Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Địa vị pháp lý của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.7 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUOC GIA HA NỌI

KHOA LUÀT

NGUYEN ĐINH PHAN ANH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG
TỐ TỤNG
DÂN
Sự
VIỆT
NAM



Chuyên ngành'.
Luật
o
• dân sự• & Tố tụng
• “ dân sự•
Mã số'. 8380101.04

LUẬN VÁN THẠC sĩ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bích Thảo

Hà Nội, 2022


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kêt
quả nêu trong trong Luận văn chưa được công bổ trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận Văn đảm bảo

tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Do đó tơi viết lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội xem xét để tơi có thề bảo vệ Luận văn của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Học Viên

Nguyễn Đình Phan Anh

1


DANH MỤC CHŨ VIÉT TẤT
Bộ Luật Tô tụng Dân sự :BLTTDS
Bộ Luật dân sự

: BLDS

Tố tụng dân sự

: TTDS

Viện kiểm sát nhân dân : VKSND
Kiểm sát viên


: KSV

Xã hội chú nghĩa

: XHCN

11


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN............................................................................................. i

DANH MỤC CHŨ VIẾT TẮT...................................................................... ii

MỤC LỤC....................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
KIÊM SÁT VIÊN TRONG TỐ TUNG DÂN sư VIÊN NAM........................ 9

1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự............. 9

1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.................................................................. 11
1.2.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN và bảo đảm quyền con người trong

tố tụng dân sự.................................................................................................... 11
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiếm sát nhân dân trong hệ thống tố chức
quyền lực Nhà nước.......................................................................................... 15


1.2.3. Đặc thù cùa hoạt động kiểm sát............................................................. 21

1.2.4. Tính chất của hoạt động kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự................................................................................................................. 23

1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về địa vị pháp lý của kiểm

sát viên trong tố tụng dân sự Việt Nam........................................................... 24
1.4. Mối quan hệ tố tụng giữa Kiểm sát viên và các chủ thể khác trong tố tụng
dân sự.................................................................................................................27

1.4.1. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với Thẩm phán......................................... 28

1.4.2. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với Viện trưởng VKS cùng cấp................29
1.4.3. Quan hệ giữa Kiềm sát viên với những người tiến hành tố tụng khác
thuộc Tòa án...................................................................................................... 31

1.4.4. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng.......... 33

••4

ill


1.5. Địa vị pháp lý của Kiêm sát viên/Công tô viên trong pháp luật tô tụng
dân sự một số nước trên thế giới....................................................................... 34

KÉT LUẬN CHUÔNG 1.............................................................................. 39
CHUƠNG 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIẾM SÁT VIÊN TRONG TỐ


TỤNG DÂN SỤ THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT

NAM HIỆN HÀNH...................................................................................... 40
2.1. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thể hiện qua các nguyên tắc cơ bản của

Bộ luật tố tụng dân sự....................................................................................... 40
2.1.1. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.... 41
2.1.2. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành

tố tụng.................................................................................................................42
2.1.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự.......... 44

2.2. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thể hiện ở các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên............................................................................ 45
2.2.1. Kiếm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.................................. 45
2.2.2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự.................................... 46
2.2.3. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ

trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS; thu
thập tài liệu, chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của BLTTDS..... 47
2.2.4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về

việc giải quyết vụ việc theo quy định của BLTTDS....................................... 48
2.2.5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án............................................... 51
2.2.6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo

quy định cùa BLTTDS...................................................................................... 52
2.2.7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiếm sát có thẩm quyền kháng nghị bản án,

quyết định của Tịa án có vi phạm pháp luật.................................................... 54

2.2.8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu kiến

iv


nghị cơ quan, tơ chức có thâm qun xử lý nghiêm minh người tham gia tô

tụng vi phạm pháp luật...................................................................................... 59
2.2.9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc thấm quyền
của Viện kiểm sát theo quy định của BLTTDS............................................... 59

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................. 61

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THựC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIÈM SÁT VIÊN TRONG TÓ TỤNG DÂN

sự VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ..................................................................... 62
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự........................................................................................... 62

3.1.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị

pháp lý của Kiêm sát viên trong tô tụng dân sự............................................... 62
r

r

r

r


3.1.2. Những hạn chê, bât cập và nguyên nhân của những hạn chê, bât cập.. 73
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị

pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự................................................81

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3.............................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 84

V


MỞ ĐẦU

1. Tính câp thiêt của đê tài
Ớ Việt Nam hiện nay, Viện Kiểm sát nhân dân là một cơ quan đóng

vai trị rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Tiền thân của Viện Kiểm sát

nhân dân là Viện Công tố. Tên gọi, chức năng và hoạt động của Viện Cơng

tố được quy định chính thức trong Hiến pháp 1946 và đến Hiến pháp 1959
thì Viện Kiểm sát nhân dân ra đời, thay thế cho Viện Công tố. Tuy nhiên,

Hiến pháp 1992 đã thu hẹp phạm vi hoạt động của Viện Kiểm sát chỉ cịn
“thực hành quyền cơng tố và kiêm sát các hoạt động tư pháp’’, Hiến pháp

2013 hiện nay cũng tiếp tục giữ nguyên phạm vi hoạt động này của Viện
Kiểm sát. Có thể thấy, việc sử dụng danh từ “Viện Kiêm sát” hay “Kiêm sát


viên ” ở Việt Nam đang ở mức “lưng chừng”, tức là hoạt động kiểm sát vẫn
rộng hơn hoạt động công tổ vì cỏ thêm chức năng giám sát tư pháp, tuy

nhiên phạm vi ấy lại hẹp hơn so với nghĩa gốc ban đầu cùa từ “kiêm sát”.
Trải qua 60 năm tồn tại, thiết chế Viện Kiểm sát nhân dân đã trưởng

thành, phát triển và thực hiện được nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Trong tố

tụng dân sự, nếu như vị trí, vai trị của Thẩm phán và các bên đương sự được
xác định một cách rõ ràng thì vị trí, vai trị của Kiểm sát viên không phải lúc

nào cũng rõ ràng như vậy. Sở dĩ có tình trạng này là do quan niệm về quyền

lực Nhà nước, nguyên tắc tồ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước ở mỗi

quốc gia khác nhau, từ đó có những quy định khác nhau về vị trí, vai trò của
kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. Trong tố tụng hình sự, mặc dù quan niệm

về vị trí, vai trị của Kiểm sát viên cũng khơng hồn tồn đồng nhất nhưng
về cơ băn, các nước đều cho rằng cơ quan cơng tố giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, là bên nhân danh Nhà nước truy tố và buộc tội người phạm tội ra

1


trước tồ án. Cịn trong tơ tụng dân sự, phân lớn các qc gia đêu quan niệm

rằng vị trí vai trị của Viện cơng tố hạn chế hơn, do ảnh hưởng từ nguyên tắc
quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ dân sự.


Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 ra đời thay thế BLTTDS 2004

và có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 đã góp phần thúc đẩy và tiếp tục thực hiện
công cuộc cải cách tư pháp, tạo điều kiện để người dân tiếp cận cơng lý, trong
đó mấu chốt là đảm bảo các tranh chấp, yêu cầu về dân sự nói chung được thụ

lý nhanh chóng và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. So với bộ luật trước đó,
BLTTDS 2015 đã có những thay đổi căn bản, chức năng của Kiểm sát viên

trong tố tụng dân sự tiếp tục được khẳng định, điều đó được thể hiện cụ thể
như: phạm vi tham gia phiên toà được mở rộng, việc phát biểu ý kiến của Kiểm
sát viên tại phiên toà, phiên họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự cũng đồi
mới hơn: KSV không chỉ phát biểu về việc chấp hành pháp luật tố tụng của

Thẩm phán, Hội đồng xét xử như trước đây mà còn phát biểu ý kiến về việc

giải quyết vụ án,...Tuy được thay đổi và đẩy mạnh nhưng vị trí, vai trị của

kiểm sát viên trong các phiên toà xét xử dân sự vẫn chưa thực sự khẳng định

được vị thế của mình mà chỉ tập trung vào việc kiểm sát các bản án, quyết định
xử lý vụ việc dân sự của Toà án và đây được xác định là nhiệm vụ trọng tâm

cùa các công tác kiểm sát trong giai đoạn này.
Trải qua hơn 5 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho
thấy, các quy định về vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Mặc dù pháp luật vẫn quy định Kiểm sát

viên có đầy đủ các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhưng thiếu cơ

chế, phương thức, cơ sở pháp lý đế thực hiện quyền của mình. Sau hơn 5

năm thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chất lượng công tác kiểm

sát giải quyết các vụ việc dân sự của Kiềm sát viên vẫn còn nhiều hạn chế.

Việc phát hiện vi phạm để kiến nghị, kháng nghị cịn được ít, chất lượng

2


chưa đảm bảo, trong khi đó vi phạm trong việc giải quyết án dân sự vẫn

chiếm tỷ lệ cao, tình trạng khiếu kiện của người dân về việc giải quyết án
dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Án dân sự
ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa, huỷ án còn nhiều, dần đến quyền và

lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân không được đảm bảo.

Nguyên nhân nêu trên là do hệ thống pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự
hiện hành còn chưa đầy đủ, đồng bộ và hoàn thiện, chất lượng giải quyết án
dân sự của Tòa án còn hạn chế, nhưng một phần quan trọng cũng là do các

quy định của pháp luật về vị trí, vai trị cũng như chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn còn bất cập. Mặt khác,

trong điều kiện Đồ án “Chiến lược xây dụng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm

2045” đang được thảo luận và hồn thiện đe thơng qua, vị trí, vai trị của

Kiểm sát viên trong tổ tụng dân sự cần được tiếp tục nghiên cứu để có quy

định phù hợp với tình hình mới, bối cảnh mới.
về trách nhiệm, quyền hạn của Kiểm sát viên, xét cả trên phương diện

lý luận và thực tiễn vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được
yêu cầu và tạo điều kiện để Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn chức năng kiểm

sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Việc hạn chế sự tham gia
của Kiếm sát viên tại phiên toà dẫn đến các thấm quyền tố tụng liên quan

cũng bị loại bỏ hoặc hạn chế nên kiểm sát viên khơng có đù các quyền hạn

tố tụng cần thiết khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do
vậy, vấn đề chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trị và mơ hình hoạt
động của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn phải cần được làm rõ và

tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt

Nam, tạo cơ sở pháp lý cho Kiếm sát viên thực hiện tốt nhiệm vụ , đáp ứng
với yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp, góp phần vào việc hoàn thiện hệ

thống pháp luật chung.

3


Tác giả nhận thây, xuât phát từ những thực tê nêu trên và từ việc nhận

thức về vị trí, vai trò của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự cần có sự quan

tâm, đổi mới hơn nữa cả về phương diện lý luận và thực tiễn, để nâng cao

chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát của Kiểm sát viên trong hoạt động

tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.
Là một cán bộ đang trực tiếp làm công tác kiểm sát, tác giả nhận thấy
việc nghiên cửu đề tài "Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân

sự Việt Nam " là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời

qua q trình nghiên cứu, cá nhân tác giả có điều kiện nâng cao trình độ,

năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm cơng tác của bản thân.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Neu như trong khoa học luật tố tụng hình sự đã có một số cơng trình

nghiên cứu sâu về vai trò, địa vị pháp lý của Kiểm sát viên, thì trong khoa học
luật tố tụng dân sự có rất ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy đã có

một số cơng trình nghiên cứu về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân

trong tố tụng dân sự, nhưng cụ thể về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong

tố tụng dân sự thì có thế nói, đến nay ờ Việt Nam chưa có cơng trình nghiên
cứu chun sâu nào.

Tuy nhiên, cũng đã có những cơng trình liên quan đến đề tài luận văn
ở các mức độ khác nhau, nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí


chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút kinh nghiệm của
các ngành Kiếm sát, Tòa án... liên quan đến nội dung này như:

Luận văn thạc sỳ luật học “Địa vị pháp lý của Viện kiếm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự Việt Nam ” cúa tác giả Lê Thị Thanh Loan năm 2007,
Luận văn thạc sỹ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiêm sát nhân dân


e

e



• z



JL







trong tố tụng dãn sự Việt Nam’’ của tác giả Phùng Thanh Hà năm 2014,

Luận
văn thạc

sĩ luật
học
"Cơ sở lý/ luận
và thực
tiễn đôi mới tô chức của






a

4


Viện kiêm sát nhản dân đáp ứng yêu câu cải cách tư pháp ở Việt Nam ’’ của

tác giả Hoàng Thế Anh năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học “Sự tham gia tổ
tụng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả
Võ Thị Phuợng năm 2010; sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tu pháp năm

2008 "Đơi mới vị trí, vai trị của Viện kiêm sát trong tổ tụng dãn sự theo yêu

cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh Hằng, đề tài khoa học cấp

Bộ “Hoàn thiện chế định Viện kiểm sát nhân dãn trong Bộ luật tố tụng dãn
sự” của tiến sĩ Trần Văn Trung năm 2003; Luận án tiến sĩ “Quá trình hình

thành, phát triển và đổi mới Viện kiếm sát nhản dãn theo yêu cầu cải cách

tư pháp ở Việt Nam” của tác giả Trần Văn Nam năm 2010.

Ngồi ra cịn có một số bài viết được đăng tải trên các trang báo, tạp
chí hay cổng thơng tin điện tử như: tạp chí Kiểm sát số 09 năm 2004 ” Vị trí,

vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành", “Nhận
thức đủng thâm quyền và trách nhiệm của Viện kiêm sát nhân dân trong Bộ

luật tổ tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga; Bài viết trên cổng thông tin
điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Địa vị pháp lý của Viện kiêm sát

theo yêu cầu cái cách tư pháp” của tác giả TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi năm
2014; Bài viết trên cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi “Nảng cao vai trò của Kiêm sát viên trong tố tụng dân sự” tác

giả KSV. Hồ Thị Tiểu Quỳnh năm 2020; Bài viết "Những kiến nghị từ hoạt
động thực tiễn qua ỉ năm thực hiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004" của Tịa soạn tạp chí Kiểm sát (Tạp chí Kiểm sát số 18 tháng

9/2006); Bài viết "Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự"
của Tồ soạn tạp chí Kiểm sát (Tạp chí Kiểm sát số 13 tháng 3/2006); bài

viết "Vị trí, vai trò Viện kiểm sát trong tổ tụng dân sự theo yêu cầu cải cách
tư pháp" của Nguyễn Ngọc Khánh (Tạp chí Kiểm sát số 14-16, tháng 7, 8

năm 2008);...

5



Qua nghiên cứu những cơng trình, bài viêt nêu trên cho thây có nhiêu

quan điểm, lý luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu
và hồn thành đề tài. Tuy vậy, các cơng trình, bài viết trên chủ yếu đi sâu
vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về nguyên tắc tổ chức quyền lực

Nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cùa Viện kiểm sát

trong tố tụng dân sự dưới góc độ của Luật hiến pháp. Hoặc có cơng trình,
bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên

cứu đã lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận

và thực tiễn hiện nay, nhất là trong điều kiện áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
Mặt khác, các cơng trình, bài viết trên chưa nghiên cứu toàn diện và đầy
đủ về “Địa vị pháp lý của Kiêm sát viên trong to tụng dân sự Việt Nam

Do

vậy, tác giả chưa thấy có cơng trình, đề tài nào trùng lặp với đề tài này.

3. Mục
cứu.
• đích và nhiệm
• vụ• nghiên
CZ7
* Mục đích:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý


cúa Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự, tù’ đó đề xuất các giải pháp góp phần hồn
thiện hon các quy định của pháp luật cũng như nghiên cứu tình hình thực tiễn áp

dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự và trong

quá trình kiểm sát hoạt động tư pháp, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.

* Nhiệm vụ:
Đe đạt được mục đích nghiên cứu trên, cần thực hiện

- Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc quy định địa vị

pháp lý Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng các quy tắc đó.

- Đề ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp

luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự trước yêu cầu

cải cách tư pháp hiện nay.

6


4. Đôi tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về địa vị

pháp lý của Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự, các quy định của pháp luật
Việt Nam từ năm 1959 đến nay về địa vị pháp lý cùa Kiểm sát viên trong tố


tụng dân sự. Bên cạnh đó, Luận văn cũng có nghiên cứu, so sánh, tham khảo
kinh nghiệm pháp luật tố tụng dân sự của một số nước về địa vị pháp lý của

kiểm sát viên hay công tố viên trong tố tụng dân sự.
Trên cơ sở, mục đích, đối tượng nghiên cứu đã được xác định, phạm vi

nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu địa vị pháp lý của
Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay.

5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận
Đe đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình

nghiên cứu luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng

cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cún cụ thế là:

phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch
sử, phương pháp luật học so sánh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một cơng trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học,

là cơng trình nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự. Luận văn đã đưa ra được khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự, chỉ ra và phân tích các yếu tố quy định và chi phối
việc xác định địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.

Cụ thề trong luận văn đã luận giải và làm rõ được khái niệm về địa vị

pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự được quy định tại các văn

7


bản pháp luật Việt Nam hiện hành. Chỉ ra được những điêm tiên bộ so với

những quy định trước đây và những điểm còn bất cập, đồng thời luận văn
cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về thực trạng áp dụng

các quy định pháp luật về địa vị cùa Kiểm sát viên trong thực tiễn, chỉ ra
những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành từ đó đưa ra những kiến

nghị và giải pháp đế hồn thiện.

Ngồi ra kết quả nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, làm sâu sắc hơn cơ sớ của việc xây dựng và hoàn thiện các quy
định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan tới địa vị pháp


lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. Hơn nữa, luận văn cịn có thể là
tài liệu tham khảo cho những người làm công tác thực tiễn mà cụ thể là

Kiểm sát viên. Luận văn sẽ giúp cho Kiểm sát viên có nhận thức đủng dắn

về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình để từ đó thực hiện một
cách có hiệu quả.

7. Bố cục
luận
văn


Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lỷ luận về địa vị pháp ỉỷ của Kiêm sát viên
trong tổ tụng dãn sự Việt Nam

Chương 2: Địa vị pháp lỷ của Kiếm sát viên trong tố tụng dán sự theo

các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về địa vị pháp lỷ

của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị.

8


CHƯƠNG 1. NHŨNG VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
KIẺM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG

DÂN sụ• VIỆN
NAM



1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
Các quy định pháp luật về sự tham gia của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự đã có từ rất sớm trong lịch sử lập pháp nước ta, nhưng

chưa thực sự đi vào cuộc sống khi đất nước đang còn trong thời kỳ chiến
tranh, bởi lẽ nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ của Viện kiểm sát là giải quyết

các vụ án hình sự. Do đó các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự chặt chẽ và đầy đủ hơn rất nhiều so

với tố tụng dân sự. Trong thời kỳ đất đước đổi mới và phát triển mạnh mẽ như
ngày nay, các quan hệ dân sự ngày càng nhiều và đa dạng, địa vị pháp lý của

Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự từ đó cũng được quan tâm hơn và Viện

kiểm sát là một mắt xích quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện

nay. Đối với lĩnh vực tố tụng dân sự, VKS chỉ có chức năng kiếm sát việc
tuân theo pháp luật chứ không thực hiện quyền công tố. Chức năng này của

VKS nhằm bảo đảm pháp luật được thực hiện, chấp hành một cách nghiêm
chỉnh và thống nhất. Để thực hiện điều này, KSV là người đại diện cho VKS

thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động của những người tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng dân sự. Để làm rõ hơn vấn đề này chúng ta cần

hiểu được: Thế nào là địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự?

Khái niệm địa vị pháp lý của chủ thế pháp luật nói chung được sử dụng

phổ biến trong các tài liệu, sách báo pháp lý, ngoài ra khái niệm này cũng
được xem xét, tìm hiểu và được cơng bố ở các giáo trình luật Nhà nước pháp
luật, một số sách chuyên khảo,.... Theo quan điểm của tác giả, để nêu lên

được khái niệm địa vị pháp lý cùa Kiểm sát viên trong tổ tụng dân sự hay bất
kỳ một khái niệm về địa vị pháp lý của chủ thể nào chúng ta cần phải hiểu

9


được khái niệm vê địa vị nói chung. Vậy địa vị là gì? Theo Từ điên Tiêng

Việt do GS. Hồng Phê chủ biên, xuất bản, năm 2020 được hiểu: 1. Vị trí cá

nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có, về mặt
được coi trọng nhiều hay ít; 2. Vị trí trong quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị do

vai trị, tác dụng mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít [49, tr398]. Như
vậy các chuyên gia ngôn ngữ học nước ta quan niệm địa vị của một chủ thế

chính là vị trí của chú thể đó trong quan hệ xã hội mà vị trí này có được do
vai trị, tác dụng của chủ thể đó đối với xã hội. Ngồi ra khái niệm địa vị pháp
lý cũng được đề cập đến trong các giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật
của Trường Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các tác giả giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường Đại học

Luật Hà Nội xem xét địa vị pháp lý của một chủ thể pháp luật trước tiên và
chủ yếu thông qua các quyền và nghĩa vụ của chủ thể do pháp luật quy định.
Tác giả giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật Khoa Luật - Đại học Quốc

gia Hà Nội cũng đồng ý kiến với quan điểm này. Họ đều cho rằng nội dung
cơ bản cùa địa vị pháp lý của một chủ thể bao gồm tổng thể các quyền và

nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho chủ thể đó. Ví dụ: “Tổng thể những
quyền và nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật cấu thành nội

dung cơ bản của địa vị pháp lý của công dân trong xã hội”.

Từ những phân tích trên, khái niệm địa vị pháp lý được hiểu là vị trí
của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác

dựa trên cơ sở các quy định pháp luật nham phân biệt với những chủ thể pháp
luật khác nhau. Ngồi ra ta có thể xem xét được tầm quan trọng cũng như vai
trò của các chủ thế pháp luật trong các mối quan hệ mà pháp luật quy định.

Quan niệm như vậy sẽ tiếp cận địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật một cách

toàn diện, đầy đủ hơn, đồng thời phản ánh được tính năng động của chủ thể
trong thực tiễn.

10


Tóm lại, địa vị pháp lý của Kiêm sát viên trong tô tụng dân sự là "tông
hợp các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV do pháp luật quy định khi KSV tham


gia vào các hoạt động tố tụng dân sự, thê hiện vị trí của KSV trong mối quan
hệ với các chủ thê khác của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự”. Cụ thể hoạt

động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự
là nhằm đảm bảo cho các hành vi xử sự của các chủ thế tiến hành, tham gia tố
tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện
nghiêm chỉnh và thống nhất theo quy định của pháp luật; kịp thời phát hiện và

xử lý vi phạm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố

tụng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích cơng cộng, quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.

1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của

Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự đã ghi nhận vai trò của Viện kiếm sát trong

TTDS, quy định Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, Kiểm sát

viên là người tiến hành tố tụng dân sự (theo khoản 1, khoản 2 Điều 46

BLTTDS). Do vậy, sự tham gia của Kiểm sát viên, đại diện cho Viện kiểm sát
trong TTDS nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, sự cơng bằng,

bình đẳng và tn thủ pháp luật của các chủ thể là cần thiết. Việc quy định địa

vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự xuất phát từ những cơ sở
khoa học sau đây:
1.2.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN và bảo đảm quyền con người


trong tố tụng dân sự.
Khái niệm pháp chế XHCN có từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga.
V.l.Lê-nin là người đưa ra định nghĩa pháp chế và các nguyên tắc của nó đã

làm giàu thêm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật.

Khái niệm pháp chế được hiếu như sau: "Pháp chế XHCN là một chế độ đặc

11


biệt của đời sơng chính trị - xã hội, trong đó tât cả các cơ quan Nhà nước,

các tơ chức kinh tể, tô chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên Nhà

nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật
một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích của tập thể, của công dãn đều bị xử lý theo pháp
luật” [48, tr54].

Theo GS.TS. Nguyễn Minh Đoan: ‘‘Pháp chế là sự hiện diện của một

hệ thống pháp luật hoàn thiện và sự tôn trọng, thực hiện pháp luật hiện hành

một cách chính xác, thường xuyên và thống nhất bởi Nhà nước và xã hội,
nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, bảo đảm cho hoạt động của

toàn xã hội thống nhất, đồng bộ, vì một xã hội công bằng, văn minh ” [56,


tr476].
Một số quan điểm lại cho rằng khi nói tới “pháp chế”, người ta thường
gắn liền nó với một loại cơ quan đặc biệt, đó là Viện kiểm sát, với một loại
quyền lực đặc biệt khơng có trong lí thuyết phân chia quyền lực của các Nhà
nước tư sản, đó là quyền kiểm sát chung. Tại sao thứ quyền lực này lại xuất

hiện? Đó là do bối cảnh của nước Nga sau khi giành cách mạng, chính quyền

địa phương ln có xu hướng đi ngược, khơng tn theo chính quyền trung
ương, nói cách khác là tình trạng “địa phương chù nghĩa” lúc bấy giờ. Một

Nhà nước kiểu mới XHCN, đại diện cho một quan hệ sở hữu mới là sở hữu
cơng, nó cần một sự thống nhất tuyệt đối từ phía trung ưong cho tới địa
phương mới có thể đảm bảo cho điều đó, nên quyền lực kiểm sát chung ra đời

nhằm mục đích bảo đảm sự thống nhất, tuân thù các văn bản luật do trung

ương ban hành từ phía các địa phương cũng như mọi tổ chức, cá nhân trong
xã hội. Nói đến pháp chế, có thể hiểu nó là sự thống nhất trên cơ sở quy định
của pháp luật trên toàn xã hội, là sự ràng buộc mọi chủ thể đối với các văn

bản luật mà công quyền trung ương ban hành.

12


Do ý nghĩa, mục đích và tâm quan trọng của pháp chê XHCN, Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ rõ

phương huớng và biện pháp cần thiết để tăng cuờng pháp chế XHCN. Nghị


quyết Đại hội XIII của Đảng đã kế thừa những phưcmg hướng, biện pháp
trong những Nghị quyết trước đó và nhấn mạnh: “Hoàn thiện đồng bộ hệ
thống pháp luật, cơ chế, chỉnh sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội

chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dãn; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp,
tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”
Nhưng dù các quan điểm mới hay xưa cũ về pháp chế thì nội hàm cơ bản

của pháp chế vẫn là sự tuân thủ pháp luật. Nguyên tắc này đã được BLTTDS
năm 2015 ghi nhận tại Điều 3 và trở thành một trong nhũng nguyên tắc cơ bán
trong pháp luật TTDS: “Mọi hoạt động tố tụng dãn sự của cơ quan tiến hành tố

tụng, người tiến hành tổ tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tơ chức, cả

nhãn có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ luật này
Đảng và Nhà nước ta tiếp tục giương cao ngọn cờ báo vệ quyền con
người, coi việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người là một trong những sứ

mệnh hàng đầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nền dân chủ và
pháp chế xã hội chủ nghĩa đều có mục tiêu tất cả vì con người. Quyền con

người, quyền công dân không chỉ được ghi nhận về mặt lập hiến và lập pháp,
được thực thi về mặt hành pháp, mà còn được bảo vệ về mặt tư pháp. Hiến

pháp năm 2013 ghi nhận: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các

quyền con người, quyền cỏng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, vãn hóa, xã

hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ, bao đảm theo Hiến phảp và pháp luật.
Quyền con người, quyền cơng dãn chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật trong trường hợp cần thiết vì lỷ do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự
an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14). Việc

13


Hiến pháp ghi nhận các quyền con người là rất quan trọng bởi đây là cơ sở

pháp lý cao nhất đế con người, công dân được thụ hưởng các quyền của mình

cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp đó. Tuy nhiên, trong cơ chế thi
hành pháp luật hiện nay, nhiều quyền hiến định trong Hiến pháp có thể sẽ chỉ
là “quyền hình thức” nếu khơng được thể chế hóa trong các luật cụ thể. vấn

đề này đặt ra trách nhiệm đối với cơ quan Nhà nước, từ việc phố biến, tuyên

truyền các nội dung mới của Hiến pháp đến việc hoàn thiện hệ thống pháp

luật và thù tục hành chính, tổ chức bộ máy để đảm bảo thực thi. Vì vậy, pháp
luật TTDS với vai trị là công cụ hữu hiệu bảo vệ các quyền dân sự của công
dân, một trong những nội dung quan trọng cùa quyền cịn người cần phải
thích nghi sao cho phù hợp với Hiến pháp nhằm thực hiện được mục tiêu cuối

cùng là bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Từ những vấn đề trên ta có thể thấy quyền con người rất phong phú, đa

dạng và không kém phần phức tạp, nó được điều chỉnh bởi các nguyên tắc,
quy tắc và cách thức khác nhau. Hay nói cách khác, mồi cơ chế đảm bảo

quyền con người khác nhau lại có những biện pháp, nguyên tắc, quy tắc và

cách thức riêng, bởi chúng còn phụ thuộc vào các chủ thế khác nhau, góp
phần đàm bảo, thúc đẩy quyền con người ở mỗi phương diện khác nhau. Cụ

thể như kiểm sát hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là

hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, trong việc giải quyết vụ án hành

chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao
động,., và các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Kiểm sát

viên có thấm quyền tham gia phiên tồ, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự

và phát biểu ý kiến, thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Toà án có

vi phạm pháp luật theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và xác
minh thu thập tài liệu, chứng cứ theo BLTTDS năm 2015. Những chức năng,

14


nhiệm vụ trên thê hiện rõ vai trò của KSV trong việc bảo vệ quyên con người,
quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự.

Như vậy, việc pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV

trong tố tụng dân sự xuất phát từ yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự.


1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tổ chức
quyền lực Nhà nước

Hệ thống tổ chức quyền lực Nhà nước là một nội dung quan trọng của
chế độ chính trị mỗi quốc gia. Mỗi mơ hình Nhà nước có cách thức tổ chức
quyền lực khác nhau. Khoản 3, Điều 2 Hiến pháp Nước cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối họp, kiêm sốt giữa các cơ quan Nhà nước trong việc

thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Nguyên tắc hiến định
nêu trên đã trở thành nền tảng, cơ sở pháp lý quan trọng cho q trình tố

chức, thực thi và kiểm sốt quyền lực Nhà nước trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân ở nước ta hiện nay.

Theo Hiến pháp năm 2013, thì quyền lực Nhà nước thống nhất là ở
nhân dân. Quan điểm thống nhất quyền lực Nhà nước được thể hiện ở nguyên
tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Đồng thời Hiến pháp năm

2013 đã xác định rõ các chủ thế thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư

pháp: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành
pháp, TAND là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Vậy Viện kiếm sát nhân dân thực hiện chức năng của Nhà nước là thực

hiện chức năng lập pháp, hành pháp hay tư pháp? Trong tác phẩm Tinh thần


pháp luật của Montesquieu, đã giải thích: Quyền Lập pháp là quyền làm ra
luật... sửa đổi hay hủy bỏ luật (đã ban Hành), quyền Hành pháp là quyền

15


quyêt định việc hòa hay chiên, gửi đại sứ đi các nước, thiêt lập an ninh, đê
phòng xâm lược, còn quyền Tư pháp là quyền trừng trị tội phạm, phân xử
tranh chấp giữa các cá nhân [50, tr105-106].
ở Việt Nam, theo một số nghiên cứu Quyền Lập pháp được hiểu là

"quyền đại diện cho nhãn dãn thể hiện ỷ chỉ chung của quốc gia. Thuộc
tỉnh cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân

dãn, bảo đảm cho ỷ chỉ chung của nhân dân và được thể hiện trong các
đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất được nhản dân giao quyền biêu
quyết thông qua luật. Quyền Hành pháp là quyền lực trung tâm của bộ máy

Nhà nước, gắn liền với thực tiền, đời sống xã hội. Quyền Hành pháp là
quyền khởi xướng, hoạch định, đê xuất chính sách để cơ quan lập pháp

xem xẻt, phê chuãn và thực hiện các chính sách pháp luật do cơ quan lập

pháp thông qua" [47, trl6-17].
Mặc dù cịn nhiều quan điểm và cách nhìn nhận khác nhau nhưng phần

lớn quan điềm cho rằng Viện kiểm sát thực hiện chức năng Tư pháp trong bộ
máy Nhà nước. Quyền Tư pháp cũng được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách


khác nhau như: "quyền xét xử các vụ án hình sự, dãn sự, hơn nhãn gia đình,
kinh tế, lao động, hành chỉnh" [71, tr657]; "xét xử các hành vi vi phạm hiến

pháp, vi phạm pháp luật từ phía cơng dân và các cơ quan Nhà nước; bảo vệ
pháp luật, công lỷ, tự do của công dãn và trật tự an tồn xã hội" [57, tr60];

"phân xử và phán xét tính đủng đắn, tinh hợp pháp của các hành vi, các

quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các
chủ thê pháp luật" [62, trl 1]. Song nhận thức chung về quyền Tư pháp cốt lõi
vẫn là quyền xét xử, là việc nhân danh Nhà nước giải quyết tranh chấp, giải

quyết xung đột xã hội trên cơ sở pháp luật và lẽ công bằng, thông qua xét xử,

theo các thủ tục tố tụng luật định. Quyền Tư pháp do đó mà phân biệt với
quyền Lập pháp (xây dựng chính sách, tạo Lập ra các quy tắc chung làm

16


khuôn mẫu cho các Hành vi) và quyền Hành pháp (quán lý Nhà nước, thực thi

pháp luật, tô chức đời sổng theo pháp luật).
Hiến pháp không quy định xét xử là hoạt động tư pháp duy nhất và Tịa

án khơng phải là cơ quan tư pháp duy nhất. Tại tiểu mục 1.5, mục 1, Phan I
của Nghị quyết số 48-NQ/TW nói về việc xây dựng và hồn thiện pháp luật

về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bên cạnh sự xuất hiện của
Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra cũng được coi là những cơ quan tư

pháp. Tiểu mục 2.2, mục 2, Phần II của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy

các cơ quan tư pháp, Viện kiểm sát cũng được nhắc đển với vai trò chức năng
“thực hành quyền công tổ và kiêm sát hoạt động tư pháp

Mặt khác, từ quy

định tại Điều 4, Luật tổ chức VKSND năm 2014 có thể hiểu rằng: “hoạt động
tư pháp là các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhãn trong tiếp

nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, giải quyết
vụ án hình sự; tạm giữ, tạm giam; giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân

sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án,
việc giãi quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp ...”. Từ đó, có thể

kết luận ràng: Tuy TAND là chủ thể của quyền tư pháp, là cơ quan giữ vị trí
trung tâm trong hệ thống tư pháp, hoạt động xét xử và đóng vai trị trung tâm
trong hoạt động tư pháp nhưng không phải là cơ quan duy nhất thực hiện
quyền này. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát cũng được xác định như là một bộ

phận quan trọng của hoạt động tư pháp, thực hiện chức năng tư pháp cùng với

Toà án, Cơ quan điều tra và các hoạt động bố trợ tư pháp khác nhằm bảo đảm
hiệu quà trong hoạt động xét xử.
Xét trên phương diện tổng thể, trên thế giới hiện nay cơ bản tồn tại hai

mơ hình Nhà nước chủ yếu là “tam quyền phân lập" (Mỳ, Anh, Pháp,..) và
“thong nhất quyền lực” (Trung Quốc, Việt Nam,...). Đổi với mơ hình quyền


17


lực thông nhât không phân chia quyên lực như nước ta do Đảng cộng sản duy

nhất lãnh đạo và tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, có nhiều ưu
điểm nhưng cũng cỏ những hạn chế nhất định như việc lạm dụng quyền lực

nếu khơng có cơ chế, thiết chế kiểm sốt thích hợp, c. Mác gọi hiện tượng
này là “sự tha hoá quyền lực Nhà nước”, được biểu hiện dưới nhiều dạng

thức khác nha, như lạm quyền , lộng quyền, tùy tiện, thiếu trách nhiêm, lợi

dụng quyền lực, tham quyền cố vị, quan liêu,... Do đó để khắc chế việc tha
hố quyền lực, địi hởi pháp chế phải thống nhất, tổ chức quyền lực Nhà nước

phải được thể chế hóa bằng hiến pháp, pháp luật, trong đó quy định rõ sự

phân công, phân cấp, trao quyền đi đơi với trách nhiệm và cơ chế giám sát,
kiểm sốt các quyền đó. Có thể nói, cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước là

rất rộng, có nhiều cơ quan, thiết chế tham gia kiểm soát quyền lực Nhà nước,
trong đó Viện kiểm sát nhân dân với tư cách là thiết chế kiểm soát quyền lực

Nhà nước trong hoạt động tư pháp ở nước ta hiện nay. Vì vậy để đấu tranh
chống lại một cách hiệu quả những hạn chế nêu trên và đảm bảo pháp luật
được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất, Viện kiểm sát nhất thiết phải được

thành lập.

Chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND theo Hiến pháp

năm 2013, là sự kế thừa Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001. Tuy

nhiên so với các bản Hiến pháp trước thì đó là sự thay đổi theo hướng thu hẹp
phạm vi chức năng kiểm sát. Theo quy định của Hiến pháp những năm 1959,
1980, 1992 thì phạm vi chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân rất

rộng. Đe tránh việc chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ giữa VKSND

và thanh tra Nhà nước, Hiến pháp sửa đối năm 2001 đã xoá bỏ chức năng
kiểm sát chung của VKSND. Với tinh thần đó, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
xác định VKSND là cơ quan có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp

được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và khoản 1

18


Điều 4 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014: “Kiểm sát tính hợp

pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt

đọng tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dãn sự, hơn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tổ cáo trong hoạt động tư pháp. Các hoạt động tư pháp khác theo

quy định của pháp luật’’. Đen nay, chặng đường hơn 60 năm hình thành và


phát triển, với tư cách là một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập trong bộ
máy Nhà nước, chỉ có hệ thống cơ quan VKSND là cơ quan duy nhất có chức
năng, nhiệm vụ thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm

góp phần bào vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền

công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp cùa tổ chức, cá nhân, góp phần bão đảm pháp luật được

chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Vị trí, chức năng của VKSND trong hệ thống tồ chức quyền lực Nhà

nước là cơ sở đe pháp luật tố tụng dân sự quy định địa vị pháp lý của KSV
với tư cách là người tiến hành tổ tụng, thay mặt VKSND thực hiện chức năng

kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
BLTTDS đã ghi nhận vai trò của Viện kiềm sát trong TTDS, quy định

Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, Kiếm sát viên là người tiến
hành tổ dân sự (theo khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLTTDS). Sự tham gia của

Kiểm sát viên đại diện cho VKS trong TTDSD nhằm bảo đảm sự nghiêm
minh của pháp luật, sự công bằng, bình đẳng và tuân thủ pháp luật của các
chủ thể tham gia tố tụng. Từ đó cho thấy, về mặt lý luận địa vị pháp lý của

kiểm sát viên chiếm một vai trò quan trọng trong TTDS. Tuy nhiên, trước yêu
càu của sự nghiệp đổi mới đất nước, hội nhập kinh tể quốc tế, nhất là yêu cầu

19



×