Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát viên và luật sư (nghề luật và phương pháp học luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.75 KB, 20 trang )

lO MoARcPSD|9797480

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHĨM
MƠN: NGHỀ LUẬT VÀ
PHƯƠNG PHÁP HỌC LUẬT
ĐỀ BÀI:
Phân tích để chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong
nghề nghiệp của các chức danh thẩm phán, kiểm sát
viên và luật sư. Theo nhóm các chức danh này phải tuân
thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp nào khi làm việc
với nhau trong hoạt động tư pháp?

LỚP

: N06.TL2

NHÓM

:


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT................................................................3
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 4
NỘI DUNG.......................................................................................................5
I.

SO SÁNH BA CHỨC DANH THẨM PHÁN, LUẬT SƯ, KIỂM SÁT


VIÊN.................................................................................................................5
1. Những điểm tương đồng........................................................................5
2. Những điểm khác biệt............................................................................8

II.

QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA BA CHỨC DANH KHI
LÀM VIỆC VỚI NHAU TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP....................11
1. Một số khái niệm.................................................................................11
2. Những quy tắc đạo đức và ứng xử riêng của ba chức danh............12
2.1. Thẩm phán....................................................................................12
2.2. Kiểm sát viên................................................................................12
2.3. Luật sư..........................................................................................13
3. Những quy tắc đạo đức và ứng xử chung của ba chức danh khi làm
việc với nhau trong hoạt động tư pháp............................................ 13
KẾT LUẬN.................................................................................................... 18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................19

2


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

TAND

Tòa án nhân dân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

3


MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Việt Nam đang trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế và hịa mình vào dịng chảy tồn cầu hố thì việc
tăng cường vai trị của pháp luật được đặt ra như một tất yếu khách quan. Khi vị
thế và vai trò của pháp luật ngày càng được nâng cao thì nghề luật và những
người hành nghề luật càng được tơn trọng trong xã hội. Mang trên mình sứ mệnh
bảo vệ cơng lý, đảm bảo cơng bằng xã hội địi hỏi những người hành nghề luật
nói chung và các chức danh như Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư nói riêng
ln phải nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ; có trách nghiệm trong việc
phát huy và duy trì được những điểm sáng của nghề, phải có

ý thức giữ gìn đạo đức, phẩm giá của mình. Vì vậy, việc so sánh, đối chiếu ba
chức danh phổ biến của nghề luật cho chúng ta cái nhìn khái quát nhất để hiểu
rõ hơn về hoạt động tư pháp.
Mục tiêu chung của hoạt động tư pháp là thực thi pháp luật, bảo vệ
pháp chế, quyền lợi của Nhà nước, các tổ chức và cơng dân; góp phần ổn định
và phát triển xã hội. Khi thực hiện mục tiêu đó, Thẩm phán, Kiểm sát viên và
Luật sư ln có mối quan hệ phối hợp với nhau. Trong hoạt động xét xử, mỗi
chức danh thực hiện các hoạt động tố tụng khác nhau song lại có mối quan hệ

với nhau. Hoạt động nghề nghiệp của các chức danh không riêng biệt, độc lập
mà luôn có mối liên hệ mật thiết, gắn bó với nhau tạo thành một thể thống
nhất trong khuôn khổ thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Do
đó, các chức danh này phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp chung
khi làm việc với nhau để đảm bảo tính cơng bằng một cách khách quan trong
hoạt động tư pháp.

4


NỘI DUNG
I.

SO SÁNH BA CHỨC DANH THẨM PHÁN, LUẬT SƯ, KIỂM
SÁT VIÊN
1. Những điểm tương đồng
Ba chức danh Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư là ba vị trí ln có sự

đồng hành, đối trọng lẫn nhau trên con đường thực thi quyền tư pháp. Dù có
những khác biệt lớn về nhiệm vụ, quyền hạn hay những yêu cầu chuyên môn,
ba chức danh tư pháp Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư ln có những điểm
chung nhất định.
Thứ nhất, cả ba chức danh đều gắn với công lý, công bằng, lẽ phải. Cơng
lý có thể được hiểu là việc bảo đảm sự cơng bằng, bình đẳng giữa con người với
con người đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhìn từ phương diện
lịch sử, bảo vệ cơng lý là mục tiêu đồng thời cũng là sứ mệnh của các chức danh
tư pháp thuộc hệ thống nghề luật, vì pháp luật được tạo ra để bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của con người. Luật sư tiến hành những hoạt động của mình
nhằm bảo vệ lợi ích khách hàng, thơng qua đó giám sát phản biện cho hoạt động
của các cơ quan nhà nước; Kiểm sát viên có chức năng thực hành quyền cơng tố

(buộc tội đúng người), kiểm sát hoạt động tư pháp (kiểm tra tính đúng đắn và
hợp pháp) từ đó giúp hạn chế được những sai phạm xảy ra trong quá trình xét xử
và các bản án oan sai; Thẩm phán là hạt nhân của Tòa án - cơ quan thực thi
quyền tư pháp, nơi đưa ra những phán quyết ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi,
nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì thế, cơng bằng phải là yếu tố căn bản
tạo thành đạo đức của Thẩm phán.

Thứ hai, đều bất khả kiêm nhiệm. Cùng nằm trong hệ thống nghề luật,
một người đã đảm nhiệm chức danh tư pháp này không thể đồng thời đảm
nhiệm chức danh tư pháp khác cũng như các chức vụ trong cơ quan nhà nước
khác. Ví dụ, khi đang hành nghề luật sư thì khơng thể được làm thẩm phán,
kiểm sát viên và ngược lại. Pháp luật chỉ cho phép họ được quyền thay đổi
hoạt động hành nghề của mình.
5


Thứ ba, đều cần đề cao sự công tư phân minh trong công việc. Công tư
phân minh thể hiện ở việc khơng đặt lợi ích cá nhân lên trước cơng lý và lẽ
phải. Giả sử một người phạm tội tìm đến Luật sư bào chữa với một mức giá
cực cao, hay Thẩm phán phải đối mặt tuyên án cho chính người thân của
mình,... Những trường hợp như vậy xảy ra rất nhiều trên thực tế, nhưng hơn ai
hết, là những chức danh thực hiện hoạt động bảo vệ luật pháp, mang trên
mình niềm tin mà xã hội gửi gắm thì những chức danh hành nghề luật luôn
cần phải đề cao sự công tư phân minh, đề cao sự thật.
Thứ tư, cả ba chức danh hoạt động đều đòi hỏi phải có trình độ chun
mơn và có tính chun nghiệp cao. Nằm trong hệ thống nghề luật nên kiến
thức chuyên môn sâu về pháp luật đều phải có. Hơn nữa, với mỗi chức danh
đều được quy định rõ trong luật là sẽ có những tiêu chuẩn để có thể hành nghề
như phải có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề,...
Thứ năm, đều có tính độc lập và chế độ trách nhiệm cá nhân cao. Cả

Luật sư, Kiểm sát viên và Thẩm phán đều làm việc độc lập. Độc lập nghĩa là
không bị ảnh hưởng bởi các tác nhân bên ngồi. Như Thẩm phán khi giải
quyết tố tụng hình sự phải chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không
bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết
luận của Viện Kiểm sát đưa ra. Về chế độ trách nhiệm cá nhân cao, đối với
một vụ việc, bất kể là một chi tiết nhỏ có liên quan cũng có thể quy trách
nhiệm cho người thụ lý chúng. Chẳng hạn như khi một vụ án xảy ra, kiểm sát
viên và luật sư (người bào chữa) là những chủ thể đi thu thập bằng chứng, nếu
bỏ qua dù chỉ một chi tiết rất nhỏ, vụ án có thể bị điều chỉnh sang một hướng
khác, dẫn đến kết quả sai lệch. Những chủ thể này phải chịu trách nhiệm độc
lập cho những gì mà mình đã làm, trước sự cơng minh của xã hội.
Thứ sáu, đều phải tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp nghiêm
khắc. Các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ba chức danh trên được quy định
rất rõ trong luật - điều này có nghĩa họ buộc phải biết đến, tn thủ và khơng
được lựa chọn. Hơn nữa, vì đều có liên quan đến quyền và lợi ích của con
6


người, của tồn xã hội nên nếu có sai phạm, họ sẽ không chỉ phải gánh chịu
những chế tài xử phạt nghiêm khắc của nhà nước mà còn phải gánh chịu hậu
quả từ rất nhiều chủ thể có quyền và lợi ích liên quan.
Thứ bảy, cả ba nghề này đều gắn với số phận con người. Hay nói một
cách chính xác hơn là có thể làm thay đổi vận mệnh, thậm chí tước đi tài sản,
tính mạng của một người. Do vậy mà cả ba nghề này đều mang tính nguy
hiểm rất cao. Chẳng hạn, nếu Thẩm phán xử án dẫn đến việc tước đi quyền tự
do, tính mạng của một người đơi khi sẽ gây bức xúc, thậm chí sự căm phẫn
đối với người thân của bị cáo. Tiêu biểu 13 năm trước, câu chuyện nữ thẩm
phán Nguyễn Thị Kim Loan bị tạt axit khiến nhiều người xót xa. Bởi vậy, ta
cần có những biện pháp khắt khe, chặt chẽ hơn để bảo vệ các chủ thể của ba
nghề này, đồng thời giảm bớt tính nguy hiểm cho nghề luật.

Thứ tám, cả ba nghề đều luôn phải đứng trước rất nhiều cám dỗ, luôn
chịu sự tác động của nhiều yếu tố cả bên trong và bên ngồi. Có thể hiểu, đạo
đức nghề nghiệp là tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nhằm điều
chỉnh, kiểm soát, đánh giá những hành vi của những người làm nghề luật và
định hướng quan hệ giữa người hành nghề với xã hội trong khi hành nghề,
được hình thành phát triển gắn liền với hoạt động nghề nghiệp. Liệu đứng
trước sức hấp dẫn của tiền bạc, lợi ích, đạo đức nghề luật có cịn tiếng nói?
Đây cũng chính là một thử thách lớn nhưng cũng chính là cơ hội để ta tìm ra
những người có đạo đức cao trong cả ba chức danh tư pháp trên.
Thứ chín, một yêu cầu chung đối với ba chức danh này được quy định
trong luật đều cần phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân
luật. Bất cứ nghề gì cũng đều cần những u cầu địi hỏi và tiêu chuẩn riêng để
đáp ứng các tính chất của nó. Thẩm phán, Kiểm sát viên hay Luật sư cũng khơng
ngoại lệ. Đây chính là u cầu tối thiểu của ba chức danh này.
Thứ mười, Thẩm phán, Kiểm sát viên hay Luật sư, các nghề này đều đã
được pháp luật Việt Nam quy định rõ về tất cả các yếu tố có liên quan. Pháp
7


luật là chuẩn mực, là nội dung và phương tiện hoạt động của các chức danh tư
pháp trên. Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Pháp lệnh của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm
2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
2014 đều quy định rất rõ về tích chất, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cũng
như tiêu chuẩn, điều kiện của từng chức danh trên.
Cuối cùng, mặc dù mỗi nghề đều có những tính chất riêng, nhưng cả
ba đều đóng một vai trị vơ cùng quan trọng, khơng thể thay thế được trong
nền luật pháp nước ta. Để thấy được tầm quan trọng của chúng, ta có thể trả
lời cho các các câu hỏi. Nếu khơng có Thẩm phán thì sẽ ra sao? Ai sẽ là người

kết án bị cáo theo quy định của pháp luật. Nếu không có Kiểm sát viên thì sẽ
ra sao? Ai là người sẽ buộc tội bị cáo. Nếu khơng có Luật sư thì sẽ ra sao? Ai
sẽ là người bào chữa thậm chí là minh oan cho bị cáo, đối với những trường
hợp tòa kết án sai? Tất cả đều giữ một vị trí hết sức quan trọng.
2. Những điểm khác biệt
Bên cạnh những điểm chung nêu trên, giữa ba chức danh Thẩm phán,
Kiểm sát viên và Luật sư có những khác biệt rõ rệt được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật.
Thứ nhất, về khái niệm. Theo Khoản 1 Điều 65 Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 2014, Điều 74 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 và Điều 2
Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ sung 2012, ta phân biệt được một cách cơ bản
rằng: Thẩm phán là người chuyên xét xử, Kiểm sát viên là người chuyên thực
hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và Luật sư là người thực hiện
dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
Thứ hai, khác biệt về tiêu chuẩn để hoạt động với một trong ba chức danh
trên. Cụ thể, chức danh Thẩm phán yêu cầu ứng viên đã được đào tạo nghiệp vụ
xét xử và có thời gian làm cơng tác thực tiễn pháp luật, theo Điều 67 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân 2014. Chức danh Kiểm sát viên yêu cầu ứng viên
8


đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát và có thời gian làm cơng tác thực tiễn
theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 Điều 75. Và để
trở thành Luật sư, theo quy định của Điều 10 Luật Luật sư 2006, sửa đổi bổ
sung 2012 ứng viên cần phải được đào tạo nghề luật sư và đã qua thời gian
tập sự hành nghề Luật sư.
Thứ ba, khác biệt về nhiệm vụ trong hoạt động tư pháp. Theo Điều 11
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân số 02/2002/PLUBTVQH11, sửa đổi bổ sung 2011, Thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử những
vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tịa án theo sự
phân cơng của Chánh án Tịa án nơi mình cơng tác hoặc Tịa án nơi mình

được biệt phái đến làm nhiệm vụ có thời hạn. Trong khi đó, nhiệm vụ chính
của Kiểm sát viên là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp,
đồng thời chấp hành quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, theo
Điều 83 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Theo Điều 4 Luật Luật sư
2006, sửa đổi bổ sung 2012, nhiệm vụ chính của Luật sư là tham gia tố tụng,
tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng và các dịch vụ pháp
lý khác, từ đó góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ tư, về nhiệm kỳ hoạt động. Trong khi nhiệm kỳ đầu của Thẩm
phán và Kiểm sát viên đều là 05 năm, sau đó, khi được bổ nhiệm lại hoặc
được bổ nhiệm vào ngạch khác đối với thẩm phán hoặc được nâng ngạch đối
với Kiểm sát viên, nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm, theo Điều 74 Luật tổ chức
Toà án 2014 và Điều 82 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Thì đối
với Luật sư, khơng có quy định nhiệm kỳ được đặt ra, và cũng khơng có giới
hạn độ tuổi cho chức danh này. Tuy nhiên trong trường hợp Luật sư làm việc
theo hợp đồng lao động cho một công ty/tổ chức luật nào đó thì họ sẽ phải
tn thủ quy định về thời điểm nghỉ hưu được quy định tại Điều 169 Bộ luật
Lao động 2019, sửa đổi, bổ sung 2020.

9


Thứ năm, về quyền hạn. Theo điều 65 và các khoản từ 1 đến 7 điều 2
Luật Tổ chức Tòa án 2014, Thẩm phán có quyền xem xét, kết luận về tính
hợp pháp của chứng cứ, tài liệu, của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều
tra viên, Kiểm sát viên và Luật sư; ra các quyết định liên quan đến vụ án; xử lí
vi phạm hành chính; xem xét, ra quyết định các quyết định liên quan đến hình
phạt; phát hiện và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi,
bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản pháp luật trái với Hiến pháp, luật,... Kiểm sát
viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố

tụng hình sự theo quy định. Còn đối với Luật sư, quyền hạn trước hết mà họ
có là được pháp luật bảo đảm quyền hành nghề luật sư theo quy định của Luật
Luật sư và quy định của pháp luật có liên quan, bên cạnh đó là có thể đại diện
cho khách hàng theo quy định của pháp luật.
Thứ sáu, về sứ mệnh. Thẩm phán có sứ mệnh thực thi và bảo vệ cơng
lý cho các đương sự liên quan trên cơ sở khách quan, công bằng và đúng quy
định của pháp luật bằng tất cả sự công tâm cần thiết. Kiểm sát viên có sứ
mệnh bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Cịn Luật sư có sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền
cơng dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan,
bảo vệ sự độc lập của tư pháp, góp phần bảo vệ công lý, công bằng, phát triển
kinh tế – xã hội và xây dựng đất nước. Tuy cùng đề hướng về mục đích bảo
vệ cơng lý, bảo vệ pháp luật, song kiểm sát viên là thiên về bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, còn luật sư thiên về bảo vệ lợi ích của thân chủ. Thẩm phán, với tư
cách là người cầm cân nảy mực là chủ thể cần sự công tâm và khách quan lớn
nhất trong ba chức nghiệp này.
Thứ bảy, về các chức danh thì TAND và VKSND đều gồm 4 ngạch. 4
ngạch thẩm phán bao gồm: thẩm phán TANDTC, thẩm phán cao cấp, trung cấp
và sơ cấp. Tương tự như vậy, 4 ngạch kiểm sát viên bao gồm: kiểm sát viên
10


VKSND, kiểm sát viên cao cấp, trung cấp và sơ cấp. Duy chỉ có luật sư là
khác biệt, có thể bao gồm luật sư, cộng sự, thư ký luật sư và trợ lí luật sư.
Cuối cùng là sự khác biệt về thu nhập giữa Thẩm phán, Luật sư và Kiểm
sát viên. Mức lương của thẩm phán TANDTC tương đương với kiểm sát viên
ở VKSND, rơi vào khoảng 9,2 - 13 triệu đồng/tháng. Mức lương của thẩm phán
TAND cấp tỉnh tương đương với kiểm sát viên ở VKSND, khoảng 6,5 - 10 triệu

đồng/tháng. Đối với thẩm phán TAND cấp huyện và kiểm sát viên cấp huyện,
thu nhập 1 tháng giao dịch dao động từ 3,5 - 7,5 triệu. Còn đối với Luật sư, kỹ
năng và kinh nghiệm sẽ là yếu tố quyết định để xác nhận mức thu nhập tương
xứng. Ví dụ, mức lương trung bình của Luật sư tại các văn phịng luật sư, hoặc
các cơng ty tư nhân sẽ rơi vào khoảng 4 - 6 triệu đồng/tháng cho các sinh viên

mới ra trường, chưa có nhiều kinh nghiệm; khi đã có trên 3 năm kinh nghiệm
thì mức lương sẽ dao động ở mức trên 10 triệu/tháng, và khi đã có trên 5 năm
kinh nghiệm, mức lương của luật sư sẽ dao động ở mức trên 15 triệu
đồng/tháng.
II. QUY TẮC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA BA CHỨC DANH
KHI LÀM VIỆC VỚI NHAU TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1. Một số khái niệm
Hoạt động tư pháp là những hoạt động được thực hiện nhằm bảo vệ công
bằng, lẽ phải, đảm bảo ổn định trật tự xã hội, bảo vệ pháp luật, giữ gìn an ninh
trật tự xã hội. Hoạt động tư pháp gồm hoạt động xét xử của tòa án và những hoạt
động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác liên quan trực tiếp tới hoạt
động xét xử của tòa án như điều tra, truy tố, thi hành án, hỗ trợ tư pháp…
Quy tắc đạo đức và ứng xử trong hoạt động tư pháp là “những nguyên tắc
đạo đức và chuẩn mực hành vi cụ thể do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền luật
định trong hoạt động tư pháp ban hành nhằm bảo đảm tính liêm chính, trách
nhiệm, đạo đức của cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động trong hoạt động

11


tư pháp và bổ trợ tư pháp, bao gồm các biện pháp bảo đảm thi hành các
nguyên tắc và chuẩn mực”1
2. Những quy tắc đạo đức và ứng xử riêng của ba chức danh
2.1. Thẩm phán

Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán được quy định trong Quy
tắc ứng xử ngành Tòa án nhân dân năm 2008 (kèm theo Quyết định số
1253/2008/QĐ - TANDTC), bộ quy tắc đã cụ thể hố các quy tắc ứng xử của cán
bộ, cơng chức trong hệ thống Tịa án nhân dân trong đó có Thẩm phán trong các
vấn đề như giải quyết, xét xử vụ án, giải quyết khiếu nại, tố cáo, ứng xử trong cơ
quan đơn vị, tại nơi cư trú… Bộ Quy tắc đạo đức ứng xử Thẩm phán năm 2018
(kèm theo quyết định số 87/QĐ - HĐTC) cũng đã đặt ra các chuẩn mực đạo đức
của thẩm phán: độc lập, liêm chính, vơ tư, khách quan, cơng bằng, bình đẳng,
đúng mực, tận tụy… Bộ quy tắc cũng hướng dẫn về quy tắc ứng xử trong các
hoạt động cụ thể của Thẩm phán như khi thực hiện nhiệm vụ, ứng xử tại cơ
quan, tại nơi công cộng, với thông tấn báo chí… với tinh thần thượng tơn pháp
luật; ln tn theo lẽ cơng bằng; có trách nhiệm với xã hội và dám đấu tranh
không khoan nhượng với tội phạm và vi phạm pháp luật.

2.2. Kiểm sát viên
Đối với Kiểm sát viên, quy tắc ứng xử Kiểm sát viên năm 2017 khi
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tịa, phiên họp
của tồ án theo Quyết định số 46/QĐ-VKSTC quy định chuẩn mực ứng xử
của Kiểm sát viên trong q trình thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của toà án. Quy tắc ứng xử ngành Kiểm
sát nhân dân 2020 theo Quyết định số 08/QĐ-VKSTC quy định quy tắc ứng
xử chung và trong các hoạt động cụ thể của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động trong hệ thống kiểm sát nhân dân như: quy tắc trong thi hành
nhiệm vụ, nguyên tắc tại cơ quan, tại nơi công cộng…
1Trần Văn Độ, Nguyễn Hưng Quang, Báo cáo Định hướng hoàn thiện các bộ quy tắc đạo đức và ứng
xử trong hoạt động tư pháp đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp tại Việt Nam, 12/2020, tr.06.

12



2.3. Luật sư
Quy tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư được quy định trong Bộ quy tắc
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2019 của Hội đồng luật sư
toàn quốc. Với quy tắc chung là sứ mệnh bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức, cơ quan, bảo vệ
công lý, công bằng… Luật sư phải độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách
quan; giữ gìn danh dự, uy tín và phát huy truyền thống của luật sư; luôn sẵn sàng
và tích cực tham gia vào những hoạt động cộng đồng. Bộ quy tắc quy định quy
tắc về hành vi của Luật sư đối với khách hàng, đồng nghiệp, tổ chức hành nghề,
tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư. Quy tắc về quan hệ của Luật sư với cơ quan
nhà nước, người tiến hành tố tụng, các tổ chức khác. Ngồi ra cịn quy định quy
tắc về hành vi của Luật sư với truyền thông.

3. Những quy tắc đạo đức và ứng xử chung của ba chức danh khi làm
việc với nhau trong hoạt động tư pháp
Mỗi chức danh nghề Luật đều đặt ra và tuân thủ những quy tắc đạo đức và
ứng xử riêng dựa trên đặc thù của nghề nghiệp. Đặc biệt là Thẩm phán, Kiểm sát
viên, Luật sư là những chức danh phổ biến, có mối quan hệ mật thiết trong hoạt
động tư pháp, tác động trực tiếp làm thay đổi, hạn chế và có thể tước đoạt đi
quyền con người cơ bản, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Do đó, bên
cạnh những quy tắc đạo đức riêng của từng chức danh thì việc tuân thủ quy tắc
đạo đức chung khi làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp, điển hình là khi
tiến hành tố tụng, tranh tụng tại các phiên tòa là vơ cùng cần thiết, từ đó giúp cho
hoạt động tư pháp được thực hiện với hiệu quả cao nhất.

Căn cứ vào các văn bản trên kết hợp với sự tìm hiểu, nghiên cứu và
thảo luận, có thể rút ra một số quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà chức danh
Thẩm phán, Kiểm sát và Luật sư phải tuân thủ khi làm việc chung trong hoạt
động tư pháp như sau:


13


Thứ nhất, ứng xử trên sự bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau vì mục tiêu
chung là bảo vệ cơng lý, dựa trên Quy tắc 26.1 và 26.2 của Luật sư, khoản 6
Điều 4 và khoản 2, 3 Điều 5 Quy tắc về Kiểm sát viên, cùng điều 6, điều 7 Quy
tắc về Thẩm phán. Trong hoạt động nghề nghiệp, giữa ba chức danh khơng thể
tránh khỏi có những lúc ý kiến bất đồng, đối lập nhau…Đó là điều tất yếu trong
việc tìm ra chân lý, tuy nhiên cũng chỉ là sự bất đồng về quan điểm pháp lý, chứ
không nên và không thể là sự bất đồng, mâu thuẫn đối kháng giữa những cá nhân
với cá nhân. Bên cạnh đó, ba chức danh nên có sự góp ý, phê bình khách quan
đúng nơi đúng lúc trên tinh thần cùng nhau tiến bộ; khơng xúc phạm hay hạ thấp
uy tín của nhau; khơng có hành vi gây áp lực hay đe doạ, dùng thủ đoạn xấu;
khơng có hành vi mưu cầu lợi ích cá nhân bất chính. Thái độ tơn trọng lẫn nhau
giữa những đồng nghiệp giúp cho mỗi người ý thức trách nhiệm hơn trước công
việc và nâng cao lịng tự trọng. Sự tơn trọng lẫn nhau giữa những người hoạt
động pháp luật làm cho tính tơn nghiêm ở phiên tòa càng được đề cao, làm tấm
gương cho việc tuyên truyền pháp luật.
Thứ hai, trong quan hệ với các cơ quan, người tiến hành tố tụng phải tôn
trọng và có thái độ hợp tác. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 quy định Thẩm phán, Kiểm sát viên là người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thuộc cơ quan tiến hành tố tụng là toà án và viện kiểm sát.
Trong khi đó luật sư được quyền tham gia vào quá trình tố tụng trong các vụ án
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình trước các cơ quan tố
tụng có thẩm quyền. Theo quy tắc 26, 27, 281 quy định luật sư phải nghiêm
chỉnh chấp hành nội quy và quy định liên quan trong quan hệ với các cơ quan
tiến hành tố tụng. Các quan điểm, chứng cứ pháp lý và căn cứ pháp luật của luật
sư không phải lúc nào cũng được Hội đồng xét xử chấp nhận, Luật sư có thể trao
đổi ý kiến về nghiệp vụ với người tiến hành tố tụng song phải có thái độ ứng xử
chuẩn mực và có văn hố, hợp tác và tơn trọng người tiến hành tố tụng (trong đó

có Thẩm phán và Kiểm sát viên). Luật sư không được phát biểu
1Quyết định 201/QĐ-HĐLSTQ của Hội đồng luật sư toàn quốc

14


trên các phương tiện thông tin đại chúng hay nơi công cộng những điều biết rõ là
sai sự thật về vụ việc mà mình đảm nhận hoặc khơng đảm nhận nhằm gây ảnh
hưởng xấu đến hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và người tố tụng.

Thứ ba, Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên không lạm dụng chức
vụ, quyền hạn, công việc để tác động đến việc giải quyết, xét xử vụ án, nhằm
vụ lợi. Điểm a khoản 2 điều 2 Quy tắc ứng xử ngành Toà án nhân dân năm
2008 quy định Thẩm phán không được “Tư vấn cho bi cc an, bi cc áo, đương sư
choặc người tham gia tốtung c khác làm cho viêc c giải quyết, xét xử vu ác n
hoặc những viêc c khác không đúng quy đinh c của pháp luật”. Quy tắc 29.3
trong Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam năm 2019
quy định
Luật sư “kiên quyết từ chối những hành vi móc nối, trung gian trái pháp luật,
trái đạo đức và lương tâm nghề nghiệp”. Đối với Kiểm sát viên, theo điểm a
khoản 2.1 điều 5 Quy tắc ứng xử ngành Kiểm sát nhân dân 2020 quy định
Kiểm sát viên không được “Lợi dụng ảnh hưởng của mình can thiệp, tác động
trái pháp luật đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án, vụ việc”.
Thứ tư, cùng thực hiện sứ mệnh công lý vì vậy họ cần có chung lý
tưởng, và những giá trị nhằm hướng tới lợi ích tốt nhất cho đương sự và xã
hội. Đây là nguyên tắc quan trọng bởi dù hoạt động trong vị trí nào trong mơi
trường tư pháp thì mục đích trên hết của các hoạt động pháp lý là bảo vệ công
lý (bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân), đảm bảo tối đa quyền lợi và lợi ích
hợp pháp của chủ thể. Những giá trị trên được thể hiện thông qua một số biểu

hiện mà cả ba chức danh ngành Luật có thể và cần phải thực hiện như giải
thích, hướng dẫn về thủ tục phiên tịa, trợ giúp pháp lý, xác định đúng người
đúng tội, tránh oan sai,… được đề cập đến trong nhiệm vụ, quyền hạn của các
chức danh trong các bộ luật tố tụng.
Thứ năm, ý thức được sứ mệnh của mình, biết giữ gìn phẩm giá và danh
dự nghề nghiệp. Muốn trở thành người bảo vệ pháp luật, đòi hỏi Luật sư, Thẩm
phán, Kiểm sát viên phải tuân thủ theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Do vậy,
15


những người thực hiện cả ba chức danh nghề nghiệp trên phải tích cực rèn
luyện, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, tu dưỡng đạo đức vô tư, trong sáng,
không vụ lợi, vì mục tiêu bảo đảm tính thượng tơn của Pháp luật.
Thứ sáu, trong mối quan hệ giữa các vai trò Luật sư, Thẩm phán, Kiểm
sát viên phải giữ được sự trung trung thực, khách quan với sự thực. Trong quy
tắc này, “sự thực” được quy phạm bao gồm một số yếu tố đặc thù như tính
chất của vụ việc, địa vị chủ thể tham gia tố tụng, và đặc biệt hơn cả là quyết
định tuyên án.
Đối với Luật sư, bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho thân chủ, cũng cần phải trung thực với thực tế vụ việc. Luật sư không
được sử dụng các tài liệu chứng cứ gian dối, ngụy tạo, không được xúi giục,
bày vẽ cho thân chủ khai báo gian dối hoặc lập ra các tài liệu, chứng cứ giả
tạo ảnh hưởng đến quá trình tiến hành tố tụng.
Đối với Kiểm sát viên, khi thực thi nhiệm vụ, người cán bộ kiểm sát phải
làm sao giữ cho mình sự nhìn nhận, đánh giá một cách công tâm, trung thực, tôn
trọng sự thật khách quan. Tuyệt đối khơng vì định kiến cá nhân hay những tác
động tiêu cực mà mà có cái nhìn phiến diện trong xử lý cơng việc, xa rời sự thật,
thậm chí suy diễn, bóp méo sự thật vì sự thiên vị của mình. u cầu về tính
khách quan khơng chỉ địi hỏi người cán bộ Kiểm sát khơng có sự thiên vị, mà
cịn phải hết sức thận trọng và khiêm tốn, bởi nếu chủ quan, thiếu sự cẩn trọng, tỉ

mỉ cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những nhận định, đánh giá
phiến diện, không đúng, gây ra sự nhầm lẫn, sai sót trong cơng việc.

Hoạt động xét xử là hoạt động “với con người” và “vì con người” do đó
địi hỏi Thẩm phán phải hành xử một cách đúng mực, đúng pháp luật, nhân ái,
tôn trọng con người. Phán quyết của Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước,
vừa tạo ra chuẩn mực pháp lý, vừa tạo ra chuẩn mực đạo đức cho xã hội. Vì
vậy, Thẩm phán phải xem xét, đánh giá sự việc một cách cẩn trọng, đặt trong
từng hoàn cảnh cụ thể trên nền tảng đạo đức xã hội để ra bản án thấu tình, đạt
lý, nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn.
16


Thứ bảy, tính độc lập và chế độ trách nhiệm cá nhân cao của các chức
danh tư pháp.
Nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã nâng cao trách nhiệm
của các thẩm phán, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án,
không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay
những kết luận của Viện Kiểm sát đưa ra. Để đảm bảo tính độc lập, Thẩm
phán phải là người có hiểu biết pháp luật và ý thức pháp luật cao hơn những
người khác và luôn luôn cập nhật được những thành tựu mới của hoạt động
lập pháp, của khoa học và thực tiễn pháp lý. Thẩm phán có nghiệp vụ cao tức
là phải nắm vững quy định của pháp luật, có tư duy và khả năng vận dụng
pháp luật để giải quyết các vấn đề pháp lý đặt ra.
Luật sư độc lập trong hoạt động hành nghề khơng có nghĩa là tự tách
hoạt động của mình ra khn khổ của các hoạt động tố tụng khác. Vì vậy để
bảo đảm được sự độc lập của mình, người luật sư phải tuân thủ các quy tắc
trong quan hệ với cơ quan tố tụng; ví dụ khơng được cung cấp thơng tin, tài
liệu, chứng cứ mà biết rõ không xác thực và đi xa hơn nữa khơng được móc

nối, lơi kéo cán bộ làm việc trái quy định của pháp luật…
Tính độc lập của Kiểm sát viên chỉ là sự độc lập tương đối. Kiểm sát viên
là người trực tiếp tham gia giải quyết vụ án nên là người nắm rõ các tình tiết và
những yêu cầu sát thực nhất trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, trong quá
trình giải quyết vụ án, Kiểm sát viên phải thường xuyên báo cáo tình hình, tiến
độ giải quyết vụ án với lãnh đạo Viện và tham mưu cho Viện trưởng, Phó Viện
trưởng ban hành các lệnh, quyết định thuộc thẩm quyền của họ. Kiểm sát viên
chỉ sử dụng thẩm quyền của mình để thực hiện ý chí, quan điểm giải quyết vụ án
của Viện trưởng, Phó Viện trưởng thơng qua các lệnh, quyết định.

17


KẾT LUẬN
Như vậy, vì đều cũng thực hiện hoạt động tư pháp nên ba chức danh nghề
nghiệp Luật sư, Thẩm phán và Kiểm sát viên có những điểm chung nhất định.
Song họ cũng có những điểm khác nhau như chức vụ, quyền hạn hay chun
mơn. Dù cho có những đặc thù riêng biệt nhưng tựu chung lại đều phải tuân thủ
những quy tắc đạo đức nghề nghiệp đã được quy định cho ba chức danh này khi
làm việc với nhau trong hoạt động tư pháp. Việc xác lập mối quan hệ đúng đắn
tích cực giữa ba chức danh nghề nghiệp này góp phần cải thiện bộ máy tư pháp
giúp thúc đẩy hoạt động pháp lý đi lên, tạo ra không khí làm việc thuận lợi, hiệu
quả, góp phần thúc đẩy đời sống pháp lý càng phát triển, nâng cao.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Sách, giáo trình
1. Học viện Tư pháp (2011), Đạo đức nghề luật, NXB Tư pháp, Hà Nội

2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2020, 2021 (nối bản).
* Văn bản pháp luật
1. Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
2. Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014
3. Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014
4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
5. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
6. Bộ luật Lao động 2019 (sửa đổi, bổ sung 2020)
7. Pháp lệnh số 14/2011/UBTVQH12 về Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
8. Quyết định số 1253/2008/QĐ-TANDTC về quy tắc ứng xử của cán bộ,
công chức ngành tòa án nhân dân.
9. Quyết định số 87/QĐ-HĐTC về ban hành bộ quy tắc đạo đức và ứng xử
của thẩm phán
10. Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ về việc ban hành bộ quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam
11. Quyết định số 08/QĐ-VKSTC về việc ban hành quy tắc ứng xử của cán
bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành kiểm sát nhân dân
12. Quyết định số 46/QĐ-VKSTC ban hành quy tắc ứng xử của kiểm sát
viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên
toàn, phiên họp của tòa án

19


* Báo cáo, tạp chí
1. Trần Văn Độ, Nguyễn Hưng Quang, Báo cáo Định hướng hoàn thiện
các bộ quy tắc đạo đức và ứng xử trong hoạt động tư pháp đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp tại Việt Nam, 12/2020, tr.06.

2. Phan Trung Hồi, Ngơ Thị Ngọc Vân, “Chức năng xã hội và nguyên
tắc hành nghề luật sư ở Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật, số 1/2021, tr.3741.

3. Hồng Văn Linh, “Một số suy nghĩ về đạo đức nghề nghiệp của thẩm
phán trong cải cách tư pháp hiện nay”, Tạp chí Nghề luật, số 3/2007,
tr17-21.
4. Đặng Thanh Nga, “Các phẩm chất nhân cách cơ bản của thẩm phán”,
Tạp chí Luật học, số 5/2002, tr41-46.
5. Nguyễn Văn Tuân, “Đạo đức nghề nghiệp của luật sư và việc giảng dạy
chuyên đề đạo đức nghề nghiệp luật sư”, Tạp chí Nghề luật, số 5/2011,
tr.36-40.



×