV) thực hiện hai chức năng: thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự. Đây là một
quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của KSV. Trong hoạt động của mình, KSV

phải tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và Quy chế tạm
thời về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự do Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành. Đồng thời KSV phải nhạy bén, linh hoạt,
có khả năng tư duy tổng hợp, khả năng lập luận cũng như tranh luận tốt với
những ngưòi tham gia phiên tịa. Chất lượng, hiệu quả thực hành quyền cơng tố
của KSV phụ thuộc vào những yếu tố đó. Tuy vậy thực tiễn cho thấy rằng khi
thực hiện các hoạt động này KSV còn những hạn chế nhất định cụ thể như sau:
- Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà: Tại nhiều địa phương Kiểm sát viên
chưa chú ý nhiều đến việc giải quyết các yêu cầu về xem xét chứng cứ và hỗn
phiên tồ khi có người vắng mặt được quy định tại BLTTHS nên nhiều Kiểm sát
viên không có quan điểm hoặc lúng túng khi đánh giá các ý kiến đưa ra của
người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác về những vấn đề
liên quan trong phần thủ tục phiên toà.
- Trong phần xét hỏi tại phiên toà: Qua theo dõi các phiên tịa thì đây là một
trong những phần mà Thẩm phán và Kiểm sát viên còn bộc lộ nhiều hạn chế như
Thẩm phán hỏi quá nhiều một vấn đề, làm thay Kiểm sát viên như đấu tranh với
bị cáo trong trường hợp bị cáo khơng nhận tội. Nhiều khi cịn hỏi lan man dài
dịng, khơng đúng trọng tâm, vừa hỏi vừa kết tội luôn bị cáo. Ngược lại Kiểm
sát viên thiếu chủ động trong việc xét hỏi. Kiểm sát viên vẫn rất coi nhẹ hoạt


động chuẩn bị đề cương xét hỏi. Hoặc tình trạng những câu hỏi của Kiểm sát
viên đưa ra không làm rõ được nội dung cáo trạng, không phục vụ cho việc luận
tội cũng như những vấn đề dự kiến sẽ phải tranh luận. Những câu hỏi cịn thiếu
mục đích, dài dịng, khó hiểu làm bị cáo hoặc bị hại, nhân chứng phải đề nghị
giải thích lại vẫn diễn ra, nhiều câu hỏi cịn mang tính chủ quan, mang tính kết
luận.
- Trong phần trình bày lời luận tội của Kiểm sát viên: Một số lời luận tội,
lời phát biểu của Kiểm sát viên chưa thực sự là kết quả của phần xét hỏi và điều

tra cơng khai tại phiên tồ, vẫn dựa chủ yếu vào luận tội viết sẵn rồi điều chỉnh
theo diễn biến phiên toà.
- Trong phần tranh luận và đối đáp: Đây là phần trọng tâm của tranh tụng
và nó cũng là điểm hạn chế của phần lớn các Kiểm sát viên: không dự kiến
những vấn đề phải tranh luận, khi có Luật sư tham gia đưa ra những vấn đề phản
bác, thường mất thế chủ động, nhất là khi Luật sư có kỹ năng bào chữa giỏi.
Nhiều Kiểm sát viên cịn khơng đối đáp các vấn đề thuộc về lý luận chung với
Luật sư hoặc đối đáp sai những vấn đề rất cơ bản trong phần chung và phần tội
phạm cụ thể của Bộ luật hình sự. Điều này thể hiện lý luận về cấu thành tội
phạm còn chưa thực sự được chú trọng. Hoặc do chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ nên
nhiều vấn đề Luật sư đưa ra Kiểm sát viên khơng biết họ nói có đúng hay khơng
từ đó dẫn tới việc khơng tranh luận.
Nhiều Kiểm sát viên có khả năng diễn đạt, trình bày và phản ứng linh hoạt
với những vấn đề Luật sư đưa ra, đó chính là trình độ, hiểu biết của mỗi Kiểm
sát viên biết chịu khó rèn luyện, nghiên cứu, học hỏi tìm tịi thì sẽ đạt được kết
quả. Tuy nhiên, khơng ít các Kiểm sát vẫn cịn e ngại, khơng mạnh dạn chọn
phiên tồ có bị cáo khơng nhận tội hoặc có Luật sư tham gia bào chữa. Hoặc
tình trạng Kiểm sát viên khi tranh tụng chỉ thấy quyền của Kiểm sát viên là được
tranh tụng mà chưa thấy nghĩa vụ của Kiểm sát viên là phải tranh luận, vẫn cịn
tình trạng chủ quan đối với những vụ án khơng có Luật sư, chưa quan tâm tranh
luận đối đáp với những người tham gia tố tụng khác.


Để tồn tại những hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan
và khách quan khác nhau. Nhưng tựu chung lại có thể thấy do một số nguyên
nhân chính như trong thời gian dài khi BLTTHS 2015 chưa ban hành chúng ta
chưa chú trọng đến hoạt động tranh luận, coi đây chỉ là nghĩa vụ thuần tuý để
hoàn thành thủ tục tố tụng. Năng lực của KSV còn có phần hạn chế, có sự chủ
quan khi tham gia phiên tịa, chưa có sự chủ động tích lũy và nâng cao nghiệp
vụ của mình, kĩ năng tranh luận chưa được bồi dưỡng và mài dũa. Đồng thời

trong công tác chỉ đạo, điều hành, lãnh đạo tại các địa phương cịn chưa có sự
chỉ đạo quyết liệt, chưa có nhiều các phiên tòa giả định, các cuộc thi đánh giá và
tập huấn để nâng cao kĩ năng nghiệp vụ của KSV một phần cũng do trong thời
gian dài, chúng ta chưa chú trọng đến hoạt động tranh luận, coi đây chỉ là nghĩa
vụ thuần tuý để hoàn thành thủ tục tố tụng.
2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trong thực hành quyền công
tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự của Kiểm sát viên trong phiên tịa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự
Từ những hạn chế và nguyên nhân trên để làm tốt công tác xét xử nói
chung và cơng tác thực hành quyền cơng tố của Kiểm sát viên nói riêng nhóm
đưa ra một số giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nâng cao trình độ, chun mơn, nghiệp vụ của Kiểm sát
viên.
Một phiên tịa có thành cơng hay khơng có đảm bảo đúng người đúng tội
tránh oan sai hay không phụ thuộc rất nhiều vào Kiểm sát viên vì vậy KSV ln
phải trau dồi các vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ và không ngừng tiếp thu, tích
lũy kinh nghiệm. Muốn vậy nên đổi mới nội dung đào tạo, chú trọng việc đào
tạo về thực tiễn như tập trung đào tạo về và kỹ năng thực hành quyền cơng tố
của KSV thơng qua phiên tịa giả định, phiên tòa rút kinh nghiệm nhất là tập
chung rèn kỹ năng xử lý các tình huống phát sinh tại phiên tịa cho Kiểm sát
viên để từ đó nâng cao kĩ năng và chất lượng tranh tụng tại phiên tịa đảm bảo
ngun tắc bình đẳng và dân chủ của cơng dân. Đồng thời bản thân KSV phải có
thái độ nghiêm túc, tác phong khoan thai đúng mực, lời nói dứt khoát, rõ ràng,


rành mạch. Quan trọng hơn cả, KSV phải tập chung cao độ để thực hiện trách
nhiệm của mình, đảm bảo vừa là người thay mặt Nhà nước giữ quyền công tố,
vừa là người kiểm sát hoạt động xét xử của Toà án. Tại phiên toà, KSV phải lưu
ý đến mọi diễn biến của vụ án, nhất là lưu ý việc quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự có được Hội đồng xét xử đảm bảo khơng? Ví dụ như: có triệu tập đến

phiên tồ đầy đủ, đúng thành phần khơng?; Thời hạn mở phiên tồ có đảm bảo
đúng quy định của pháp luật không?; Những yêu cầu về việc thay đổi KSV;
thành viên Hội đồng xét xử (nếu có)… Nếu những quy định trên không được
đảm bảo, KSV phải xét đề nghị hỗn phiên tồ. KSV cần kiểm sát chặt chẽ quá
trình xét hỏi, trình tự xét hỏi, nội dung xét hỏi, cách thức xét hỏi, đặc biệt lưu ý
khơng xảy ra tình trạng mớn cung, dụ cung. Đồng thời, sau khi cơng bố bản cáo
trạng, nếu có ý kiến thì Kiểm sát viên trình bày ý kiến bổ sung khơng lệ thuộc
văn bản có sẵn, nhưng ý kiến bổ sung chỉ để làm rõ, bổ sung thêm nội dung của
bản cáo trạng mà không làm thay đổi nội dung bản cáo trạng, khơng được làm
xấu đi tình trạng của bị cáo. Để làm được điều này yêu cầu Kiểm sát viên phải
nghiên cứu cáo trạng, đối chiếu tài liệu hồ sơ trong giai đoạn điều tra, truy tố và
tài liệu được Tòa án gửi đến trước khi mở phiên tịa.
Thứ hai, cần quan tâm cơng tác tổ chức và quản lý chỉ đạo điều hành.
Trong công tác chỉ đạo, điều hành, lãnh đạo hai ngành cần quan tâm ngay
từ việc chọn và phân công Thẩm phán, Kiểm sát viên tham gia giải quyết vụ án
ngay từ đầu. Cần quan tâm đến công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng mà đặc biệt là Tòa án như đối với một số vụ phức tạp, khó khăn trong việc
đánh giá chứng cứ hoặc khác quan điểm về tội danh… Lãnh đạo hai ngành cần
chỉ đạo Thẩm phán, Kiểm sát viên làm tốt công tác chuẩn bị xét xử. Đối với
Kiểm sát viên cần chỉ đạo chuẩn bị tốt dự thảo luận tội, đề cương xét hỏi nhất là
dự kiến tình huống. Đây là cơng tác chuẩn bị quan trọng nhất vì trong thực tế
cho thấy dù cơng tác chuẩn bị có tốt đến đâu nhưng Thẩm phán và Kiểm sát viên
khơng dự liệu được các tình huống có thể xẩy ra tại phiên tịa thì phiên tịa cũng
khó hồn thành tốt được. Đồng thời Lãnh đạo phải kiểm tra, duyệt lại việc chuẩn
bị dự thảo luận tội, đề cương xét hỏi nhất là dự kiến tình huống.


Ngoài ra Lãnh đạo hai ngành cần quan tâm đến cơng tác rút kinh nghiệm
sau phiên tịa. Đối với Kiểm sát viên thông qua các thông báo rút kinh nghiệm
của Viện KSND tối cao để tham mưu cho Lãnh đạo trong công tác đánh giá

chứng cứ về công tác thực hành quyền cơng tố. Hoặc có điều kiện hai ngành
cùng nhau tổ chức rút kinh nghiệm từng vụ án cụ thể. Cịn nếu khơng có điều
kiện thì hàng năm hai ngành Tòa án và Viện kiểm sát nên tổ chức Hội nghị rút
kinh nghiệm về công tác xét xử và Hội nghị này nên mời ngành cấp trên tham
dự.
Thứ ba, cần hoàn thiện các quy định pháp luật.
Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự là
hết sức cần thiết. Cụ thể trong quy định về giới hạn xét xử. Khoản 2 Điều 298
BLTTHS 2015 quy định: “Tịa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với
khoản mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố”.
Tuy nhiên, tại Điều 319 thì Kiểm sát viên chỉ có thể truy tố hoặc kết luận
về tội nhẹ hơn mà khơng có quy định về việc kết luận về tội bằng tội danh đã
truy tố. Tại Khoản 2 Điều 21 quy chế công tác thực hành quyền cơng tố, kiểm
sát xét xử vụ án hình sự thì: “Tại phiên tịa, sau khi xét hỏi, nếu có căn cứ rõ
ràng để rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về một tội
khác bằng hoặc nhẹ hơn;...” Những quy định như vậy tạo ra sự khơng thống
nhất, tạo khó khăn cho việc thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên, ngại ngần
trong việc thay đổi quyết định, truy tố về tội danh khác. Đồng thời Pháp luật cần
tạo điều kiện hơn cho Kiểm sát viên có thể chủ động hỏi bị cáo trước những
người tham gia tố tụng khác. Vì chức năng thực hành quyền công tố thuộc về
Kiểm sát viên nên việc xét hỏi, thẩm tra các chứng cứ công khai tại phiên tòa
nhằm bảo vệ cáo trạng cũng như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát.


C. KẾT BÀI
Có thể thấy thơng qua việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình Viện
kiểm sát nhân dân đã góp phần to lớn trong cơng cuộc đấu tranh phịng chống
tội phạm, qua đó giúp cũng cố lịng tin trong quần chúng nhân dân, giữ vững an
ninh, trật tự, an tồn xã hội, góp phần to lớn vào tiến trình phát triển kinh tế bền

của đất nước. Bên cạnh đó, thơng qua hoạt động của kiểm sát viên tại phiên tịa
sơ thẩm vụ án hình sự đã góp phần đóng góp to lớn và việc đảm bảo pháp luật
được tuân thủ một cách tuyệt đối trong hoạt động tư pháp để đảm bảo cho việc
thực hiện chức năng thực hành quyền công tố tốt hơn, hiệu quả hơn. Để từ đó
xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà
Đảng và Nhà nước giao cho ngành kiểm sát nhân dân.


×