Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận phân tích khủng hoảng nợ công trên thế giới và bài học kinh nghiệp rút ra cho quản lý nợ công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.11 KB, 30 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NỢ CƠNG.................3
1.1 Khái niệm............................................................................................3
1.2. Phân loại nợ cơng...............................................................................5
1.3. Đặc điểm của nợ công …………………………………………………
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công..................................................6
1.5. Tác động của nợ công
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CƠNG......................................................11
2.1. Thực trạng nợ cơng ở một số nước trên thế giới..........................................11
2.1.1. Khủng hoảng nợ công 11
2.1.2. Nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả.....................................14
2.2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam..................................................................15
2.2.1. Tình hình sử dụng nợ cơng..............................................................17
2.2.2. Tình hình trả nợ cơng.......................................................................18
2.2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ công ở Việt Nam.........................18
2.2.3.2. Cơ cấu nợ.................................................................................18
2.2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công....................................20
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG XỬ LÝ NỢ CÔNG
..............................................................................................................................21
KẾT LUẬN.........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................26
0


1


MỞ ĐẦU

Mọi quốc gia muốn phát triển cần phải sử dụng nguồn nội lực (nguồn thu


trong nước) và nguồn ngoại lực (nguồn ngồi nước). Nguồn tài chính trong nước
thì bao gồm nguồn từ NSNN, nguồn vốn tín dụng từ ngân hang thương mại, nguồn
vốn tín dụng ưu đãi, nguồn vốn huy động từ trong dân và nguồn vốn thông qua thị
trường chứng khốn. Nguồn ngồi lực là nguồn vốn huy động từ bên ngoài của các
nước, các tổ chức và các cá nhân (các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, các tổ chức
phi chính phủ, các cá nhân…) thể hiện ở các nguồn vốn như ODA, FDI, FII và vốn
vay thương mại. Vì vậy, một quốc muốn phát triển nhanh cần phải có nguồn lực
khá lớn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, vì nếu chỉ trơng
chở vào nguồn thu từ NSNN thì khơng đủ để trang tại cho các chi tiêu. Nên để phát
triển nhanh nền kinh tế các nước phải chấp nhận đi vay, có một số nước thì tập
trung vay trong nước hay là vay trong dân như: Nhật Bản chẳng hạn, có nhiều nước
thì đi vay các tổ chức và cá nhân nước ngồi.
Tuy nhiên, trong thời gian qua tình hình vay nợ của các nước trên thế giới
cũng cho chúng ta thấy khơng ít những bài học kinh nghiệm nếu khơng có cách
quản lý nợ cơng cho hợp lý và hiệu quả chẳng hạn: cuộc khủng hồng tài chính tại
Mỹ năm 2008, cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu năm 2009…Từ đầu năm 2010
đến nay, thế giới liên tục tiếp nhận vơ vàn thơng tin về tình hình nợ công của các
nước châu Âu, những biện pháp đặc biệt được đưa ra, những gói cứu trợ khẩn cấp
từ nhiều tổ chức kinh tế khác nhau như IMF, ECB,…để giảm thiểu nguy cơ vỡ nợ
của các Chính phủ. Thêm vào đó, song hành với tình trạng bất lực trước khủng
hoảng của nhiều khu vực kinh tế hiện nay, khủng hoảng nợ cơng châu Âu cịn biểu
hiện nguy cơ lan truyền nhanh và khả năng biến tướng thành khủng hoảng nợ cơng
tồn cầu.
2


Vấn đề nêu trên không chỉ tác động xấu đến nền kinh tế của các nước trong
vịng xốy nợ cơng, mà hơn thế nữa, còn đe dọa nghiêm trọng tới sự phát triển của
kinh tế thế giới nói chung và trở thành mối quan tâm lo ngại to lớn đối với nhiều
quốc gia, trong đó có Việt Nam.Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu về khủng hoảng nợ

cơng và rút ra bài học kinh nghiệm trong quản lý nợ công ở Việt Nam là việc làm
hết sức cần thiết và cấp bách đối với nước ta trong thời điểm hiện tại.
Để làm rõ vấn đề này, bài tiểu luận của em sẽ đi sâu phân tích cơ sở, thực
trạng, nguyên nhân, tác động của khủng hoảng nợ cơng, phân tích và đánh giá sơ
bộ diễn biến tiếp theo, từ đó đưa ra một số giải pháp và công cụ khắc phục hợp lý,
hiệu quả nhằm giải quyết vấn đề này. Bài làm cũng tập trung liên hệ vấn đề khủng
hoảng nợ công và thực trạng nợ công tại Việt Nam, nêu bật lên cơ cấu, nguyên
nhân cùng những đặc trưng cá biệt của nợ công Việt Nam, tiến tới đề xuất một số
hướng đi khả thi nhằm góp phần quản lý có hiệu quả nợ cơng trong nước.
Với nguồn tư liệu hạn chế và do tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu,
bài làm chắc chắn có nhiều thiếu sót cũng như cịn nhiều vấn đề cần bổ sung, làm
rõ. kính mong nhận được sự thơng cảm cũng như những ý kiến hỗ trợ, phản hồi tích
cực từ cơ và các bạn để bài thảo luận được hoàn thiện hơn.

3


CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NỢ CÔNG
1.1 Khái niệm
Hiện nay, có thể thấy, trên thế giới xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau
về nợ công, tùy thuộc vào mục đích và phạm vi sử dụng của mỗi tổ chức, mỗi quốc
gia.
 Theo quan điểm của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công được hiểu là nợ của
khu vực tài chính cơng và nợ của khu vực phi tài chính cơng. Trong đó:
- Khu vực tài chính công gồm: Các tổ chức tiền tệ (Ngân hàng trung ương,
các tổ chức tín dụng Nhà nước) và các tổ chức phi tiền tệ (các tổ chức tín dụng
khơng cho vay mà chỉ có chức năng hỗ trợ phát triển)
- Khu vực phi tài chính cơng gồm: Chính phủ, tỉnh thành phố, chính quyền
địa phương, các doanh nghiệp phi tài chính Nhà nước.

 Theo quan điểm của Ngân hàng thế giới (WB), nợ cơng là tồn bộ những
khoản nợ của Chính phủ và những khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Trong
đó:
- Nợ của Chính phủ: bao gồm nợ trong nước, nợ nước ngồi của Chính phủ
và các đại lý của Chính phủ; các tỉnh, thành phố hoặc các tổ chức chính trị trực
thuộc Chính phủ và các đại lý của các tổ chức này, các doanh nghiệp Nhà nước.
- Nợ của Chính phủ bảo lãnh: gồm những khoản nợ trong nước và nợ nước
ngoài của khu vực tư nhân do Chính phủ đứng ra bảo lãnh.
 Theo quan điểm của Luật quản lý nợ công Việt Nam: Nợ công bao gồm:
nợ chính phủ; nợ được Chính phủ bảo lãnh; nợ chính quyền địa phương.

4


Như vậy, xét theo khái niệm này, cần lưu ý là khơng tồn tại sự đồng nhất giữa:
“Nợ chính phủ” và “nợ cơng”. Nợ chính phủ trong trường hợp này chỉ là một trong
ba yếu tố cấu thành nên nợ công.
Đối với ba cách định nghĩa trên, tuy mỗi cách mang tính đặc thù riêng và
thích hợp để sử dụng trong những hoàn cảnh cụ thể khác nhau song chúng đều có
chung một số đặc điểm như: là khoản tiền nợ liên quan đến chính phủ và hoạt động
của chính phủ, mục đích là để tài trợ bù đắp cho thâm hụt ngân sách... Do đó, để
đơn giản hóa cách thức tiếp vận vấn đề và đảm bảo tính logic khi phân tích, nghiên
cứu khủng hoảng nợ cơng ở các phần tiếp theo, có thể hiểu khái quát về nợ cơng
thơng qua khái niệm sau:
Nợ cơng, cịn gọi là Nợ chính phủ hay Nợ quốc gia, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay
nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách.
Sử dụng cách định nghĩa này, ta cần quan tâm tới một số lưu ý sau đây:
- Khái niệm đưa ra đã đồng nhất Nợ chính phủ với Nợ công và Nợ quốc gia.
- Định nghĩa này được áp dụng tại phần lớn các quốc gia trên thế giới, những

nước đi theo hướng kinh tế thị trường thực chất, không tồn tại thành phần doanh
nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo kiểm soát trực tiếp của Nhà nước
- Thâm hụt Ngân sách Nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách Nhà nước,
là tình trạng khi tổng chi tiêu của Ngân sách Nhà nước vượt quá các khoản thu
trong cân đối (thu "khơng mang tính hồn trả") của Ngân sách Nhà nước.
Như vậy, một cách chung nhất, có thể hiểu nợ cơng là hậu quả của vấn đề chi
tiêu công bất hợp lý. Bởi lẽ mỗi quốc gia đều phải cân đối mức thu chi nên khi thu
không đủ chi, Nhà nước phải đi vay dẫn đến hình thành nợ cơng. Cũng theo cách
tiếp cận này, nợ cơng có thể được tính bằng thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời
điểm nào đó.
5


Trên lý thuyết, mỗi vấn đề kinh tế nên có một khái niệm chung thống nhất để
đảm bảo tính chặt chẽ trong phân tích, Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng có nhiều luồng
tư tưởng và quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế về cùng một hiện tượng, sự
việc. Trong trường hợp này, mỗi khu vực, quốc gia có một góc độ đánh giá khác
nhau về tình hình nợ công. Căn cứ vào cơ cấu nợ công của mỗi quốc gia, ta sẽ nhận
dạng: quốc gia này sử dụng định nghĩa nào đối với vấn đề nợ công của mình.
1.2. Phân loại nợ cơng
Dựa vào các tiêu thức phân loại khác nhau, nợ cơng có thể được chia thành
nhiều bộ phận riêng biệt, có mối quan hệ tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
Sau đây là ba trong số những các phân loại chủ yếu được sử dụng đối với các
khoản nợ công của mỗi quốc gia, phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của quốc gia đó.
 Phân loại dựa vào thời hạn nợ
- Nợ ngắn hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm trở xuống.
- Nợ trung hạn: các khoản nợ có thời hạn từ 1 năm đến 10 năm.
- Nợ dài hạn: các khoản nợ có thời hạn từ trên 10 năm.
 Phân loại theo nguồn vay nợ
- Nợ trong nước: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư trong nước

- Nợ nước ngoài: gồm các khoản vay từ nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thực tế, khi tiến hành thống kê và tính tốn giá trị nợ cơng ở một số
nước, trong đó có Việt Nam, người ta thường chỉ quan tâm đến khoản nợ nước
ngoài mà mặc nhiên bỏ qua các khoản nợ trong nước. Đây là một hạn chế cần sửa
đổi; bởi lẽ, thiếu sót này nhiều khi đưa đến kết quả khơng chính xác cho giá trị nợ
cơng của một quốc gia, gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận thức kịp
thời và đúng đắn tình trạng nợ của đất nước mình để hoạch định các chính sách ứng
phó kịp thời và hợp lý.
6




Phân loại theo chủ thể nợ
- Nợ của Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước,

nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ
hoặc các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành
theo quy định của pháp luật; không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
- Nợ của chính quyền địa phương: là các khoản nợ do ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
- Nợ được chính phủ bảo lãnh (áp dụng đối với khái niệm Nợ cơng bao gồm
khoản nợ chính phủ bảo lãnh): là các khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức kinh tế
trong và ngồi nước mà chính phủ đứng ra bảo lãnh.
1.3. Đặc điểm của nợ công
Về cơ bản nợ cơng có các đặc điểm như sau:
- Nợ cơng là khoản nợ rang buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước, được thể
hiện dưới hai góc độ trả nợ trực tiêps và trả nợ gián tiếp. Trả nợ trực tiếp
được hiểu là cơ quan Nhà nươcs có thẩm quyền sẽ là người vay do đó cơ

quan Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm về trả nợ vay. Trả nợ gián tiếp là trường
hợp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đứng ra bảo lãnh cho một chủ thể
trong nước vay nợ, trong trường hợp bên vay không trả được nợ thì trách
nhiệm trả nợ se thuộc về cơ quan bao lãnh.
- Nợ cơng được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia cảu cơ quna
Nhà nước có thẩm quyền nhằm đảm bảo hai mục đích: Đảm bảo khả năng trả
nợ của đơn vị sử dụng vốn vay (đảm bảo cán cân thanh tốn vĩ mơ) và an
ninh tài chính quốc gia; để đặt được mục tiêu của q trình sử dụng vốn. Bên
cạnh đó, việc quản lý nợ cơng một cách chặt chẽ cịn có ý nghĩa quan trọng
về mặt chính trị-xã hội.
7


- Mục đích lớn nhất trong việc huy động và sử dụng nợ công là phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước.
1.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ công
Một yêu cầu tối quan trong đối với các Chính phủ là đảm bảo tỷ lệ nợ công
so với GDP là ổn định, qua đó tăng hiệu quả quản lý nợ, quản lý thâm hụt ngân
sách và làm tốt các công tác dự báo, lập kế hoạch Ngân sách Nhà nước, góp phần
ổn định nền kinh tế vĩ mơ. Để làm được điều đó, ta cần phải nắm rõ các nhận tố ảnh
hưởng đến nợ công, nhận biết các tác động, ngăn chặn từ đầu, phòng tránh và giải
quyết kịp thời các tác động có khả năng gây bất ổn tới tỉ lệ này.
Thứ nhất, nợ công phụ thuộc chặt chẽ vào cân bằng ngân sách cơ bản. Từ
bản chất nợ cơng đã phân tích ở trên, có thể nhận thấy mức thâm hụt ngân sách
phản ảnh giá trị tuyệt đối của nợ cơng chính phủ. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi
khoảng cách thâm hụt nhỏ, những khoản vay bù đắp giảm đi, làm cho nợ công
được hạn chế.
Thứ hai, lãi suất thực tế có tác động đến các khoản nợ vay của chính phủ,
quyết định xem các khỏan nợ này sẽ đắt hơn (khi lãi suất tăng lên) hay giảm đi (khi
lãi suất giảm đi). Mặt khác, việc lãi suất tăng sẽ làm cho các khoản vay của chính

phủ khó khăn hơn, khơng đảm bảo được cho vay nợ đúng hạn.
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng thực tế ảnh hưởng đến nợ công theo hai cơ chế.
Một là, nền kinh tế phát triển hơn thì chính phủ dễ dàng vay tiền hơn, dẫn đến khả
năng nợ công tăng lên. Hai là, tăng trưởng nhanh thường đi kèm với lạm phát, dẫn
đến việc cấp bù lạm phát cho các khoản nợ đã đến hạn thanh toán.
Thứ tư, lãi suất ngoại tệ có liên quan đến các khoản vay nước ngồi của
chính phủ. Cơ chế tác động của nhân tố này tương tự như lãi suất thực tế, chỉ khác
nhau đề đối tượng hưởng lãi.

8


Thứ năm, tỷ giá cũng có tác động tới việc vay nợ nước ngoài. Sự biến động
của tỉ giá ảnh hưởng đến chi phí của khoản nợ cơng: có thể tăng lên (khi tỉ giá tăng)
hoặc giảm đi (khi tỉ giá giảm).
1.6. Tác động của nợ công tới nền kinh tế quốc dân
1.6.1.Tác động tích cực
- Là cơng cụ tài trợ vốn, đáp ứng nhu cầu đầu tư cho các dự án, cơng
trình trọng điểm quốc gia. Nhiều cơng trình chỉ có thể tiến hành khởi
cơng xây dựng khi có được vốn vay vì bản than các nền kinh tế khơng
có đủ mọi nguồn lực tài chính cho việc đầu tư cho tất cả các cơng trình
dự án. Nhiều doanh nghiệp phát triển được nhờ đến 90% vốn vay.
Nhìn chung các doanh nghiệp luôn phải sử dụng khoảng 50-70% vốn
vay.
- Là công cụ để bù đắp thâm hụt NSNN (do việc cắt giảm thuế) góp
phần kích thích tiêu dùng, tăng snar lượng, tăng việc làm và tăng tổng
sản phẩm quốc dân trong ngắn hạn. Phần lớn NSNN của các nền kinh
tế ln trong tình trạng thâm hụt vì nhu cầu đầu tư cho phát triển kinh
tế rất lớn và nhiều cơng trình dự án nếu khơng dùng vốn NSNN đầu tư
thì khơng doanh nghiệp nào có khả năng đầu tư.

- Nếu sử dụng hiệu quả công nợ sẽ giúp chi nền kinh tế có khả năng
tăng trưởng nhanh và cao hơn nhờ đầu tư phát triển.
- Vốn vay còn giúp nền kinh tế có cơ hội áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ vào phát triển sản xuất kinh doanh vào các hoạt động kinh tế-xã
hội.
- Vốn vay cịn góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho
người dân, xóa đói giảm nghèo.
1.6.2. Tác động tiêu cực
9


Ngồi tác động tích cực cảu nợ cơng thì nếu quản lý nợ cơng khơng tốt và
khơng hợp lý thì cũng sẽ dẫn đến hậu quả xấu cho nền kinh tế, thậm chí có thể có
ảnh hưởng tới hệ thống chính trị của quốc gia đi vay:
- Nợ cơng làm suy giảm tiết kiệm tu nhân, dẫn tới tình trạng suy thối đầu tư
tư nhân.
- Nợ cơng tăng làm giảm tiết kiệm quốc gia: Nợ công quá cao gây ra khủng
hoảng nợ và gây suy thoái nền kinh tế, hậu quả là tăng trưởng thấp.
- Nợ công tăng tạo áp lực gây ra lạm phát: Nợ công tăng làm méo mó các hoạt
động kinh tế, gây tổn thất phúc lợi xã hội.
- Khủng hoảng nợ công làm tăng thất nghiệp: Làm cho người dân đói khổ,
chênh lệch giàu nghèo tăng và bất ổn định xã hội.
- Khủng hoảng nợ công cịn có thể gây ra sụp đổ Chính phủ, các thể chế chính
trị
- Khó khăn trong việc huy động vốn, giảm khả năng vay nợ nước ngoài hay
hạn mức vay thấp.
- Phải chấp nhận thắt lưng buộc bụng, phá giá nội tệ hay tự do hóa thương mại
để acir thiện nền kinh tế.

10



CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ CƠNG

2.1. Thực trạng nợ cơng ở một số nước trên thế giới
2.1.1. Khủng hoảng nợ cơng
Trong lịch sử phát triển tài chính, thâm hụt ngân sách nhà nước đã trở thành
một hiện tượng khá phổ biến trong các nước phát triển và các nước kinh tế chậm
phát triển. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, nợ công ở các nền
kinh tế phát triển đã tăng lên đáng kể.
Từ đó tới nay, thế giới nhiều lần chứng kiến các cuộc khủng hoảng nợ công
riêng lẻ như khủng hoảng nợ công Tunisia (1991), Argentina (1995); Brazil
(2002);… Tùy thuộc vào chế độ quản lý nợ công và chu kỳ kinh tế, hoàn cảnh
lịch sử riêng của từng quốc gia, nợ công xuất phát từ các nguyên nhân khác
nhau, dẫn đến việc được giải quyết bằng các biện pháp vụ thể riêng biệt. Các
quốc gia mắc phải khủng hoảng nợ này chủ yếu là các nước đang phát triển, nền
kinh tế còn nhiều lỗ hổng và thiếu sót, nhu cầu vốn cho đầu tư lớn,…
Năm 2009, khủng hoảng nợ cơng vẫn tiếp diễn, song lần này, nó lan rộng với
tốc độ chóng mặt trên một phạm vi rộng lớn với đối tượng là các nước đang
phát triển thuộc phương Tây giàu có. Khủng hoảng nợ cơng Hy Lạp 2009 mau
chóng được xác nhận dưới phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều là: nợ công châu Âu
2010 và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến nợ cơng tồn cầu nếu khơng có những biện
pháp kịp thời và hợp lý.
+

Năm 2010, cuộc khủng hoảng nợ công chủ yếu xảy ra ở Hy Lạp khi chi

phí cho các khoản nợ Chính phủ liên tục tăng lên; cụ thể lợi suất trái phiếu
Chính phủ kỳ hạn 2 năm của Hy Lạp liên tục tăng cao từ 3.47% vào tháng
01/2010, lên 9.73% tháng 07/2010, và nhảy vọt lên 26.65%/năm ở tháng

07/2011.
11


Hơn một năm sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỉ euro, Hy Lạp vẫn
tiếp tục ở trong nguy cơ vỡ nợ. Gần đây Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF ước tính nợ
quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến 172% GDP (so với mức khoảng 120%
lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt ngân sách của nước
này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới.
Và cho dù Hy Lạp có nhận được tiền tài trợ mới, được giãn nợ thì cũng
khơng có nghĩa là Hy Lạp có thể tránh được chuyện bị các tổ chức xếp hạng
tín nhiệm dán nhãn “vỡ nợ”. Điều đó đồng nghĩa với việc mối lo khủng
hoảng nợ sẽ tiếp tục có thể tác động xấu đến thị trường cổ phiếu, nhất là các
cổ phiếu ngân hàng, và trái phiếu.
Thật khó dự đốn được điều gì sẽ xảy ra nếu Hy Lạp bị xếp hạng vỡ nợ
và do đó, nhiều nhà đầu tư lại quay sang mua vàng và bán đi các trái phiếu
chính phủ có vấn đề khác như Ý. Điều này khơng những chỉ đẩy giá vàng
tăng mà cịn đang tạo ra một hiệu ứng lây lan có thể khiến Ý trở thành nạn
nhân mới của cuộc khủng hoảng nợ.
+ Sau Hy Lạp, Ý cũng trở thành mối quan tâm của thị trường tài chính cũng
như báo chí. Trước hết, lãi suất trái phiếu chính phủ của Ý đột nhiên được thị
trường đẩy lên quá nhanh. Cụ thể là đợt đấu giá 1,25 tỉ euro trái phiếu thời
hạn năm năm gần đây của Ý đã có lợi suất trung bình là 4,93%, cao hơn
nhiều so với mức 3,9% của tháng trước. Điều này cho thấy thị trường đang
đánh giá rủi ro vỡ nợ của Ý đã tăng lên đáng kể.
Thực tế khơng thể phủ nhận là Ý có mức nợ cơng cao, tăng trưởng chậm
và có một chính phủ bị xem là thiếu hiệu quả và không minh bạch. Trường
hợp nếu Ý thực sự thiếu tiền trả các khoản nợ ngắn hạn sẽ gây nhiều lo ngại
lớn Ý là nền kinh tế lớn thứ ba trong khu vực sử dụng đồng euro và quy mô
khoản nợ của nước này cũng lớn tương ứng trong khi tăng trưởng của nước

này vốn dĩ là chậm chạp cịn dân số Ý thì thuộc nhóm dân số già.
+ Cuộc khủng hoảng nợ công của Ireland không phải là điều bất ngờ như
trường hợp Hy Lạp. Nhưng những dấu hiệu báo trước đã xuất hiện khá
sớm.Trước tiên, đó là một thị trường bất động sản bong bong.Trong một thập
12


niên tính đến năm 2007, giá nhà tại Ireland tăng gần gấp 4 lần, thậm chí cịn
đắt hơn cả những thành phố vẫn được mệnh danh là đắt đỏ trên thế giới như
Los Angeles.
Khi bong bóng bất động sản vỡ tung đã kéo theo sự sụp đổ của hệ thống
ngân hàng. Và khi chính phủ ra tay cứu trợ ngân hàng – nợ công trở thành
ghánh nặng cho ngân khố quốc gia.
Ireland đã trở thành quốc gia thứ hai sau Hy Lạp buộc phải thực hiện các
biện pháp kinh tế khắc khổ để đổi lấy khoản cứu trợ khẩn cấp từ IMF và EU,
nhằm đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng nợ cơng tồi tệ như giảm ít
nhất 10% mưc lương tối thiểu, tăng thuế giá trị gia tăng, cắt giảm 25.000
biên chế trong các cơ quan nhà nước…
+ Bồ Đào Nha thừa nhận thâm hụt ngân sách 2010 của quốc gia này ở mức
8,6 % GDP, cao hơn nhiều so với mục tiêu 7,3% đặt ra trước đó. Khoản nợ
công của Bồ Đào Nha năm 2010 lên tới 84% GDP.Nghiêm trọng hơn, 70%
các khoản nợ của Bồ Đào Nha là nợ nước ngồi.Điều này địng nghĩa với
việc quốc gia này khó có thể xoay xở hay trì hỗn khi nợ đáo hạn.
+ Tây Ban nha có thể là nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng nợ công
với bong bong nhà đất khổng lồ và các vấn đề lien quan đến các khoản nợ
tăng lên với mức đọ chóng mặt. Hợp đồng bảo hiểm khả năng vỡ nợ (CDS)
kỳ hạn 10 năm của trái phiếu chính phủ Tây Ban Nha đã lên tới mức 312
điểm phần trăm, cao chưa từng có từ trước đến nay. Như vậy cứ 10 triệu euro
nợ dài hạn của Tây Ban Nha sẽ mất 312.000 euro phí bảo lãnh.
2.1.2.


Nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả

* Nguyên nhân:
- Do những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng. Trong khủng
hoảng, các khoản nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ cơng.
- Một điều bất cập là, một quốc gia có nợ nước ngoài cao, trong khi cư dân
của họ cũng nắm giữ một lượng tài sản lớn của nước ngoài. Trong trường
13


hợp này, Chính phủ phải đối mặt với trường hợp, quốc gia có thể vỡ nợ trong
khi người dân của mình vẫn có thể hưởng lợi nhuận từ tài sản nước
ngồi.Ngay cả khi điều này xảy ra, Chính phủ có thể giải quyết bằng cách,
kêu gọi người dân bán tài sản nước ngồi và mua trái phiếu Chính phủ trong
nước thay thế.
- Tiết kiệm trong nước thấp, vay nợ nước ngồi cho chi tiêu cơng
- Chi tiêu kích thích kinh tế sau khủng hoảng năm 2008 làm trầm trọng thêm
vấn đề.
- trong suốt thời gian dài Chính phủ Hy Lạp đã phải ngụy tạo các báo cáo về
tình hình kinh tế trong nước, sắp xếp lại các giao dịch nhằm che dấu mức vay
thực tế, nhằm phù hợp với các quy định gia nhập, giám sát của EU và có thể
chi tiêu cao hơn.

* Hậu quả:
- Các thị trường ngày càng mất tin tưởng nhau. các ngân hàng không tin
tưởng nhau, thành ra ngày càng ít cho mượn tiền nhau. Vừa lo ngại về khủng
hoảng nợ kéo dài, các thị trường chứng khốn châu Âu cịn sợ là kinh tế Mỹ
sẽ lại lâm vào suy thoái, nhất là sau khi ngày thứ sáu vừa qua, các số liệu về
việc làm ở Mỹ khơng lấy gì là khả quan.

-

Khủng hoảng nợ công tại châu Âu ngày càng trầm trọng, Một đợt tháo

chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu các ngân hàng khu
vực châu Âu là hồn tồn có thể và gây hiệu ứng sụp đổ hàng loạt ở các nền
kinh tế khác.
14


- Tình hình trên các thị trường tài chính đã trở nên căng thẳng, khủng hoảng
nợ công sẽ gây ra thiệt hại lớn cho các ngân hàng châu Âu và từ đó sẽ lan ra
tồn cầu.
- vấn đề nợ cơng nghiêm trọng tại phương Tây giống như một hành tinh có
quỹ đạo bay hướng thẳng về Trái Đất. Hành tinh đó quá to để có thể né tránh,
cũng như quá khó để xác định chính xác mức độ thiệt hại sau cú va chạm,
trong đó khơng thể nào khơng kể đến Châu Á. Tình trạng trên đã tác động
mạnh đến nền kinh tế châu Á, giá chứng khoán tại các thị trường đều giảm.
2.2. Thực trạng nợ công ở Việt Nam
-

Nợ công của Việt Nam tăng liên tục từ 36% GDP trong năm 2001

lên 56.7% GDP vào năm 2010. Quy định nợ cơng ở mức an tồn là 50%
nhưng liên tiếp 2 năm 2009 và 2010 tỷ lện này đã vượt ngưỡng an toàn đề ra
đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng mà việt nam cần phải giải quyết trong
thời giàn tới.
-

Với tỷ lệ nợ công này và năm 2009 là 52,6% , thì tỷ lệ nợ cơng việt


nam đã đứng thứ 44 trên thế giới và đứng thứ 2 đông nam á sau phillipine.
Cao hơn rất nhiều so với các nước mới nổi và đang phát triển trong khu vức

15


- Một xu thế rất đáng lo ngại là cũng trong giai đoạn 2001-2010, thâm hụt
ngân sách (cả trong và ngồi dự tốn) tăng từ 2,8% GDP lên tới 6,2% GDP .
chúng ta có thể thấy rằng, trong khi nợ cơng tăng liên tục thì ngân sách lại ngày
càng trở nên thâm hụt. Điều này vi phạm một nguyên tắc cơ bản của quản lý nợ
cơng bền vững, đó là nợ công ngày hôm nay phải được tài trợ bằng thặng dư
ngân sách ngày mai. Hơn thế, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam đã trở thành kinh
niên và mức thâm hụt đã vượt qua ngưỡng “báo động đỏ” 5% theo thơng lệ
quốc tế, khiến tính bền vững của nợ công càng bị giảm sút. Theo báo cáo của
Bộ Tài Chính, ước tính đến ngày 31.12.2010 nợ cơng là 56,7% GDP; trong khi
Ngân hàng Thế giới đưa ra mức quy định ngưỡng an tồn nợ cơng là 50% GDP.
- Tuy nhiên, các khoản vay nước ngoài phần lớn đều là vay dài hạn, với lãi suất
ưu đãi, hiện tại nợ công không gây sức ép cho ngân sách nhà nước về nghĩa vụ
trả nợ đến hạn.

16


Việt Nam là một nước đang phát triển nên rất cần nguồn vốn để đầu tư phát triển
thì nợ cơng vẫn là nguồn tài chính quan trọng cho việc chi đầu tư phát triển và
bù đắp thâm hụt ngân sách.
- Nợ cơng vẫn đang trong giới hạn an tồn, phần lớn các khoản vay nước ngồi
của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi. Hình thức huy động vốn
ngày càng đa dạng và linh hoạt.Thể chế chính sách dần được hồn thiện, cơng

tác quản lý nợ ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận thông lệ quốc tế.
- Tuy vậy, việc gia tăng nợ công vẫn tạo ra những nguy cơ rủi ro cho nền
kinh tế vĩ mơ. Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng,
thâm hụt ngân sách thường được tài trợ bằng cách vay trong nước và vay
nước ngoài. Việc quản lý và chất lượng sử dụng nguồn vốn vay của Việt
Nam hiện nay rất yếu kém. ), Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc
nào đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm khơng đủ bù đắp thâm hụt ngân
sách, trả các khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền
vững của nợ công .
Các chỉ tiêu nợ trong tầm kiểm sốt nhưng một số rủi ro thị trường cần được
tính tốn đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng chưa được phản ánh trong
phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ. Cơ chế cảnh báo sớm còn hạn
chế và quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng lực cán bộ
cần được cải thiện.
- Cạnh đó cịn những tồn tại cơ bản là thị trường trái phiếu trong nước phát
triển còn hạn chế. Cơng tác huy động vốn ODA cịn thụ động, nhiều khoản
vay ODA còn gắn với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào.
2.2.1. Tình hình sử dụng nợ cơng

17


Thứ nhất, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn diễn ra khá thường
xuyên. Theo báo cáo của Kho bạc Nhà nước, hết tháng 10/2009, mới giải
ngân được 26.586 trong số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng
47,5% kế hoạch năm. Tình trạng dự án, cơng trình thi công dở dang, chuyển
tiếp, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc phục. Điều này cùng với sự
thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư cơng và trong hoạt động của các doanh
nghiệp Nhà nước cũng như các tập đồn lớn, dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng
phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án đầu

tư. Việc phân bổ vốn vay còn dàn trải; chủ trương huy động và sử dụng vốn
cần gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ. Hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao,
chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.
Thứ hai, hiệu quả đầu tư thấp, thể hiện qua chỉ số ICOR. Năm 2009, trong
khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại
chỉ đạt 5,2%. Chỉ số ICOR năm 2009 đã tăng tới mức quá cao, trên 8 so với 6,6
của năm 2008. Điều này có nghĩa là, nếu năm 2001 Việt Nam cần 5,24 đồng vốn
để tạo ra được 1 đồng sản lượng, thì giờ đây cần phải đầu tư thêm gần 3 đồng
vốn nữa.
2.2.2. Tình hình trả nợ cơng
Từ năm 2006 đến nay, tình hình trả nợ cơng của Việt Nam khơng ổn định và
hầu như khơng có sự gia tăng đáng kể về giá trị, trung bình hàng năm Việt Nam
dành ra trên 3,5% GDP để chi trả nợ và viện trợ. Tỷ lệ trả nợ/tổng nợ công giảm
dần qua các năm, từ 9,09% năm 2006 xuống còn 6,53% năm 2010. Trong khi
đó, quy mơ của các khoản nợ cơng ngày càng tăng lên với tốc độ chóng mặt với
gần 20%/năm; mặt khác, tình hình sử dụng nợ cơng ở Việt Nam còn đang tồn tại
nhiều bất cập như chậm trễ trong giải ngân và sự kém hiệu quả trong sử dụng
vốn vay vào các dự án đầu tư. Vì đầu tư không thể tăng mãi nên đến một lúc nào
18


đó, tốc độ tăng trưởng sẽ phải giảm khơng đủ bù đắp thâm hụt ngân sách, trả các
khoản nợ vay tới hạn làm ảnh hưởng rất nhiều đến tính bền vững của nợ công.
Điều này tác động tiêu cực tới khả năng trả nợ của Việt Nam trong tương lai.
2.2.3. Đánh giá, phân tích tình hình nợ cơng ở Việt Nam
Sau khi nghiên cứu về thực trạng của nợ công Việt Nam, chúng ta thấy nổi cộm
lên các vấn đề như sau :
2.2.3.1. Số liệu thống kê.
Chúng ta có thể thấy rằng có 1 sự khác biệt lớn về số liệu nợ mà việt nam cung
cấp so với số liệu mà các tổ chức thế giới (như WB…) đã đưa ra, điều này xuất

phát từ 3 yếu tố chính sau:
-

Việc nhìn nhận về nợ cơng: Nước ta bóc tách nợ công thành 2 bộ phận gồm khu
vực Nhà nước (trung ương, địa phương), khu vực kinh tế cơng (có sự góp vốn,
góp mặt của Nhà nước)… đưa ra vấn đề này để thấy rằng có nhiều cơng ty quốc
doanh trở thành công ty trách nhiệm hữu hạn, nhưng khi công ty bị phá sản,
Nhà nước không thể phủi tay về trách nhiệm nợ của các cơng ty ấy.
Do đó, nợ công là một “đặc sản” của Việt Nam, không thể tìm thấy ở Thái
Lan, Philippin… và rất nhiều nước trên thế giới. Và số liệu nợ mà Bộ Tài chính
Việt Nam công bố hiện nay là nợ Nhà nước chứ không phải là nợ công.Nợ công
thực tế chắc sẽ lớn hơn nhiều. Thống kê tài chính Việt Nam hiện nay vẫn chỉ tập
trung vào nợ Nhà nước, nên cũng khó lịng cho thấy tồn cảnh vấn đề tài chính
cơng vì khu vực doanh nghiệp Nhà nước rất lớn và Nhà nước vẫn phải chịu
trách nhiệm nợ nần với khu vực này. Đây không phải là vấn đề của nhiều nước
châu Á khác, do đó việc so sánh giữa Việt Nam với Thái Lan hoặc Malaysia

chẳng hạn là không đúng trên thực tế về mặt nợ công
- Sự thiếu minh bạch, công khai trong vấn đề nợ công của nhà nước: Bài học lớn
mà chúng ta nhận được từ hi lạp đó là vấn đề niềm tin và sự minh bạch. Có thể
19


thấy tình trạng tồi tệ mà hy lạp gặp phải là hậu quả của việc thiếu minh bạch,
chính các hành vi dối trá trong thống kê của Hy Lạp đã làm giới đầu tư quốc tế
mất niềm tin, dân chúng trong nước bất hợp tác đã đẩy Hy Lạp rơi vào vịng
xốy bất ổn kinh tế. Mức thâm hụt ngân sách năm 2008 được Hy Lạp công bố
là 5%, nhưng đến nay phát hiện lên đến 14%. Bi kịch Hy Lạp là bài học nhỡn
tiền của chủ trương đặt tham vọng chính trị lên trên thực lực kinh tế.và ở việt
nam chúng ta vẫn thấy quá nhiều cái bí và mật bên trong số liệu ma nhà nước

công bố. và câu hỏi chúng ta đặt ra là vậy con số nợ thực tế của VN là bao
nhiêu, nếu nhà nước vẫn để câu hỏi này bỏ ngị thì vấn đề của việt nam cũng sẽ
-

là không nhỏ trong tương lai gần.
Những hạn chế trong phương pháp tính nợ: Trong nợ cơng cịn có 1 bộ phận là
phần quỹ hưu trí – đây là cách tính nợ cơng tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc, vấn
đề này hiện nay bị bỏ lơ khi tính nợ cơng ở Việt Nam. Cách tính nợ công của
Việt Nam chưa phản ánh chân thực một phần quan trọng: Đó là nợ phải trả
trong tương lai khi cơng chức về hưu. Phần này có thể rất lớn (ở Singapore
chiếm tới 50% GDP). Theo nguyên tắc tính nợ theo tiêu chuẩn quốc tế, thì mỗi
khi một cơng chức nhận lương, họ phải đóng vào quỹ về hưu, cịn một phần
khác, có thể bằng hoặc gấp đơi, Chính phủ phải đóng vào quỹ này. Nhiều nước,
khơng thiết lập ra quỹ này, mà đem chi hết, nên Nhà nước hàng năm lấy tiền
ngân sách ra chi trả mà quên đi quỹ kia, chứng tỏ theo cách tính này thì những
nước như việt nam đang tính thiếu phần nợ cơng trong nước.
Hiện nay, hầu hết các nước phát triển như Mỹ, Canada, Úc, Nhật và các nước
trong khối Liên hiệp châu Âu (EU) đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Ở
EU, việc tính này đã thành luật. Đó là lý do các nước này đều có tỷ lệ nợ trên
GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với các nước này là bắt đầu vượt
ngưỡng an toàn. Cịn đối với các nước đang phát triển, khi khơng tính nợ hưu
trí thì có lẽ là 50% (tất nhiên là tùy từng nước, tùy theo nước đó có chính sách
hưu trí cho cơng chức khơng và tỷ lệ nằm trong diện công chức lớn như thế
nào). Ở các nước phát triển, tỷ lệ nợ cơng có thể bằng hoặc gần bằng với tỷ lệ
20


nợ Nhà nước vì khu vực quốc doanh khơng đáng kể, do đó họ vẫn chỉ tập trung
vào nợ Nhà nước.
2.2.3.2. Cơ cấu nợ

Trong cơ cấu nợ công Việt Nam, nợ nước ngồi có vai trị quan trọng
và chiếm tỷ trọng cao nhất. Mặc dù nợ công khác với nợ nước ngồi, nhưng
hiện nay ở Việt Nam, thơng tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các
nhà kinh tế thường sử dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mơ và
mức độ nghiêm trọng của nợ công của quốc gia.
Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp
lực nợ cơng; tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngồi cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ
cấu nợ trong tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch
sử cho thấy, khi tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ
động khi ứng phó với các biến động kinh tế thế giới và khó kiểm sốt các
món nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế.
2.2.3.3. Hiệu quả sử dụng các khoản nợ công
Việt Nam sử dụng nợ cơng khơng mấy hiệu quả. Vì thực tế thì nguồn tiền có
được chúng ta đã và đang sử dụng dàn trải thiếu trọng tâm trọng điểm và
mang lại hiệu quả thấp có những trường hợp cịn khơng mang lại hiệu quả.
Đề thấy rõ hơn chúng ta tìm hiểu 1 chút về hệ số ICOR-(Incremental Capital
– Output Rate), đo lường về hiệu quả đầu tư. ICOR càng cao thì chứng tỏ
hiệu quả đầu tư càng thấp:
ICOR = (Kt-Kt-1) / (Yt-Yt-1)
Trong đó: (k: vốn đầu tư, y: sản lượng)
Chỉ số ICOR năm 2010 của VN là 6,9, nói đơn giản là phải bỏ ra 6,9 đồng
vốn đầu tư mới được 1 đồng tăng trưởng
21


Đối với một nước đang phát triển, chỉ số ICOR ở mức 3 là đầu tư có
hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với tiêu
chuẩn đưa ra thì VN đầu tư khơng hiệu quả và so sánh với các nước trong
khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đơi có nghĩa là hiệu suất đầu tư chỉ
bằng một nửa.

Vì thế vấn đề ở đây là nếu số tiền được đầu tư hiệu quả thì càng cần
phải khuyến khích vay nợ thêm để chính phủ có thể tạo ra nhiều tài sản và lợi
ích cho xã hội hơn, đồng thời số tiền thu được từ nguồn lợi đầu tư của Chính
phủ có thể trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn trong tương lai. Nhưng, một khi
đầu tư khơng hiệu quả thì cần phải cân nhắc kĩ về việc vay nợ.

22


CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHO NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM
3.1. Giải pháp và định hướng cho nợ công của Việt Nam
3.1.1. Tổ chức huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ cơng
đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
Nâng cao khả năng quản lý vốn vay. Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng và
hiệu quả sử dụng nợ cơng, trên cơ sở kiểm sốt thâm hụt ngân sách hợp lý và
có chiến lược cụ thể về huy động và sử dụng hiệu quả. Tiếp tục nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn vay. Tránh việc vay nợ quá nhiều, đầu tư công quá lớn
và quá dàn trải. Do vậy, đối với các dự án đầu tư dài hạn bằng vốn vay ODA
ở Việt Nam cần được giám sát chặt chẽ về điều kiện vay nợ, hiệu quả đầu tư,
khả năng trả nợ.
Duy trì giới hạn nợ ở mức an tồn: Tổ chức thực hiện thanh tốn trả nợ
nước ngồi, đảm bảo trả nợ đầy đủ, đúng hạn, khơng để phát sinh nợ quá hạn
làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế. Vận dụng linh hoạt các biện pháp
mua lại nợ, chuyển đổi nợ tay ba, giảm nợ đặc biệt trên cơ sở nghiên cứu
thận trọng các cơ chế quốc tế phù hợp có khả năng cho phép bằng cách thay
đổi cơ cấu nợ để đạt được danh mục nợ tối ưu.Có chính sách điều hành tốt
kinh tế vĩ mô để tăng thu ngân sách nhà nước, tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh
xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, tăng cường dự trữ ngoại tệ để cải thiện chỉ số
nợ nước ngoài và các cân đối lớn của nền kinh tế.

Thành lập Quỹ tích lũy trả nợ :Quỹ này được hình thành nhằm đảm
bảo khả năng thanh tốn nghĩa vụ nợ của các khoản vay nước ngồi của
Chính phủ về cho vay lại hoặc nghĩa vụ nợ dự phòng của ngân sách nhà
nước phát sinh từ các khoản bảo lãnh của Chính phủ. Cùng với quyết nghị
thành lập Quỹ này, Chính phủ giao cho Bộ Tài chính thực hiện quản lý Quỹ
23


tích lũy trả nợ với ngun tắc bảo tồn và phát triển nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi của Quỹ, sử dụng nguồn vốn của Quỹ đúng mục đích, bảo đảm tập trung
đầy đủ, kịp thời các nguồn thu của Quỹ nợ cơng.
3.1.2.Hồn thiện bộ máy tổ chức quản lý nợ, đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ
quan quản lý nợ nước ngồi.
Nghiên cứu đề xuất mơ hình đổi mới tổ chức quản lý nợ theo hướng
hiện đại và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục điều chỉnh và
sắp xếp lại một cách hợp lý cơ cấu tổ chức quản lý nợ trên cơ sở chức năng
nhiệm vụ được giao, đảm bảo sự phân công đúng người, đúng việc, tránh
chồng chéo, trùng lặp. Để đưa ra một mơ hình quản lý nợ cơng hợp lý cho
Việt Nam hiện nay chúng ta không chỉ dựa vào Luật quản lý nợ cơng; mà
cịn phải rút kinh nghiệm thực tiễn từ cách quản lý nợ công trên thế giới để
tránh đi vào vết xe đổ khủng hoảng nợ công của các nước.
Cung cấp đầy đủ trang thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử
dụng hệ thống thơng tin, hiện đại hóa quy trình thu thập, tổng hợp, phân tích
cơ cấu nợ để đáp ứng yêu cầu quản lý nợ tiên tiến. Thủ tướng đã chỉ định Bộ
tài chính với sự hổ trợ của Bộ kế hoạch và đầu tư, Ngân hàng Nhà nước xây
dựng những cơ chế phối hợp trong việc quản lý thông tin nợ quốc gia, tăng
cường đầu tư cung cấp đầy đủ những phương tiện, thiết bị nhằm phục vụ cho
đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thường xuyên cập nhật các phương
pháp thu thập, tổng hợp, phân tích cơ cấu nợ một cách tiên tiến mang tính

chính xác cao cũng như phù hợp với điều kiện đất nước để có thể đưa ra
những con số phản ánh đúng thực trạng của nợ nước ngồi cho các cấp lãnh
đạo có thể có những quyết định đúng đắn.
Đẩy mạnh cơng tác đào tạo, tăng cường phổ biến kiến thức về quản lý
nợ nước ngoài cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, các ban quản lý dự án
và đơn vị sử dụng vốn vay nước ngoài. Thủ tướng đã chỉ định Bộ tài chính
24


×