MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN...... ....... ........................................................................................... i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................................. ii
MỞ ĐẰU...................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VÁN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM
SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN sự VIỆN NAM .............................................9
1.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.......................... 9
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự................................................................................................ 11
1.2.1. Yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN và bảo đảm quyền con người trong tố tụng
dân sự.............................................................................................................................. 11
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tổ chức quyền lực
Nhà nước........................................................................................................................ 15
1.2.3. Đặc thù của hoạt động kiềm sát.......................................................................... 21
1.2.4. Tính chất của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.23
1.3, Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về địa vị pháp lý của kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự Việt Nam..................................................................................... 24
1.4. Mối quan hệ tố tụng giữa Kiểm sát viên và các chủ thể khác trong tố tụng dân Sự27
1.4.1. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với Thẩm phán..................................................... 28
1.4.2. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với Viện trưởng VKS cùng cấp...........................29
1.4.3. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tiến hành tố tụng khác thuộc Tòa
án................................................................................................................................... 31
1.4.4. Quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng........................ 33
1.5. Địa vị pháp lý của Kiếm sát viên/Công tố viên trong pháp luật tố tụng dân sự một số
nước trên thế giới.....................................................................................................................34
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...............................
39
CHUONG 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỀM SÁT VIÊN TRONG TÓ TỤNG
DÂN SỤ THEO CẨc QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
HÀNH..’........................................... ’....................................... .’............ ’.........................40
2.1. Địa vị pháp lý của Kiêm sát viên thê hiện qua các nguyên tăc cơ bản của Bộ luật
tố tụng dân sự................................................................................................................. 40
2.1.1. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự................ 41
2.1.2. Nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. .42
2.1.3. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư, khách quan trong tố tụng dân sự....................... 44
2.2. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thề hiện ở các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
cùa Kiểm sát viên........................................................................................................... 45
2.2.1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu............................................... 45
2.2.2. Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự.................................................. 46
2.2.3. Nghiên cứu hô sơ vụ việc; yêu câu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ trong
quá trình giải quyết vụ việc dân sự theo quy định cùa BLTTDS; thu thập tài liệu,
chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của BLTTDS......................................... 47
2.2.4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biêu ý kiên của Viện kiêm sát vê việc
7
F
7
5
giải quyết vụ việc theo quy định của BLTTDS............................................................ 48
2.2.5. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án............................................................ 50
2.2.6. Kiến nghị, yêu Cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy định
của BLTTDS.... .............................. ....................................... ............................
51
2.2.7. Đe nghị Viện trưởng Viện kiểm sát có thấm quyền kháng nghị bản án, quyết
định của Tịa án có vi phạm pháp luật........................................................................... 53
2.2.8. Kiếm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu kiến nghị cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm
pháp luật.........................................................................................................................54
2.2.9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dân sự khác thuộc thẩm quyền của
Viện kiểm sát theo quy định của BLTTDS.................................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.............................................................................................56
CHƯƠNG 3. THựC TIỄN THựC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÈ
ĐỊA VỊ PHÁP LỶ CỦA KIẾM SÁT VIÊN TRONG Tổ TỤNG DÂN sự VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.................................................................. ’...................... '.... 57
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự......................................................................................................................57
3.1.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp
lý của Kiềm sát viên trong tố tụng dân sự.................................................................... 57
3.1.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập..............65
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý
của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự......................................................................... 73
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...................
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................. 76
MỞ ĐẦU
1. Tính câp thiêt của đê tài
Ớ Việt Nam hiện nay, Viện Kiểm sát nhân dân là một cơ quan đóng vai trị rất quan
trọng trong bộ máy Nhà nước. Tiền thân của Viện Kiểm sát nhân dân là Viện Công tố.
Tên gọi, chức năng và hoạt động của Viện Cơng tố được quy định chính thức trong Hiến
pháp 1946 và đến Hiến pháp 1959 thì Viện Kiểm sát nhân dân ra đời, thay thế cho Viện
Công tố. Tuy nhiên, Hiến pháp 1992 đã thu hẹp phạm vi hoạt động của Viện Kiểm sát chỉ
cịn “thực hành quyền cơng tố và kiêm sát các hoạt động tư pháp”, Hiến pháp 2013 hiện
nay cũng tiếp tục giữ nguyên phạm vi hoạt động này của Viện Kiểm sát. Có thề thấy, việc
sử dụng danh từ “Viện Kiêm sát” hay “Kiêm sát viên” ở Việt Nam đang ở mức “lưng
chừng”, tức là hoạt động kiêm sát vẫn rộng hơn hoạt động công tố vì có thêm chức năng
giám sát tư pháp, tuy nhiên phạm vi ấy lại hẹp hơn so với nghĩa gốc ban đầu của từ “kiêm
sát”.
Trải qua 60 nãm tồn tại, thiết chế Viện Kiểm sát nhân dân đã trưởng thành, phát
triền và thực hiện được nhiều nhiệm vụ quan trọng, trong đó có nhiệm vụ kiềm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự. Trong tố tụng dân sự, nếu như vị trí, vai trị của
Thẩm phán và các bên đương sự được xác định một cách rõ ràng thì vị trí, vai trị cùa
Kiếm sát viên không phải lúc nào cũng rõ ràng như vậy. Sở dĩ có tình trạng này là do quan
niệm về quyền lực Nhà nước, nguyên tắc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước ở mỗi
quốc gia khác nhau, từ đó có những quy định khác nhau về vị trí, vai trò của kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự. Trong tố tụng hình sự, mặc dù quan niệm về vị trí, vai trị của Kiểm
sát viên cũng khơng hồn toàn đồng nhất nhưng về cơ bản, các nước đều cho rằng cơ quan
cơng tố giữ vai trị đặc biệt quan trọng, là bên nhân danh Nhà nước truy tố và buộc tội
người phạm tội ra trước tồ án. Cịn trong tố tụng dân sự, phần lớn các quốc gia đều quan
niệm ràng vị trí vai trị của Viện cơng tố hạn chế hơn, do ảnh hưởng từ nguyên tắc quyền
tự định đoạt cùa các bên trong quan hệ dân sự.
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 ra đời thay thế BLTTDS 2004 và có hiệu lực
từ ngày 01/7/2016 đã góp phần thúc đẩy và tiếp tục thực hiện công cuộc cải cách tư pháp, tạo
điều kiện để người dân tiếp cận cơng lý, trong đó mấu chốt là đảm bảo các tranh chấp, yêu
càu về dân sự nói chung được thụ lý nhanh chóng và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. So
với bộ luật trước đó, BLTTDS 2015 đã có những thay đổi căn bản, chức năng của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự tiếp tục được khăng định, điều đó được thê hiện cụ thê như: phạm vi
tham gia phiên toà được mở rộng, việc phát biểu ý kiến của Kiếm sát viên tại phiên toà, phiên
họp sơ thẩm giải quyết vụ việc dân sự cũng đổi mới hơn: KSV không chỉ phát biểu về việc
chấp hành pháp luật tố tụng của Thấm phán, Hội đồng xét xử như trước đây mà còn phát biểu
ý kiến về việc giải quyết vụ án,...Tuy được thay đối và đẩy mạnh nhưng vị trí, vai trị của
kiểm sát viên trong các phiên toà xét xử dân sự vẫn chưa thực sự khẳng định được vị thế của
mình mà chỉ tập trung vào việc kiểm sát các bản án, quyết định xử lý vụ việc dân sự của Toà
án và đây được xác định là nhiệm vụ trọng tâm của các công tác kiểm sát trong giai đoạn này.
Trải qua hơn 5 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cho thấy, các quy
định về vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn còn nhiều hạn chế, bất
cập. Mặc dù pháp luật vẫn quy định Kiếm sát viên có đầy đủ các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị nhưng thiếu cơ chế, phương thức, cơ sở pháp lý để thực hiện quyền của
mình. Sau hơn 5 năm thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chất lượng công tác
kiếm sát giải quyết các vụ việc dân sự của Kiếm sát viên vẫn còn nhiều hạn chế. Việc phát
hiện vi phạm để kiến nghị, kháng nghị cịn được ít, chất lượng chưa đảm bảo, trong khi đó
vi phạm trong việc giải quyết án dân sự vẫn chiếm tỷ lệ cao, tình trạng khiếu kiện của
người dân về việc giài quyết án dân sự ngày càng có chiều hướng gia tăng và diễn biến
phức tạp. Án dân sự ở cấp sơ thẩm bị cấp phúc thẩm cải sửa, huỷ án còn nhiều, dẫn đến
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể và công dân không được đảm bảo.
Nguyên nhân nêu trên là do hệ thống pháp luật về dân sự và tố tụng dân sự hiện hành còn
chưa đầy đú, đồng bộ và hoàn thiện, chất lượng giải quyết án dân sự của Tòa án còn hạn
chế, nhung một phần quan trọng cũng là do các quy định của pháp luật về vị trí, vai trị cũng
như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn còn bất cập.
Mặt khác, trong điều kiện Đe án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” đang được thảo luận
và hoàn thiện để thơng qua, vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự cần được tiếp
tục nghiên cứu đế có quy định phù hợp với tình hình mới, bối cảnh mới.
về trách nhiệm, quyền hạn của Kiểm sát viên, xét cả trên phương diện lý luận và
thực tiễn vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu và tạo điều kiện
để Kiểm sát viên thực hiện tốt hơn chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự. Việc hạn chế sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên toà dẫn đến các thẩm
quyền tố tụng liên quan cũng bị loại bở hoặc hạn chế nên kiểm sát viên khơng có đủ các
quyền hạn tố tụng cần thiết khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do
vậy, vấn đề chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí, vai trị và mơ hình hoạt động của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự vẫn phải cần được làm rõ và tiếp tục hoàn thiện cho
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thế của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lỷ cho Kiểm sát
viên thực hiện tốt nhiệm vụ , đáp ứng với yêu cầu của tiến trình cải cách tư pháp, góp
phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chung.
Tác giả nhận thấy, xuất phát từ những thực tế nêu trên và từ việc nhận thức về vị trí,
vai trị của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự cần có sự quan tâm, đối mới hơn nữa cả về
phương diện lý luận và thực tiễn, để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm sát của
Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay.
Là một cán bộ đang trực tiếp làm công tác kiếm sát, tác giả nhận thấy việc nghiên
cứu đề tài "Địa vị pháp lý của Kiếm sát viên trong tố tụng dãn sự Việt Nam " là cần thiết,
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời qua quá trinh nghiên cứu, cá nhân tác giả
có điều kiện nâng cao trình độ, năng lực nghiệp vụ và kinh nghiệm cơng tác của bản thân.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Neu như trong khoa học luật tố tụng hình sự đã có một số cơng trinh nghiên cứu sâu
về vai trị, địa vị pháp lý của Kiềm sát viên, thì trong khoa học luật tố tụng dân sự có rất ít
cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Tuy đã có một số cơng trình nghiên cứu về địa vị pháp
lý của Viện kiếm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, nhưng cụ thể về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự thì có thể nói, đến nay ở Việt Nam chưa có cơng trình
nghiên cứu chuyên sâu nào.
2
Tuy nhiên, cũng đã có những cơng trinh liên quan đên đê tài luận văn ở các mức độ
khác nhau, nhiều bài viết trên các luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên
khảo, chuyên đề tống kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án... liên quan đến
nội dung này như:
Luận văn thạc sỹ luật học “Địa vị pháp lỷ của Viện kiêm sát nhản dãn trong tố tụng
dân sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thanh Loan năm 2007, Luận văn thạc sỹ luật học
“Nhiệm vụ, quyên hạn của Viện kiêm sát nhân dân trong tô tụng dân sự Việt Nam ” của tác
giả Phùng Thanh Hà năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học "Cơ sở lỷ luận và thực tiễn đôi
mới tô chức của Viện kiêm sát nhãn dãn đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam"
của tác giả Hoàng Thế Anh năm 2006; Luận văn thạc sĩ luật học “Sự tham gia tố tụng của
Viện kiêm sát nhãn dãn trong tố tụng dân sự Việt Nam ” của tác giả Võ Thị Phượng năm
2010; sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2008 "Đới mới vị trí, vai trò của Viện
kiêm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp" của tác giả Nguyễn Minh
Hằng, đề tài khoa học cấp Bộ “Hoùn thiện chế định Viện kiêm sát nhân dân trong Bộ luật
tố tụng dân sự” của tiến sĩ Trần Văn Trung năm 2003; Luận án tiến sĩ “Quá trình hình
thành, phát triên và đôi mới Viện kiêm sát nhản dán theo yêu câu cải cách tư pháp ở Việt
Nam ” của tác giả Trần Văn Nam năm 2010.
Ngồi ra cịn có một số bài viết được đăng tải trên các trang báo, tạp chí hay cổng
thơng tin điện tử như: tạp chí Kiểm sát số 09 năm 2004 ” Vị trí, vai trị của Viện kiêm sát
trong tơ tụng dân sự Việt Nam hiện hành", “Nhận thức đủng thảm quyên và trách nhiệm
của Viện kiêm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự” của tác giả Khuất Văn Nga; Bài
viết trên cống thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Địa vị pháp lỷ của Viện
kiếm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp” của tác giả TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi năm 2014;
Bài viết trên cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi “Năng cao
vai trò của Kiêm sát viên trong tố tụng dân sự” tác giả KSV. Hô Thị Tiêu Quỳnh năm
2020; Bài viết 'Những kiến nghị từ hoạt động thực tiễn qua 1 năm thực hiện các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004" của Tòa soạn tạp chí Kiểm sát (Tạp chí Kiếm sát số
18 tháng 9/2006); Bài viết "Việc áp dụng một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự" của
Toà soạn tạp chí Kiểm sát (Tạp chí Kiểm sát số 13 tháng 3/2006); bài viết "Vị trí, vai trị
Viện kiêm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cái cách tư pháp" của Nguyễn Ngọc
Khánh (Tạp chí Kiểm sát số 14-16, tháng 7, 8 năm 2008);...
Qua nghiên cứu những công trình, bài viết nêu trên cho thấy có nhiều quan diêm, lỷ
luận tác giả có thể kế thừa và phát triển được khi nghiên cứu và hoàn thành đề tài. Tuy
vậy, các cơng trình, bài viết trên chù yếu đi sâu vào nghiên cứu các lĩnh vực chung nhất về
nguyên tắc tố chức quyền lực Nhà nước; các vấn đề về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiềm sát trong tố tụng dân sự dưới góc độ cùa Luật hiến pháp. Hoặc cỏ cơng
trình, bài viết tuy có trực tiếp đề cập đến vấn đề này, nhưng do thời điểm nghiên cứu đã
lâu nên không cập nhật được những vấn đề đang đặt ra trong lý luận và thực tiễn hiện nay,
nhất là trong điều kiện áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Mặt khác, các công trình, bài viết trên chưa nghiên cứu tồn diện và đầy đù về “Địa vị
pháp lý của Kiêm sát viên trong tố tụng dãn sự Việt Nam ”. Do vậy, tác giả chưa thấy có cơng
trình, đề tài nào trùng lặp với đề tài này.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
* Mục đích:
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ một số vấn đề lỷ luận về địa vị pháp lý của Kiếm sát
viên trong tố tụng dân sự, từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện hơn các quy định của
pháp luật cũng như nghiên cứu tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm
sát viên trong tố tụng dân sự và trong quá trình kiểm sát hoạt động tư pháp, nhằm đáp ứng yêu
cầu cải cách tu1 pháp.
* Nhiệm vụ:
Đe đạt được mục đích nghiên cứu trên, cần thực hiện
- Phân tích cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc quy định địa vị pháp lý Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự.
- Đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dụng các quy tắc đó.
- Đề ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của
Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự, các quy định của pháp luật Việt Nam từ năm 1959 đến
nay về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, Luận văn cũng
có nghiên cứu, so sánh, tham khảo kinh nghiệm pháp luật tố tụng dân sự của một số nước
về địa vị pháp lý của kiểm sát viên hay công tố viên trong tố tụng dân sự.
Trên cơ sở, mục đích, đối tượng nghiên cứu đã được xác định, phạm vi nghiên cứu
của đề tài chủ yếu tập trung vào nghiên cứu địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng
dân sự ở Việt Nam hiện nay.
5. Co’ sỏ’ phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Co’ sỏ’ phương pháp luận
Đe đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu
luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp.
5.2. Phưong pháp nghiên cứu
Trong luận văn, tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp
hệ thống, phương pháp phân tích - tống hợp, phương pháp lịch sử, phương pháp luật học so
sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là một công trình khoa học ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, là cơng trình
nghiên cứu sâu về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự. Luận văn đã đưa
ra được khái niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự, chỉ ra và phân
tích các yếu tố quy định và chi phối việc xác định địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong
tố tụng dân sự.
Cụ thể trong luận văn đã luận giải và làm rõ được khái niệm về địa vị pháp lý của
Kiềm sát viên trong tố tụng dân sự được quy định tại các văn bản pháp luật Việt Nam hiện
4
hành. Chỉ ra được những điêm tiên bộ so với những quy định trước đây và những điêm
còn bất cập, đồng thời luận văn cũng đưa ra những đánh giá, nhận định khách quan về
thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về địa vị của Kiếm sát viên trong thực tiền, chỉ
ra những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành từ đó đưa ra những kiến nghị và giải
pháp để hoàn thiện.
Ngoài ra kết quà nghiên cứu của Luận văn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiền, làm
sâu sắc hơn cơ sở của việc xây dựng và hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Ket quả nghiên cứu luận văn sẽ là một trong những tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề có liên quan tới địa vị pháp lý của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự. Hơn nữa, luận văn còn có thể là tài liệu tham khảo cho những người
làm công tác thực tiễn mà cụ thể là Kiểm sát viên. Luận văn sè giúp cho Kiểm sát viên có
nhận thức đúng dắn về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình để từ đó thực hiện
một cách có hiệu quả.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chương, cụ thể:
Chương ỉ: Những vấn đề lỷ luận về địa vị pháp lỷ của Kiếm sát viên trong tố tụng
dân sự• Việt
Nam
•
Chương 2: Địa vị pháp lý của Kiêm sát viên trong tố tụng dân sự theo các quy định
của phảp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về địa vị pháp lỷ của Kiểm sát
viên trong tố tụng dân sự và một số kiến nghị.
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT
VIÊN TRONG TÓ TỤNG DÂN sự VIỆN NAM
1.1 Kháỉ niệm địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
Địa vị pháp lý của Kiêm sát viên trong tô tụng dân sự là “tông hợp các nhiệm vụ,
quyền hạn của KSV do pháp luật quy định khi KSV tham gia vào các hoạt động tố tụng dãn
sự, thế hiện vị trí của KSV trong mối quan hệ với các chủ thê khác của quan hệ pháp luật tố
tụng dãn sự”. Cụ thể hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự là nhằm đảm bảo cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến hành, tham gia tố
tụng và vãn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện nghiêm chỉnh
và thống nhất theo quy định của pháp luật; kịp thời phát hiện và xử lý vi phạm của các cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, bảo vệ lợi ích cúa nhà nước, lợi ích
cơng cộng, quyền và lợi ích họp pháp của đương sự.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên
trong tố tụng dân sự.
1.2.1. Yêu cầu hảo đảm pháp chế XHCN và bảo đảm quyền con người trong tố tụng dân sự
Pháp chế được định nghĩa theo nhiều cách, nhưng dù các quan điểm mới hay xưa cũ
về pháp chế thì nội hàm cơ bản của pháp chế vẫn là sự tuân thủ pháp luật. v.ĩ. Lenin từng
5
nói: “Pháp chê XHCN là một chê độ đặc biệt của đời sơng chính trị - xã hội, trong đó tât cả
các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dãn, nhân
viên nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật một
cách nghiêm chỉnh, triệt đế, chỉnh xác. Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước,
quyền, lợi ích của tập thể, của công dân đều bị xử lỷ theo pháp luật”
Pháp chế thường được gắn liền với một loại cơ quan đặc biệt, đó là Viện kiểm sát,
với một loại quyền lực đặc biệt khơng có trong lí thuyết phân chia quyền lực của các nhà
nước tư sản, đó là quyền kiêm sát chung. Xuất phát từ bối cảnh của nước Nga sau khi giành
cách mạng, chính quyền địa phương ln có xu hướng đi ngược, khơng tn theo chính
quyền trung ương, nói cách khác là tình trạng “địa phương chủ nghĩa” lúc bấy giờ. Một Nhà
nước kiếu mới XHCN, đại diện cho một quan hệ sở hữu mới là sở hữu cơng, nó cần một sự
thống nhất tuyệt đối từ phía trung ương cho tới địa phương mới có thề đảm bảo cho điều đó,
nên quyền lực kiểm sát chung ra đời nhằm mục đích bảo đảm sự thống nhất, tuân thủ các
văn bản luật do trung ương ban hành từ phía các địa phương cũng như mọi tố chức, cá nhân
trong xã hội. Nói đến pháp chế, có thể hiểu nó là sự thống nhất trên cơ sở quy định của pháp
luật trên toàn xã hội, là sự ràng buộc mọi chủ thể đối với các văn bản luật mà công quyền
trung ương ban hành.
Do ý nghĩa, mục đích và tầm quan trọng của pháp chế XHCN, Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng đà nhiều lần đề cập trong các nghị quyết, chỉ rõ phương hướng và biện pháp cần
thiết để tăng cường pháp chế XHCN. Những nghị quyết này sau đó đà được cụ thể hố
trong các văn bản luật.
Quyền con người rất phong phú, đa dạng và khơng kém phần phức tạp, nó được điều
chỉnh bởi các nguyên tắc, quy tắc và cách thức khác nhau. Hay nói cách khác, mỗi cơ chế
đảm bảo quyền con người khác nhau lại có những biện pháp, nguyên tắc, quy tắc và cách
thức riêng, bởi chúng còn phụ thuộc vào các chủ thế khác nhau, góp phần đảm bảo, thúc đẩy
quyền con người ở mỗi phương diện khác nhau. Cụ thể như kiểm sát hoạt động tư pháp của
Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự là hoạt động kiếm sát tính hợp pháp của các hành vi,
quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, trong việc giải quyết vụ
án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động,., và
các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật. Kiểm sát viên có thẩm quyền tham
gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự và phát biểu ý kiến, thấm quyền kháng
nghị bản án, quyết định của Tồ án có vi phạm pháp luật theo thủ tục phúc thấm, giám đốc
thẩm, tái thẩm và xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ theo BLTTDS năm 2015. Những
chức năng, nhiệm vụ trên thể hiện rõ vai trò của KSV trong việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân trong lĩnh vực tố tụng dân sự.
Như vậy, việc pháp luật quy định các nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong tố tụng
dân sự xuất phát từ yêu cầu bảo đảm pháp chế XHCN, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân trong tố tụng dân sự.
1.2.2. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhăn dân trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà
nước
Vị trí, chức năng của VKSND trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước là cơ sở để
pháp luật tố tụng dân sự quy định địa vị pháp lý của KSV với tư cách là người tiến hành tố
6
tụng, thay mặt VKSND thực hiện chức năng kiêm sát việc tuân theo pháp luật trong tô tụng
dân sự.
BLTTDS đã ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát trong TTDS, quy định Viện kiểm sát
là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự, Kiêm sát viên là người tiến hành tố dân sự (theo khoản
1, khoản 2 Điều 46 BLTTDS). Sự tham gia của Kiểm sát viên đại diện cho VKS trong
TTDSD nhằm bảo đảm sự nghiêm minh cúa pháp luật, sự cơng bằng, bình đăng và tn thủ
pháp luật của các chủ thể tham gia tố tụng. Từ đó cho thấy, về mặt lý luận địa vị pháp lý của
kiếm sát viên chiếm một vai trò quan trọng trong TTDS. Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự
nghiệp đối mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, các quy định cũa pháp luật để đảm bảo địa vị pháp lý của KSV
trong TTDS còn nhiều bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện. Đe đạt được hiệu quả trong
việc hoàn thiện các quy định về địa vị pháp lý của KSV, đầu tiên cần xác định được các yếu
tố quy định và chi phối việc xác định địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
Việc xác định địa vị pháp lý của Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự chịu sự quy định
và chi phối của nhiều yếu tố khác nhau và ở các cấp độ khác nhau như: Quan niệm về quyền
tư pháp, đặc thù của hoạt động kiếm sát hay tính chất của hoạt động kiểm sát và tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự. Sự tác động của các yếu tố nói trên dẫn đến sự khác biệt giữa
địa vị pháp lý của Kiểm sát viên với địa vị pháp lý của những người tiến hành tố tụng khác,
giữa địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hình sự và tố tụng dân sự,... Các yếu tố
này cũng tạo nên sự khác biệt về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên ở mỗi quốc gia, các hệ
thống pháp luật khác nhau.
Kiểm sát viên là người thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, đây là
một trong những chức năng cơ bản của Viện kiểm sát. Vì vậy địa vị pháp lý của Kiểm sát
viên gắn liền với địa vị pháp lý của Viện kiểm sát cũng như vị trí, chức năng của Viện kiểm
sát trong bộ máy nhà nước.
Ờ Việt Nam quan niệm tư pháp là xét xử và việc xét xử chỉ do Tòa án thực hiện đã
định hình khá sớm trong nhận thức, trong thực tiễn lập pháp và trong quá trình thực hiện
pháp luật của nước ta. Điển hình ở Hiến pháp 1946, trong Chương "Tư pháp ghi nhận việc
xét xử và cơ quan xét xử”. Vậy có nghĩa là quyền lực tư pháp mặc nhiên được thừa nhận là
quyền lực độc lập và do Tòa án thực hiện. Tuy nhiên thời gian gần đây trong nhận thức và
thực tiễn tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
khuynh hướng mở rộng phạm vi quyền tư pháp, coi xét xử chỉ là mắt xích, là khâu trọng
tâm của hoạt động tư pháp, là một bộ phận chứ không phải tồn bộ quyền tư pháp. Theo đó,
một số quyền tố tụng trước và sau xét xử và cả quyền bổ trợ tư pháp cũng được coi là quyền
tư pháp. Hiền nhiên cơ quan thực hiện những chức năng nhiệm vụ này cũng thuộc hệ thống
tư pháp, trong đó có Viện kiềm sát nhân dân. Được quy định tại Tại tiểu mục 1.5, mục 1,
Phần I của Nghị quyết số 48-NQ/TW nói về "việc xây dựng và hồn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, hên cạnh sự xuất hiện của Tòa án, Viện kiêm
sát và Cơ quan điều tra cũng được coi là những cơ quan tư pháp”. Tiểu mục 2.2, mục 2,
Phần II của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về "chức năng, nhiệm vụ, thâm
quyên và hoàn thiện tô chức, bộ máy các cơ quan tư pháp, Viện kiêm sát cũng được nhăc
đên với vai trò chức năng "thực hành quyền công tổ và kiêm sát hoạt động tư pháp ”.
7
Như vậy, cách thức tô chức quyên lực và quan niệm vê quyên tư pháp có tác động
ảnh hưởng rõ rệt đến việc xác định địa vị pháp lý cúa Kiểm sát viên trong hoạt động tố tụng.
Điều này cho thấy việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên
không chỉ đơn thuần là sửa đổi, bổ sung một số điều luật cụ thể, mà cịn liên quan đến việc
cải cách tồn bộ hệ thống tư pháp. Nếu thực sự thấy ràng hoạt động kiểm sát là một mắt
xích quan trọng khơng thế thiếu của hoạt động tư pháp và Viện kiềm sát là một phần quan
trọng của hệ thống tư pháp Việt Nam hiện nay thì phải xác định đúng và rõ hơn địa vị pháp
lý của Kiểm sát viên với tư cách là người tiến hành tố tụng quan trọng, không thể thiếu
trong hoạt động tố tụng.
1.2.3. Đặc
• thù của hoạt
• động
• C7 kiếm sát
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tư pháp là một trong hai
chức năng của VKSND và chỉ do cơ quan duy nhất là Viện kiểm sát và do Kiếm sát viên là
người trực tiếp tiến hành theo quy định của pháp luật. Vì vậy, khi thực hiện chức năng này,
theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành, tất cả các VKSND từ trên
xuống dưới tạo thành một hệ thống thống nhất. Mọi hoạt động của VKSND dù ở cấp nào
đều đặt dưới sự lãnh đạo của viện trưởng. Viện trưởng VKSND phải chịu trách nhiệm cá
nhân về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND
tối cao, và Viện trưởng VKSND tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của toàn
ngành kiểm sát trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, chủ tịch nước. Việc thực hiện
theo nguyên tắc này để đảm bảo cho các cấp kiểm sát hoạt động một cách đồng bộ, thống
nhất và “độc lập”, không chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chịu
sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Độc lập nhưng trong khuôn
khố pháp luật khi thực hiện chức năng đó.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát, KSV chủ yếu chỉ xem xét khi có dấu hiệu của
hành vi vi phạm pháp luật, xác định nguyên nhân và hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật
đó. Tuy nhiên KSV khơng có thẩm quyền trực tiếp xử lý hành chính các vi phạm mà chỉ
dừng lại ở quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị đế các cơ quan quản lý xử lý về hành chính
theo thẩm quyền. Nếu phát hiện có yếu tố cấu thành tội phạm thì có quyền khởi tố, truy tố
và luận tội trước tịa án.
1.2.4. Tính chất của hoạt động kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dãn sự.
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự của VKSND là
những hoạt động nhằm kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tồn bộ q trình tố tụng,
bảo đảm tính pháp chế trong các phán quyết của Tồ án, bảo vệ quyền con người và lợi ích
hợp pháp cùa Nhà nước cũng như mọi thành viên trong xã hội. Hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKS là tất yểu và khách quan, nhằm đáp ứng yêu cầu về bảo đảm sự
tuân thủ theo pháp luật trong tố tụng dân sự của Toà án là cơ quan tư pháp có thẩm quyền
xét xử phần lớn các vụ việc dân sự, đồng thời bảo đảm quyền của con người, quyền công
dân trong lĩnh vực dân sự.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển các quy định về địa vị pháp lý của kiểm sát viên trong tố
tụng dân sự Việt Nam
Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển, kể từ khi Viện kiểm sát dân dân được
thành lập năm 1960 đến nay, công tác kiếm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự của KSV
8
luôn được xác định là chức năng quan trọng của VKS đơng thời vị trí, vai trị của Kiêm sát
viên luôn được khẳng định trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự qua các thời kỳ.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước từ 1960 đến 1975, các quan hệ
pháp luật về dân sự, hôn nhân và gia đình hình thành và phát triển gắn liền với kết quả của
cuộc chiến tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Kiểm sát
viên địa phương chủ yếu giải quyết các vụ kiện về hôn nhân gia đình, tranh chấp quyền sở
hữu, địi bồi thường về thiệt hại giữa các cá nhân và cơ quan, tồ chức. Từ sau khi thống nhất
đất nước năm 1976 đến năm 1986 các mâu thuẫn phát sinh trong quan hệ tài sản về hơn
nhân gia đình và các vi phạm trong quan hệ về lao động ngày càng tăng về số lượng cũng
như tính chất ngày một phức tạp. Những vụ kiện tranh chấp nhà ở ở thành phố, thị xã ngày
càng tăng. Nhiều vụ chiếm dụng vốn, phân tán tài sản, vi phạm hợp đồng,... gây thiệt hại
nghiêm trọng cho Nhà nước. Trước tình hình đó Kiềm sát viên đẩy mạnh, chủ động hoạt
động khởi tố dân sự, kiểm sát tuân theo pháp luật trong ký kết và thực hiện các họp đồng,
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực quản lý kinh tế, hỗ trợ thu hồi nợ cho ngân hàng, thu hồi
ruộng đất cho hợp tác xã, vật tư tiền bạc, lương thực cho Nhà nước, thúc đầy việc chấp hành
chính sách, pháp luật, đặc biệc là trong quan hệ hợp đồng.
Công tác kiểm sát dân sự trong những năm đầu của cuộc đổi mới 1987 đến năm 2001
hướng vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Kiểm sát viên tích cực, đấy
mạnh việc khởi tố những vụ án dân sự quan trọng xâm phạm đến tài sản cùa Nhà nước, của
tập thể. Số lượng khởi tố của Viện kiểm sát đối với các vi phạm hợp đồng tiếp tục tăng
(trong các năm 1986-1989, trung bình năm sau tăng hơn năm trước 50%), đã có tác dụng
củng cố kỷ luật họp đồng và thu hồi cho Nhà nước một số lượng lớn tài sản bị chiếm dụng
hoặc gây thiệt hại. Các phiên tịa xét xử có Kiểm sát viên tham gia tích cực hơn (mặc dù
theo quy định của pháp luật thì VKS chỉ tham gia phiên tòa khi khởi tố hoặc kháng nghị,
các trường hợp khác nếu thấy cần thiết). Khi tham gia phiên tịa, kiểm sát viên đã chủ động
tích cực thẩm vấn làm rõ nội dung vụ án, giám sát việc chấp hành pháp luật, phát hiện và
kiến nghị khắc phục vi phạm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án có sức thuyết
phục [76, tr.66J.
Năm 2002 đến nãm 2010, tình hình tranh chấp, khiếu kiện dân sự ngày càng tăng,
diễn biến phức tạp. Thực hiện BLTTDS năm 2004, Kiểm sát viên VKS hai cấp đà chuyển
trọng tâm công tác, đôi mới phương thức kiêm sát, tập trung kiêm sát các bản án và quyêt
định dân sự. Từ năm 2010 đến nay, tình hình tranh chấp dân sự xảy ra ngày càng nhiều, tính
chất phức tạp, chủ yếu là các tranh chấp về hợp đồng dân sự, quyền sử dụng đất,... Trước
tình hình đỏ theo sự chỉ đạo của VKSND tối cao, kiểm sát viên tăng cường trong công tác
kiểm sát dân sự; kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án để phát hiện vi phạm và
kháng nghị, kiến nghị theo thẩm quyền, tạo sự chuyển biến rõ nét về nhận thức và tổ chức
thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự.
Nhận thấy, địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTDS dần thay đổi để phù hợp với sự
chuyên biến của xã hội qua các thời kỳ. Công tác kiêm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
của KSV thực hiện bám sát phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước và chính quyền
địa phương; trên cơ sở quán triệt đúng đắn chức năng, nhiệm vụ của KSV theo quy định của
pháp luật. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 vẫn khẳng định VKS là cơ quan đảm
9
bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chinh và thống nhất nhưng đã có thay đối một số
quy định về tổ chức và thu hẹp phạm vi hoạt động của Viện kiểm sát. Từ chỗ là nhân tố
chính bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất thỉ nay hoạt động
của VKS chỉ là “góp phần” cho q trình đó mà thơi. Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bố
sung năm 2002) quy định cụ thế Viện kiếm sát chỉ còn chức năng “thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Đen nay sau khi Quốc hội khố XIII thơng qua Hiến
pháp năm 2013 vẫn tiếp tục kế thừa những quy định còn phù hợp và thay đổi một số quan
điểm để khẳng định rõ hơn vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
nước ta để phù họp với thới kỳ đổi mới hiện nay.
1.4. Mối quan hệ tố tụng giữa Kiểm sát viên và các chủ thể khác trong tố tụng dân sự
Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh trong tố tụng dân sự và do luật tố
tụng dân sự điều chỉnh. Việc giải quyết vụ việc dân sự làm phát sinh các quan hệ khác nhau
giữa các cơ quan, tổ chức và những người tham gia vào đó. Các quan hệ này được quy
phạm pháp luật tố tụng dân sự điều chỉnh nên trở thành quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự phát sinh và tồn tại trong một thể thống nhất. Trong tố
tụng, địa vị pháp lý của các chủ thể đều liên quan đến việc thực hiện mục đích của tố tụng
dân sự là đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Vì vậy mồi hành vi tố tụng
của một chủ thể đều liên quan đến nhau, dẫn đến những hậu quả pháp lý đối với nhiều chủ
thể khác do đó góp phần tạo nên sự vận động và phát triển cùa quá trinh tố tụng.
1.4.1. Quan hệ giữa Kiếm sát viên với Thấm phán
Trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng thay mặt Viện kiểm
sát thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng dân sự
khác và những người tham gia tố tụng. Thẩm phán là người tiến hành tố tụng thay mặt Toà
án thực hiện nhiệm vụ xét xử, làm sáng tỏ bản chất vụ việc dân sự để giải quyết theo đúng
quy định của pháp luật. Như vậy, trong mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Thẩm phán,
Kiểm sát viên là chủ thể kiểm sát, còn đối tượng kiểm sát là việc tuân theo pháp luật của
Thẩm phán. Phạm vi kiếm sát đối với Thẩm phán giới hạn ở việc tuân theo pháp luật của
Thẩm phán trong quá trình tố tụng dân sự, tức là kiểm sát tính đúng đắn của các quyết định
tố tụng và hành vi tố tụng của Thẩm phán trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Đồng thời,
KSV vẫn phải có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật. Trong tố tụng dân sự Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát có chức năng
kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, nhằm phát hiện ra những sai phạm
trong quá trỉnh tố tụng, trong đó có những sai sót trong việc xét xử của Thấm phán, tuỳ theo
mức độ để kịp thời đề ra những yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị khắc phục, sửa chữa.
1.4.2. Quan hệ giữa Kiếm sát viên với Viện trưởng VKS cùng cấp
Giữa Kiềm sát viên và Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp tồn tại hai mối quan hệ:
Một là quan hệ hành chính giữa Viện trưởng là thủ trưởng đơn vị với Kiểm sát viên là nhân
viên thuộc sự chỉ đạo và phân công của Viện trưởng. Viện trương với tư cách là công chức
lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý về mặt hành chính trong một cơ quan Nhà nước, có
trách nhiệm phân công hợp lý công việc và tạo điều kiện thuận lợi cho các Kiếm sát viên
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc kiểm sát các vụ việc, vụ án dân sự cụ
thế. Hai là mối quan hệ tố tụng giữa Viện trưởng và Kiếm sát viên được pháp luật tố tụng
10
điêu chinh. Trong các vụ án, vụ việc dân sự Kiêm sát viên thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình theo sự phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng. Kiểm
sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho ràng việc đó là trái pháp
luật; nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành, nhưng Viện trưởng
phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; trong trường hợp này Kiểm sát viên có
quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên trực tiếp và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả
của việc thi hành quyết định đó. Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiềm sát viên phải tuân theo pháp
luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiếm sát cấp mình, sự lãnh đạo thống
nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong tổ chức hoạt động cùa mình, VKS khơng lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà
nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối quan hệ mất thiết với nguyên tắc tập trung,
thống nhất lãnh đạo trong ngành. Nguyên tắc này tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân
dân thực hiện tốt nhiệm vụ cùa mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách
nghiêm minh và thống nhất. Nội dung này thế hiện ở chỗ các Viện kiếm sát nhân dân thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối của các cơ
quan nhà nước khác ở địa phương mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
1.4.3, Quan hệ giữa Kiểm sát viên với những người tiến hành tố tụng khác thuộc Tòa án
Cũng như mối quan hệ giữa Kiểm sát viên với Thẩm phán, mối quan hệ giừa Kiểm sát
viên với những người tiến hành tố tụng khác thuộc Tòa án như Hội Thẩm, Thư ký toà án, thẩm
tra viên ... là mối quan hệ giữa những người tiến hành tố tụng, trong đó Kiểm sát viên là chủ
thể kiểm sát, cịn đối tượng kiểm sát là việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố
tụng. Đây là những mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở pháp luật tố tụng, chỉ phát sinh khi
những người tiến hành tố tụng tham gia vào quá trinh giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời đây
cũng là mối quan hệ phối họp để đảm bảo việc tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng,
nhằm giải quyết vụ việc dân sự một cách đúng đắn.
về nguyên tắc “mọi hoạt động của người tiến hành tố tụng đều có tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến quá trình giải quyết một vụ việc dân sự, có vai trị quyết định đối với hoạt
động của cơ quan tiến hành tố tụng”. Vì vậy nếu chỉ riêng Viện kiểm sát thi không thề trực
tiếp thực hiện được các nhiệm vụ, quyền hạn Nhà nước giao phó mà phải thơng qua các
hoạt động của cả nhừng người tiến hành tố tụng khác. Trong quá trình giải quyết một vụ
việc dân sự và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự thi bản thân mỗi người
tiến hành tố tụng dân sự lại giữ một vai trị riêng và thực hiện các cơng việc khác nhau tuỳ
thuộc vào vị trí của họ. Kiếm sát viên là người tiến hành tố tụng dân sự thuộc Viện kiểm sát,
trực tiếp thực hiện giám sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng dân
sự khác. Tuy mỗi người tiến hành tố tụng dân sự giữ một vị trí, vai trị khác nhau nhưng họ
ln có một mối liên hệ và cùng chung nhiệm vụ giải quyết, làm sáng tỏ vụ việc dân sự, đều
là đối tượng kiểm sát của KSV.
1.4.4. Quan hệ giữa Kiếm sát viên với nhũng người tham gia tố tụng.
Những người tham gia tố tụng tham gia vào hoạt động tố tụng để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình hay của của người khác hoặc hỗ trợ cho việc giải quyết vụ án.
Những người tham gia tố tụng rất đa dạng như: Đương sự, người đại diện của đương sự,
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
11
sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Trong luận văn tác giả sẽ đi sâu
vào phân tích về mối quan hệ tố tụng giữa Kiểm sát viên với chủ thể chính là đương sự.
Đương sự chính là chủ thế hay người tham gia tố tụng nhờ sự can thiệp của các cơ
quan tiến hành tố tụng như Toà án, Viện kiểm sát,... đề bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
họ khi bị xâm phạm. Trong TTDS Kiểm sát viên đại diện VKSND tham gia tố tụng với tư
cách người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự, bảo đảm các đương sự đều có quyền, nghĩa vụ tố tụng ngang nhau và đảm bảo
các hoạt động tố tụng khác không xâm phạm đền quyền lợi đặc biệt là “quyền tự định đoạt”
của các đương sự. Việc thực hiện được mỗi quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự
có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Do vậy, trong quá trình tố tụng KSV thực hiện chức năng của mình để đảm bảo cho các
đương sự được thực hiện đầy đú các quyền và nghĩa đó một cách có thiện chí và đúng quy
định pháp luật.
1.5. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên/Công tố viên trong pháp luật tố tụng dân sự một
số nước trên thế giới.
Trong lĩnh vực dân sự, Kiếm sát viên Trung Quốc kiếm sát hoạt động xét xử của Tòa
án; kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thầm đối với bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tịa án nếu phát hiện bản án, quyết định đó có vi phạm pháp luật, gây thiệt
hại nghiêm trọng cho lợi ích xã hội; tham gia phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm. Kiểm sát
viên cũng có quyền khởi tố vụ kiện dân sự, nếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thấy
hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tập thể. Trong tố
tụng dân sự, Kiểm sát viên Trung Quốc nhân danh Nhà nước, lợi ích cơng cộng để khởi
kiện vụ án dân sự và Kiểm sát viên thực hiện chức năng giám sát pháp luật trong tố tụng
dân sự thông qua hoạt động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Liên quan đến thẩm
quyền kháng nghị này có ba điểm cần lưu ý sau: Một là khác với thủ tục giám đốc thẩm
trong BLTTDS Việt Nam, thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTDS Trung Quốc được hiểu
theo nghĩa rộng hơn, bao gồm cả thủ tục tái thấm. Điều này thể hiện ở chỗ thủ tục giám đốc
thẩm không chỉ áp dụng trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
trong việc xử lý vụ án mà cịn được áp dụng cả trong trường hợp có những tinh tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đối cơ bản nội dung phán quyết của Tòa án mà Tồ án
khơng biết được khi ra phán quyết đó. Thứ hai là khác với BLTTDS Việt nam, bên cạnh
việc quy định về thâm quyền kháng nghị giám đốc thâm của Toà án và Viện kiếm sát, Luật
tố tụng dân sự Trung Quốc còn ghi nhận quyền kháng cáo giám đốc thẩm của đương sự. Ba
là giống như nguyên tắc thực hiện thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm trong BLTTDS
Việt Nam, trong luật TTDS Trung Quốc cả Toà án, và Viện kiểm sát đều có quyền kháng
nghị giám đốc thâm. Tuy nhiên khác với quy định của BLTTDS Việt Nam ở chồ trong
BLTTDS Trung Quốc khơng có quy định cụ thể về chức danh cùa những người có thẩm
quyền kháng nghị giám đốc thẩm, do đó có thể hiểu, trong TTDS Trung Quốc, không chỉ
Viện trưởng mà Kiểm sát viên cũng có thâm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
Trong tố tụng dân sự, Cơ quan Cơng tố Cộng hồ Indonesia được trao thẩm quyền rất
rộng. Ngoài các nhiệm vụ tham gia vào các hoạt động nhằm tăng cường nhận thức pháp luật
trong xã hội, tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm việc thi hành các chính sách
12
thực thi pháp luật, tư vân và hô trợ thông tin vê mặt pháp lý cho các Cơ quan nhà nước. Cơ
quan Cơng tố Cộng hồ Indonesia cịn có thẩm quyền tiến hành các hoạt động pháp lý đại
diện và phục vụ cho lợi ích của Nhà nước và Chính phủ trong và ngồi Tồ án. Cơng tố viên
có thể đại diện cho Nhà nước và Chính phủ với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các
án kiện tại Toà hay là một bên tham gia đối với các vụ việc pháp lý giải quyết ngoài Toà án.
Ngoài ra Cơng tố viên Cộng hồ Indonesia cịn có thẩm quyền kháng nghị đối với các vụ án
dân sự lên Toà án tối cao, thẩm quyền kháng nghị này thuộc về Tổng Chưởng Lý.
Trong tố tụng dân sự, Kiểm sát viên Liên Bang Nga có vị trí, vai trị tương đối đặc
trưng được thể hiện ở chỗ: Kiếm sát viên không thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động xét
xử vụ việc dân sự của Toà án mà tham gia tố tụng đề bảo đảm vị thế tối thượng cúa luật,
củng cố và tăng cường tính thống nhất của pháp chế, đồng thời hướng tới Toà án như một
phương tiện đề bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những đối tượng mà sự vi phạm quyền,
lợi ích hợp pháp ấy có ảnh hưởng nghiêm trọng đến phương diện xã hội. Do đó dù tham gia
tố tụng dưới hình thức nào thì việc tham gia của Kiểm sát viên khơng phải là để bảo vệ lợi
ích của riêng Viện kiểm sát mà là nhân danh Liên Bang Nga và vi lợi ích của luật để bào vệ
lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng cũng như lợi ích của một số người khác và của tập hợp
người không xác định, vi lợi ích của những người này cũng có tính chất cơng và mang ý
nghĩa xã hội.
Nhìn chung, ở các nước trên thế giới, địa vị pháp lý của Kiểm sát viên hay Công tố
viên trong tố tụng dân sự tuy khác nhau nhưng đều tập trung vào các nhiệm vụ, quyền hạn
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích cơng cộng, bảo vệ các nhóm chủ thể yếu
thế trong tố tụng dân sự, đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, khách quan, bảo
vệ quyền con người trong tố tụng dân sự
CHƯƠNG 2. ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIÈM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN sự
THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thể hiện qua các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố
tụng dân sự
2.1.1. Nguyên tắc kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Các hoạt động tố tụng dân sự rất đa dạng, phức tạp chính vì thế quyền và lợi ích của
các chủ thế dễ bị xâm phạm. Do đó ngồi việc pháp luật phải quy định cụ thế quyền, nghĩa
vụ tố tụng của các chủ thể thì cần phải có cơ chế thích hợp kiểm sát các hoạt động này.
Chính vì thế, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự đã được pháp luật quy
định là một nguyên tắc cơ bản cúa tố tụng dân sự với nguyên tắc xác định Viện kiểm sát
thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể trong việc
tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng. Khi thực hiện quyền hạn cùa minh Viện kiếm sát được
sử dụng những biện pháp mà pháp luật quy định để bảo đảm việc kiểm sát có hiệu quả như
tham gia phiên tòa, phiên họp, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy
định cùa pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp
luật.
2.1.2. Nguyên tắc trách nhiệm của CO'quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết vụ việc
13
dân sự. Kêt quả giải quyêt vụ việc dân sự phụ thuộc rât lớn vào việc cơ quan, người tiên
hành tố tụng dân sự có đề cao được trách nhiệm của mình trong thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn hay khơng. Nội dung của nguyên tắc này xác định các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng được quy định cụ thể tại Điều 16 BLTTDS năm 2015. Trong bài viết tác
giả chỉ nói về cơ quan tiến hành tố tụng là VKS và người tham gia tố tụng là KSV được thể
hiện trong nguyên tắc này.
Viện kiềm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công
dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tồ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất. Cơ quan tiến hành tố tụng VKS, người tiến hành tố tụng KSV phải giữ bí mật nhà
nước, bí mật cơng tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần phong mỹ tục của dân tộc,
bảo vệ người chưa thành niên, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình của đương sự theo u cầu chính đáng của họ. Kiểm sát viên trong khi thực
hiện chức năng nhiệm vụ của minh phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của Nhân
dân. Phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
mình,...
2.1.3. Ngun tắc bảo đảm sự vơ tư, khách quan trong tố tụng dân sự.
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên là cơ quan, người tiến hành tố tụng tham gia vào hoạt
động tố tụng dân sự giúp Tòa án làm rõ các vấn đề của vụ việc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, các đương sự,... nếu họ không vô tư, khách quan trong việc tiến hành
tố tụng hoặc tham gia tố tụng thì việc giải quyết vụ việc dân sự sẽ bị thiên lệch. Do vậy
nguyên tắc này có nội dung chủ yếu được xác định là phải tiến hành những biện pháp cần
thiết để bảo đảm sự vô tư, khách quan trong việc tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng
của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, cụ thể như trong bài viết tác giả
muốn đề cập tới vị trí cùa Kiếm sát viên, Viện kiểm sát. Nếu trong trường hợp có căn cứ
cho thấy Kiểm sát viên có thể khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ thì phải thay đổi; việc
phân công phải đảm bảo sự vô tư, khách quan khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Nội dung của Điều luật này đã thề hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc như quy định
được những biện pháp cần thiết đề bảo đảm được sự vô tư của những người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng.
2.2. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên thế hiện ờ các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Kiểm sát viên.
2.2.1. Kiếm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu.
Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là một nội dung kiểm sát quan trọng
trong tố tụng dân sự. Mục đích của hoạt động kiểm sát này là nhằm tránh việc Tịa án trả lại
đơn, khơng thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu với những lý do không chính đáng, khơng
phù họp với những trường họp trả lại đơn trong BLTTDS năm 2015. Thông qua việc tiến
hành hoạt động này, KSV nắm được những thông tin cơ bản nhất về một vụ việc dân sự cụ
thể. Dựa trên những gì thu thập được, Kiểm sát viên sẽ lập phiếu kiểm sát, so sánh, đối
chiếu nội dung của quyết định trả lại đơn với quy định của pháp luật đế xác định việc Toà
án trả lại đơn cho là đúng hay sai; quyền và nghĩa vụ của người khởi kiện, người yêu cầu
được bảo vệ hay chưa.
•
•
X
X
•
•
14
••
•
• J
k
J
•
2.2.2. Kiêm sát việc thụ lý, giải quyêt vụ việc dân sự.
Ở đây, ta cần phải hiểu nội dung kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án theo nghĩa
rộng, bao gồm tất cả các hoạt động, thủ tục giải quyết vụ án được quy định trong Phần thứ 2
- Thủ tục giải quyết vụ án của BLTTDS (Trong đó có phần nhận và xử lỷ đơn khởi kiện
trước khi Tịa án ra thơng háo trả lại đơn khởi kiện hoặc thụ lý vụ án). Điều này là hoàn
toàn phù hợp với các quy định tại khoản 1 Điều 21 BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS và Điều 4 Luật TCVKSND năm 2014.
2.2.3. Nghiên cún hồ SO' vụ việc; yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chúng cú' trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của BLTTDS; thu thập tài liệu, chứng cứ theo quy
định tại khoản 6 Điều 97 của BLTTDS.
Nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia phiên tòa sơ thẩm là để kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của thẩm phán, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố
tụng khác kể từ khi thụ lý đến khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong quá trình nghiên
cứu hồ sơ, Kiểm sát viên tập trung kiểm sát và kết luận 1 số hoạt động tố tụng như sau:
nghiên cứu xác định thẩm quyền thụ lý VVDS; xác định tư cách của đương sự và người
tham gia tố tụng khác; xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự; xác minh, thu thập
chứng cứ vụ án: trong q trình đó, kiềm sát viên phải làm rồ các vấn đề về tính có căn cứ,
tính hợp pháp của chứng cứ, tài liệu và xác định với chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ đã đủ để
giải quyết vụ án chưa; làm rõ những tinh tiết khách quan của vụ án. Từ đó, xác định được
tình tiết nào liên quan đến vụ án mà chưa được làm rõ
Sau khi nghiên cứu những nội dung trên, kiểm sát viên phải lập hô sơ kiểm sát theo
quy định tại điểm 1.1 Mục I phần II của hướng dẫn số 27/HD-VKSTC-V5 ngày 22/5/2014
của VKSNDTC hướng dẫn lập hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự
2.2.4. Tham gia phiên tòa, phiên họp và phát biếu ỷ kiến của Viện kiếm sát về việc giải quyết
vụ việc theo quy định của BLTTDS.
2.2.4.1. Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
2.2.4.2. Kiêm sát viên phát biêu ý kiến về việc giải quyết vụ việc
2.2.5. Kiếm sát bản án, quyết định của Tòa án
Đe kiểm tra tính hợp pháp của các văn bản tố tụng do Thẩm phán ban hành trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự, KSV thông qua việc nghiên cứu, đánh giá các vãn bản tố tụng
có trong hồ sơ vụ án nhằm kiểm tra việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán khi ban
hành các loại văn bản. Trong khi nghiên cứu, KSV phải đối chiếu để xem xét văn bản đó có
phù hợp với quy định của pháp luật hay không.
2.2.6. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án thực hiện đúng các hoạt động tố tụng theo quy định của
BLTTDS
Trong quá trình kiềm sát giải quyết các vụ việc dân sự, Kiềm sát viên thực hiện
quyền yêu cầu đối cơ quan, tổ chức, cá nhân: Thực hiện hoạt động tư pháp theo đúng quy
định của pháp luật, kiểm sát tính họp pháp cùa các hành vi, quyết định trong hoạt động tư
pháp; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền khắc phục, xử lý nghiêm
minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp (Điểm a, c Khoản 3 Điều 4 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2014).... Dưới góc độ khoa học kiểm sát, kiến nghị là quyền
năng, là biện pháp pháp lý quan trọng của Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng thực hành
15
quyên công tô và kiêm sát hoạt động tư pháp, góp phân đảm bảo cho pháp luật được thi
hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
Đe thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị trong tố tụng dân sự, điều kiện bắt buộc là
Kiếm sát viên phải phát hiện được các vi phạm trong q trình giải quyết vụ án thơng qua
các hoạt động cụ thể cùa Thấm phán. Trên cơ sở các vi phạm pháp luật đã phát hiện, Kiếm
sát viên phải xác định tính chất mức độ nghiêm trọng của từng vi phạm đề thực hiền quyền
yêu cầu, kiến nghị một cách phù hợp.
2.2.7. Đề nghị Viện trưởng Viện kiếm sát có thấm quyền kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án có vi phạm pháp luật
Kháng nghị bản án, quyết định dân sự là hoạt động tố tụng của người tiến hành tố
tụng có thẩm quyền phản đối bản án, quyết định dân sự khi phát hiện hành vi, bản án, quyết
định của Tồ án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp và
cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết
quyết vụ án dân sự của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp phúc thẩm giải quyết lại
theo thủ tục phúc thẩm. Theo điểm d khoản 1 Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy
định Viện trưởng Viện kiếm sát có quyền ''Kháng nghị theo thủ tục phúc thâm, giám đốc
thẩm, tái thâm bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này". Đồng thời
khoản 7 Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Kiểm sát viên có quyền “Đề
nghị viện trưởng Viện kiêm sát có thâm quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tồ án có
vi phạm pháp luật”.
2.2.8. Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu kiến nghị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật
“Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng” là hoạt động của Kiểm sát
viên trong việc kiểm tra và giám sát việc chấp hành pháp luật liên quan đến những trình tự,
thủ tục của người tham gia tố tụng, từ đó phát hiện ra những vi phạm, kịp thời đề ra những
yêu cầu kiến nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích của những người tham gia tố tụng khác.
2.2.9. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng dãn sự khác thuộc thẩm quyền của Viện
kiểm sát theo quy định của BL TTDS
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, một số trường hợp đê đảm bảo sự vô tư,
khách quan trong việc giải quyết các vụ án dân sự Kiểm sát viên cần phải thực hiện việc từ
chối tiến hành tố tụng của mình nếu thuộc trường hợp tại Điều 52 và Điều 60 BLTTDS.
16
CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN THựC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÈ
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA KIỂM SÁT VIÊN TRONG TỐ TỤNG DÂN sự VA MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng
dân sự.
3. LI. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện các quy định về địa vị pháp lý của
Kiếm sát viên trong tố tụng dân sự
về kiêm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, phiên họp: Kiểm sát viên đã kiểm
sát chặt chẽ vụ việc từ giai đoạn thụ lý, giải quyết đến khi Tòa án ban hành bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật. Qua cơng tác kiềm sát xét xử, hoạt động của Kiểm sát viên
trước, trong và sau phiên tòa, phiên họp đã phát hiện vi phạm của Tòa án, ban hành kiến
nghị, kháng nghị và báo cáo đề nghị kháng nghị theo thẩm quyền. Tại phiên tòa, phiên họp
so thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm tái Kiểm sát viên thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ,
phát huy được bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ trong kiếm sát việc tuân theo pháp luật
tại phiên tòa, phiên họp.
Các VKSND cấp huyện, VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp cao đã chủ động lựa chọn
những vụ án có nội dung phù hợp với tiêu chí về phiên tòa rút kinh nghiệm, đà phối hợp với
TAND cùng cấp tố chức được 13.383 phiên tòa rút kinh nghiệm. Nhiều phiên tòa rút kinh
nghiệm được phối hợp với Tòa án, tổ chức trực tuyến hai cấp VKSND cấp tỉnh và VKSND
cấp huyện. Các phiên tòa rút kinh nghiệm đã đạt được hiệu quả thiết thực trong công tác đào
tạo cán bộ, nâng cao trình độ chun mơn, kỹ năng nghiệp vụ, tích lũy kinh nghiệm trong
cơng tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự. Từ thực tiền tại phiên tòa và tổng hợp nội
dung cuộc họp rút kinh nghiệm sau mỗi phiên tòa cho thấy đây là một trong những hình
thức đào tạo tại chỗ có hiệu quả cao đối với Kiểm sát viên, cơng chức về trình độ, bản lĩnh,
hoạt động và trách nhiệm của Kiếm sát viên tham gia phiên tịa.
Cơng tác kiểm sát bản án, quyết định'. Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định thời
gian qua nhận thấy vẫn còn một số Tòa án gửi chậm bản án, quyết định giải quyết các vụ,
việc dân sự cho Viện kiểm sát (Tòa án cấp sơ thấm gửi chậm 61.674 bản án, quyết định
chiếm tỷ lệ 4,1%; Tòa án cấp phúc thẩm gửi chậm 6.913 bản án, quyết định, chiếm tỷ lệ
11,7%; Tòa án cấp giám đốc thẩm gửi chậm 71 quyết định, chiếm tỷ lệ 2,1%) [78, tr.14].
Công tác kiến nghị, kháng nghị:
Kiến nghị: Các VKSND ban hành được nhiều kiến nghị và được chấp nhận tỷ lệ cao:
VKSND hai cấp Thành phố Hồ Chí Minh ban hành 655 kiến nghị, VKSND hai cấp tỉnh
Nghệ An ban hành 384 kiến nghị, VKSND hai cấp tỉnh Quảng Ninh ban hành 319 kiến
nghị, VKSND hai cấp Thành phố Hà Nội ban hành 307 kiến nghị, VKSND hai cấp tỉnh
Tiền Giang ban hành 244 kiến nghị. VKSND cấp cao tại Hà Nội ban hành 101 kiến nghị,
Tòa án và các cơ quan, tồ chức hữu quan cơ bản đã chấp nhận, tiếp thu sửa chữa, khắc phục
vi phạm...
Kháng nghị: số lượng, chất lượng kháng nghị của VKSND các cấp ngày càng tăng
và được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ kháng nghị được Hội đồng xét xử chấp nhận vượt chỉ tiêu theo
quy định của Ngành và yêu cầu của Quốc hội.
Thực hiện quyền yêu cầu: BLTTDS năm 2015 đã mở rộng và quy định cụ thể
17
quyên yêu câu của Viện kiêm sát, Viện trưởng VKSND, Kiêm sát viên trong quá trình
kiểm sát giải quyết vụ việc dân sự. VKSND các cấp luôn chú trọng thực hiện tốt quyền
yêu cầu trong tố tụng dân sự, kết quả thực hiện các yêu của Viện kiểm sát Tòa án đã
khắc phục kịp thời những thiếu sót từ khi thụ lý vụ việc và hạn chế vi phạm dẫn đến kiến
nghị và kháng nghị.
Đa số Tòa án nhân dân, các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện chuyển hồ sơ, tài liệu
thu thập được cho VKS đúng theo quy định, kịp thời.
3.1.2. Nhũng hạn chế, bất cập và nguyên nhãn của nhũng hạn chế, bất cập.
3.1.2. ỉ. Hạn chế, bất cập
Thứ nhất: về kiểm sát việc thụ lý và việc tiếp cận hồ sơ, tài liệu, chứng cứ.
Thiếu cơ chế cho Kiếm sát viên có thê tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự ngay
từ ban đầu. BLTTDS chưa quy định khi Tòa án nhận đơn khởi kiện phải thông báo cho
Viện kiêm sát để Kiểm sát viên kiểm sát thụ lỷ đơn khởi kiện được kịp thời, gây rất nhiều
khó khăn cho Kiểm sát viên.
Thứ hai: về thời hạn nghiên cứu hồ sơ vụ án
Tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS năm 2015 quy định “...Trường hợp Viện kiểm sát
tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật này thì Tòa án phải gửi
hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiềm sát cùng cấp; trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Viện kiểm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ
cho Tòa án”. Trên thực tế trong hạn 15 ngày, Kiểm sát viên thực hiện rất nhiều thủ tục nên
đối với những vụ án phức tạp thì khoảng thời gian 15 ngày là không đù để Kiểm sát viên
có thể hồn thành việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách tồn diện.
Thứ ba: về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2015 quy định: “Viện kiêm sát tham gia các phiên
họp sơ thâm đôi với các việc dân sự; phiên tịa sơ thâm đơi với những vụ án do Tòa án tiên
hành thu thập chứng cứ hoặc đổi tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng,
quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc cỏ đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vỉ dân sự, người hị hạn chế năng lực hành vỉ dân sự, người có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vì hoặc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này”. Tuy
nhiên, tại khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 quy định về việc có mặt của Kiểm sát
viên: “Kiếm sát viên được Viện trưởng Viện kiêm sát cùng căp phản cơng có nhiệm vụ
tham gia phiên tịa; nếu Kiếm sát viên Vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử,
khơng hỗn phiên tòa”.
Điều luật quy định như trên đối với Kiếm sát viên là bất cập, vỉ nếu trong trường hợp
Kiềm sát viên vắng mặt dù có hay khơng có lý do chính đáng Hội đồng xét xử vẫn tiến
hành xét xử mà khơng hỗn phiên tịa, điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ
kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa cùa Viện kiểm sát, ảnh hưởng đến vị trí,
vai trị của VKSND trong tố tụng dân sự khi phiên tòa, phiên họp được xét xử cơng khai, có
sự tham gia của người dân.
Hiến pháp quy định Viện kiếm sát nhân dân bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân,
lợi ích họp pháp của tổ chức, cá nhân. Nhưng tại khoản 2 Điều 21 BLTTDS đã là thu hẹp
phạm vi thẩm quyền cùa Viện kiếm sát trong tố tụng dân sự, Kiếm sát viên chỉ được tham
18
gia một sơ phiên tồ, phiên họp theo quy định: “Viện kiêm sát tham gia các phiên họp sơ
thẩm đối vói các việc dãn sự; phiên tịa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành
thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng, quyền sử
dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người cỏ khỏ khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vỉ hoặc trường hộp quy định tại khoản 2 Điều 4 của bộ luật này Như vậy sẽ
không thể thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ của Viện kiểm sát và tinh thần của Hiến pháp
năm 2013.
Thứ tư: Trong công tác kiêm sát biên bản phiên tịa.
Thực tế, hầu hết biên bản phiên tịa khơng được Thư ký phiên tịa hồn thiện ngay sau
khi tun án, những người có quyền xem biên bản muốn xem phải chờ đến ngày khác, nếu
kiểm tra ngay sau khi kết thúc phiên tịa thơng thường Thư ký sẽ cho xem bản viết chưa
chỉnh sửa hay xem trên máy vi tính. Sau khi kết thúc phiên tịa một thời gian thì Thư ký
mới hồn chỉnh biên bản phiên tịa lúc đó Kiếm sát viên mới kiếm tra bản chính thức và so
sánh với bút ký phiên tòa mà Kiểm sát viên lập để xác định biên bản phiên tịa có đúng với
diễn biến phiên tịa hay khơng. Như vậy Kiểm sát viên phải kiểm sát biên bản phiên tòa
hai lần (lần 1 ngay sau khi kết thúc phiên tòa, lần hai sau khi Thư ký hồn thiện có chữ
ký, đóng dấu của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa).
Kiểm sát biên bản phiên tòa là trách nhiệm của Kiểm sát viên tham gia phiên tịa và
khơng có quy định Tịa án sẽ chuyền hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp sau khi xét xử, nên
việc photocopy biên bản phiên tòa hoặc xem biên bản phiên tòa sau khi xét xử cịn nhiều
khó khăn bất cập; nếu phát hiện vi phạm hầu hết trao đồi, khó có căn cứ kiến nghị.
Để thực hiện được quy định trên, cần sự phối hợp của Tòa án nhưng trong các quy
định BLTTDS năm 2015 và các Thơng tư liên tịch số 02/2016 chưa có quy định phối hợp
giữa hai Ngành trong việc kiểm sát biên bản phiên tịa như có cần chữ ký của Thư ký,
Thẩm phán hay Hội đồng xét xử không, đồng thời cũng khơng có biện pháp chế tài nếu
Tịa án không phối hợp thực hiện đúng quy định.
Thứ năm: về cơ sở vật chất.
Trang thiết bị, cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, số lượng hồ sơ rất lớn
nhưng được cấp kinh phí, văn phịng phẩm không đủ, việc quản lý, lưu trữ hồ sơ không
bảo đảm; trang thiết bị (máy phô tô, máy in) rất ít, thường xuyên hư hỏng; phần mềm
quản lý án, quản lý đơn, số hố hồ sơ, hệ thống hóa văn bản cịn chưa hồn thiện cũng
phần nào ảnh hưởng đến hiệu quả công tác.
3.1.2.2. Nguyên nhãn của những hạn chế, bất cập
Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự đạt được nhiều kết quả tích cực,
tuy nhiên, cũng cịn khơng ít những hạn chế, tồn tại như đã nêu ở trên. Hạn chế, tồn tại đó
xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
a) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất: Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành đã có sự đổi mới, nhưng chưa mạnh
mẽ, đồng bộ, tiến bộ. vẫn xảy ra tình trạng một số đơn vị Viện kiếm sát địa phương chưa
thực hiện đầy đù quy định về viện trưởng Viện kiểm sát trực tiếp phụ trách công tác kiểm
sát việc giải quyết vụ việc dân sự, chưa quan tâm đủng mức, chưa sâu sát, toàn diện, chưa
19
đề cao trách nhiệm trong việc chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra công tác kiếm sát việc giải quyết
các vụ việc dân sự.
Thứ hai: Công tác cán bộ ở Viện kiểm sát nhân dân các cấp chưa đáp ứng kịp yêu
cầu công việc; số biên chế Kiểm sát viên, công chức chưa tương ứng với số lượng vụ việc
dân sự đơn vị thụ lý, kiểm sát viên giải quyết.
Việc sắp xếp, bố trí Kiểm sát viên, cơng chức làm cơng tác kiểm sát việc quyết các
vụ việc dân sự chưa ổn định, chưa mang tính chun sâu cịn kiêm nhiệm những nhiệm vụ
khác, thường xảy ra ở Viện kiểm sát nhân dân Cấp huyện. Thường xuyên có sự luân chuyền,
điều động và bố trí người mới được bồ nhiệm Kiếm sát viên hoặc cơng chức mới được
tuyển dụng, do đó kinh nghiệm cịn hạn chế, chưa đủ thời gian tích lũy được kinh nghiệm
trong lĩnh vực công tác này, trong khi đó lĩnh vực kiểm sát các vụ việc dân sự là lĩnh vực
khó, được điều chỉnh bởi các chính sách và hệ thống pháp luật đa dạng, phức tạp.
Thứ ba: Tinh thần, trách nhiệm của một số Kiểm sát viên chưa cao, chưa tự học tập,
rèn luyện kỹ năng chun mơn nghiệp vụ. vẫn cịn tình trạng Kiếm sát viên khi nghiên cứu
hồ sơ, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, phiên họp trách nhiệm chưa cao, có
những vi phạm của Tịa án về tố tụng, về nội dung Kiếm sát viên không phát hiện được đế
ban hành kháng nghị.
Thứ tư: Kiểm sát viên kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án chất lượng hiệu quả
chưa cao, chưa kịp thời phát hiện hết các vi phạm, nhất là vi phạm về nội dung để thực hiện
thẩm quyền kháng nghị, kiến nghị.
Thứ nãm: vẫn còn biểu hiện nể nang, ngại va chạm, Kiểm sát viên đã không kịp thời
báo cáo lãnh đạo Viện để thực hiện thẩm quyền kiến nghị, kháng nghị khi phát hiện vi phạm
(thường hay xảy ra khi Tòa án còn vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho Viện kiểm
sát, nên Kiểm sát viên khơng có đủ thời gian nghiên cứu, đến khi phát hiện vi phạm thì thời
hạn kháng nghị phúc thẩm cùa hai cấp đã hết theo quy định của pháp luật) mà chỉ dừng lại ở
việc trao đồi, góp ý sửa chữa, dẫn đến vi phạm kéo dài, khơng có biện pháp khắc phục.
b) Ngun nhân khách quan.
Thứ nhất: Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác đầu tư ngày càng sâu rộng, q trình đơ thị hóa diễn
ra mạnh mè dẫn đến gia tăng các quan hệ tranh chấp với tính chất ngày càng phức tạp, xuất
hiện nhiều loại quan hệ tranh chấp mới.
Thứ hai: Hệ thống pháp luật về dân sự rất lớn, phức tạp, thay đối qua các thời kỳ, vàn
bản pháp luật về đất đai rất phong phú, phức tạp, giữa các văn bản pháp luật khác nhau còn
nhiều quy định chồng chéo, một số quy định của các Bộ luật mới ban hành chưa được
hướng dẫn kịp thời. Một số điều trong BLTTDS năm 2015 quy định cịn mang tính chung
chung: ' 'các tranh chấp khác”, "các yêu cầu khác” hoặc ' 'các trường họp khác”, "Các
trường họp khác theo quy định của pháp luật”. Đe xác định thế nào là "khác” trong các quy
định còn chưa thống nhất do các cơ quan có thẩm quyền chưa kịp thời giải thích, hướng dẫn
cụ thể dẫn đến cách hiểu khác nhau và áp dụng còn tùy nghi.
Thứ ba: Một số cơ quan, tố chức liên quan không thực hiện đúng, đầy đủ, kịp thời
yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ cùa Tòa án, Viện kiểm sát, cá biệt cịn có việc khơng
phản hồi u cầu dẫn tới một số vụ án thời gian giải quyết phải kéo dài, phải tạm đình chỉ
20
hoặc hỗn phiên tịa nhiều lần.. .Do đó, đã tác động không nhỏ đến tiến độ, chất lượng kiếm
sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.
Thứ tư: về thực hiện chủ trương tinh giản biên chế của Ngành:
Số lượng công chức {nhất là chỉ tiêu Kiêm sát viên cao cấp ở Viện kiêm sát cấp cao)
được bố trí, sắp xếp thực hiện công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự không
đáp ứng được với số lượng vụ việc dân sự, ngày một gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp,
nhất là tranh chấp trong các lĩnh vực đất đai, tài chính, ngân hàng, đầu tư, các vụ việc có
yếu tố nước ngồi... giá trị tài sản tranh chấp, yêu cầu bồi thường thiệt hại ngày càng lớn,
lên đến hàng ngàn tỳ đồng, đặc biệt ở các tỉnh, thành phố lớn như Thành phố Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phịng...,
3.2. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị
pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng dân sự.
Thứ nhất: về kiểm sát việc thụ lý và việc tiếp cận hồ sơ, tài liệu, chứng cứ.
Từ bất cập ở trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 192
BLTTDS, theo đó, Tồ án phải gửi Thơng báo trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu kèm theo
bản sao các tài liệu, chứng cứ cho Viện kiếm sát cùng cấp.
Ngoài ra, tác giả kiến nghị bổ sung quy định về việc tham gia trực tiếp của đại diện
Viện kiểm sát trong hoạt động thẩm định tại chỗ và định giá tài sản.
Thứ hai: về thời hạn nghiên cứu vụ án.
Từ bất cập ở trên, tác giả kiến nghị sửa đổi bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 220
BLTTDS 2015 về thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát theo hướng tăng thời gian
nghiên cứu hồ sơ của Kiêm sát viên như sau: “Trường họp Viện kiêm sát tham gia phiên toà
theo quy định tại khoảng 2 Điều 21 của Bộ luật này thì Tồ án phái chuyến hồ sơ vụ án
cùng quyết định đưa vụ án cho Viện kiểm sát cùng Cấp trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ, Viện kiêm sát phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ cho Toà án, trường hợp vụ
án phức tạp thì thời hạn trên được kéo dài nhưng không quá 30 ngày”.
Thứ ba: về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên Tồ.
Tại khoản 1 Điều 232, khoản 1 Điều 296, khoản 1 Điều 367 BLTTDS năm 2015
hiện nay quy định: “Kiêm sát viên được phản cơng tham gia phiên tịa, phiên họp (sơ thâm
hoặc phúc thâm) mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử, khơng hỗn
phiên tòa, trừ trường họp Viện kiêm sát khảng nghị phúc thám ”. De KSV có thể thực hiện
tốt nhiệm vụ kiếm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, tác giả kiến nghị sửa đối theo
hướng như sau: ...nếu Kiếm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hỗn phiên tịa,
phiên họp và Kiểm sát viên chỉ được vắng mặt 01 lần.
Tác giả cũng kiến nghị mở rộng phạm vi tham gia phiên tòa sơ thẩm của KSV theo
hướng sửa đổi khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2015 theo hướng như sau: “Viện kiêm sát
nhãn dân tham gia các phiên họp, phiên tòa sơ thăm đối với các vụ việc Dãn sự, Hơn nhân
gia đình, Kỉnh doanh thương mại, Lao động”.
Thứ tư: Trong công tác kiểm sát biên bản phiên tồ.
Từ bất cập đã phân tích ở trên, tác giả kiến nghị bổ sung khoản 4 Điều 236
BLTTDS theo hướng Kiểm sát viên có quyền được ghi âm, ghi hình có âm thanh về diễn
biến phiên tồ.
A •
.• • •
21
Tác giả cũng kiên nghị bô sung các quy định bảo đảm cho Kiêm sát viên kiêm sát
biên bản phiên tòa, phiên họp như quy định về gửi biên bản phiên tòa, phiên họp cho Viện
kiểm sát trong trường hợp biên bản chưa được hoàn thành ngay sau khi kết thủc phiên tịa,
phiên họp để thực hiện cơng tác kiểm sát, quy định về lập và ký biên bản kiểm sát biên bản
phiên tòa, phiên họp.
KÉT LUẬN CHƯƠNG 3
Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng Dân sự đã được xác định khá đầy đủ
trong các quy định pháp luật hiện hành, từ các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự,
nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác,... Tuy nhiên
các quy định này cần được hoàn thiện và xây dựng cụ thể hơn để xác định đúng và rồ hơn
địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong các hoạt động tố tụng Dân sự.
Trong thực tiễn việc thực hiện các hoạt động tố tụng Dân sự của Kiềm sát viên và
theo số liệu báo cáo thực tiễn 5 năm thi hành BLTTDS được nói đến ở Chương 3 mục 3.1.1,
toàn ngành Kiểm sát đã triến khai, thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và đạt được nhiều
kết quả tích cực trong cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, góp phần bảo vệ
pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích cùa Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn cịn một số bất cập, tồn tại trong việc thực
hiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý cùa Kiểm sát viên. Trên cơ sở chỉ ra những bất
cập, tồn tại và các nguyên nhân của chúng, luận văn đề xuất các kiến nghị nhằm khắc phục
những bất cập, tồn tại đó và tiếp tục hồn thiện hơn địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong
tốt tụng Dân sự, góp phần nâng cao chất lượng chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát trong
tố tụng Dân sự.
22