Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc phòng an ninh thuộc tổng cục công nghiệp quốc phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.38 KB, 105 trang )

1
M U
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sut quỏ trình lãnh đạo cách mạng hơn 83 năm qua, Đảng Cộng
sản Việt Nam luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là khâu then chốt trong công
tác xây dựng Đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định "cán bộ là gốc
của mọi công việc". Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng tỏ rằng, mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ,
cũng như trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh cơng nghiệp
hố, hiện đại hố (CNH, HĐH) đất nước, cán bộ ln giữ vai trị quyết định.
Ngày nay, Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển mới với mục
tiêu phấn đấu trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang đi vào chiều sâu, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra trực tiếp và ngày
càng mở rộng, đất nước vừa có nhiều thời cơ, thuận lợi vừa có nhiều thách
thức gay gắt. Việc phát triển nhanh, bền vững đất nước; bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ đặt ra cho Đảng ta những yêu cầu mới, rất
cao, đòi hỏi phải vươn lên đáp ứng. Đây là trọng trách lịch sử đã được nhân
dân và dân tộc tin tưởng giao phó cho Đảng Cộng sản Việt Nam và được ghi
vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Nhận thức sâu sắc trách nhiệm của mình trước đất nước, dân tộc, Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước là:
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ Trung ương đến cơ
sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản
lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ
về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và
vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm
vụ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên
chủ nghĩa xã hội [10, tr.80].



2
Mục tiêu đó địi hỏi đội ngũ cán bộ có chất lượng mới. Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IX cũng xác định: “Thực hiện mạnh mẽ chủ
trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, thể chế hoá và từng bước nhất thể hoá chức
danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức ở cơ sở” [17, tr.141].
Tiếp thu và kế thừa những kết quả đã làm được về công tác cán bộ của
Đảng trong những năm qua, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững
vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu
cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ...” [19].
Để làm tốt công tác cán bộ, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ
nhiều nội dung, nhiều khâu, nhưng một trong những nội dung trọng yếu là
công tác quy hoạch cán bộ, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành
Trung ương (khố VIII) nêu rõ: “Cơng tác quy hoạch cán bộ là một nội dung
trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp,
chủ động có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài” [11,
tr.66] Có làm tốt công tác quy hoạch cán bộ mới từng bước nâng cao được
chất lượng, đảm bảo số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ; đảm bảo tính liên tục,
kế thừa và phát triển, tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá và không
đồng bộ trong công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ sẽ tạo cơ
sở, điều kiện, tiền đề để làm tốt các nội dung khác trong công tác cán bộ như:
Đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu cán
bộ ứng cử và thực hiện chính sách cán bộ. Khắc phục tình trạng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ tràn lan, khơng có trọng tâm, trọng điểm; lúng túng trong lựa
chọn, phân cơng, bố trí cán bộ…
Đội ngũ cán chủ chốt trong quân đội (ĐNCBCC) nói chung và đội ngũ
cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc phòng an ninh (QPAN) thuộc Tổng
cục Cơng nghiệp quốc phịng (Bộ Quốc phịng) nói riêng là một bộ phận cán



3
bộ quan trọng của đất nước, là vốn quý của quân đội, được đào tạo cơ bản
trong và ngoài nước, có trình độ học vấn và chun mơn cao về ngành cơng
nghiệp quốc phịng (CNQP), có q trình gắn bó với thực tiễn sản xuất,
nghiên cứu khoa học, kinh doanh trong lĩnh vực quân sự, có năng lực hoạt
động tốt, trực tiếp kế thừa và phát huy kinh nghiệm của các thế hệ cán bộ đi
trước, đã và đang có nhiều đóng góp tốt cho sự nghiệp chiến đấu, phục vụ
chiến đấu và xây dựng quân đội. Hàng năm Tổng cục Cơng nghiệp quốc
phịng (CNQP) thường xun được bộ Quốc phòng bổ sung nhiều cán bộ trẻ,
mới tốt nghiệp được tuyển chọn ở các trường đại học trong và ngoài qn đội,
nhìn chung về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, nắm
bắt công việc nhanh, nhiệt huyết, sáng tạo…và là nguồn đội ngũ cán bộ trẻ kế
cận, có chất lượng cho ngành CNQP.
Để đảm bảo đội ngũ cán bộ trong Tổng cục CNQP nhất là đội ngũ cán
bộ chủ chốt (ĐNCBCC) trong các doanh nghiệp QPAN kế cận, có chất lượng,
có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng trong sáng, phát huy được năng
lực, chuyên môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ
của Tổng cục CNQP thời kỳ mới hiện nay, địi hỏi phải thực hiện tốt cơng tác
cán bộ, đặc biệt là công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt (QHCBCC)
các cấp trong doanh nghiệp QPAN.
Quán triệt những quan điểm của Đảng, từ nhiều năm nay Ban Thường vụ
(BTV) Đảng ủy Tổng cục CNQP đã quan tâm và tập trung lãnh đạo công tác
quy hoạch đội ngũ cán bộ trong Tổng cục nói chung và cơng tác QHCBCC
trong các doanh nghiệp QPAN nói riêng, do đó cơng tác quy hoạch đội ngũ
cán bộ đã từng bước đi vào nền nếp, đạt được kết quả bước đầu: xây dựng
được một đội ngũ cán bộ trẻ có triển vọng, bổ sung góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nói chung của Tổng cục, đa số cán bộ trẻ được quy
hoạch có ý thức phấn đấu rèn luyện tốt, được cấp ủy, lãnh đạo trong Tổng cục

đánh giá cao, góp phần làm tốt cơng tác cán bộ của Tổng cục. Tuy vậy công


4
tác quy hoạch đội ngũ cán bộ ở Tổng cục CNQP trong thời gian qua cũng bộc
lộ khơng ít những thiếu sót, khuyết điểm cần sớm được khắc phục như: Quy
hoạch cán bộ thiếu tầm nhìn xa, chưa thật bảo đảm về các nguyên tắc trong
quy hoạch, còn hạn chế về việc thực hiện đúng quy trình, phương pháp quy
hoạch, điều kiện cán bộ đưa vào nguồn quy hoạch chưa sâu sắc nên kết quả
phát hiện, giới thiệu nguồn không tập trung; một số trường hợp không đủ cơ
sở để tham khảo, nghiên cứu đề xuất phương án quy hoạch, chưa thực hiện tốt
yêu cầu “động” và “mở” trong quy hoạch cán bộ; Nguồn cán bộ ở các lớp còn
mỏng, chưa đồi dào, ở một số đơn vị còn thiếu, chưa đủ cán bộ để sắp xếp đủ
theo biên chế; độ tuổi cán bộ trong nguồn quy hoạch còn cao, cá biệt có một
số vị trí cán bộ đã hết tuổi phục vụ tại ngũ theo cấp bậc hoặc trong quy hoạch
cịn mang tính khép kín; trình độ đào tạo ở một số vị trí chưa tương xứng với
chức danh đảm nhiệm, chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD);
số lượng cán bộ trong nguồn quy hoạch được cử đi đào tạo, bồi dưỡng còn
hạn chế.
Xuất phát từ yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới đất nước, u
cầu, nhiệm vụ chính trị của Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng, tơi mạnh dạn
chọn đề tài “Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc phòng
an ninh thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng” làm luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ chuyên ngành xây dựng Đảng, tại Học Viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến lun vn
Quy hoch là một khâu rất quan trọng trong công tác cán bộ. Vì thế đã
được nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều nhà khoa học, nhà hoạt động thực
tiễn quan tâm tiếp cận vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau, cụ thể là:
- Trần Đình Hoan: "Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cấn bộ lãnh đạo


quản lý thời kỳ công nghiệp hố, hiện đại hố đất nước”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2009.


5
- Cao Khoa Bảng: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Xây dựng đội

ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị cấp tỉnh, thành phố'”
(qua kinh nghiệm của Hà Nội), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
- Phạm Minh Phúc: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Cơng tác quy

hoạch cán bộ chủ chốt diện Ban Thường vụ Thành uỷ thành phố cần Thơ
quản lý trong giai đoạn hiện nay ”, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2008.
- Trần Thị Thanh Nhàn: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Quy

hoạch đội ngũ cấn bộ chủ chốt thuộc diện Ban Thường vụ Quận uỷ Hoàng
Mai, thành phố Hà Nội quản lý giai đoạn hiện nay ”, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
- Hoàng Nguyên Hoà: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Chất lượng

quy hoạch đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đông Bắc Bộ nước ta
giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2007.
- Vĩnh Trường: “Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở”, Tạp

chí Xây dựng Đảng số 1, 2006
- Nguyễn Ngọc Lâm: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Quy hoạch

đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt thuộc diện trung ương quản lý ở các tỉnh,

thành phố phía Bắc nước ta giai đoạn hiện nay ”, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006.
- Trần Đình Hoan: “Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, qiiản lý thời kỳ đẩy

mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Cộng sản số 33,2003.
- Hà Đăng: “Về vấn đề cán bộ và quy hoạch cán bộ”, Tạp chí Cộng sản

số 8, 2003.
- Nguyễn Duy Hùng: “Mối quan hệ giữa đánh giá, quy hoạch, đào tạo

và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 5,2003.
- Ngô Kim Ngân: “Công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ

thống chính trị - một số giải pháp chủ yếu ”, Tạp chí Lịch sử Đảng số 6,2002.


6
- Tô Huy Rứa: “Xây dựng và thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ

trong thời kỳ mới ”, Tạp chí Cộng sản số 3, 1999.
- Thiếu tướng, TS Vũ Văn Đức, Chính uỷ Học viện Hậu cần với bài: “

Học viện hậu cần- Quy hoạch cán bộ chủ trì”, Tạp chí Xây dựng Đảng số 4,
2012.
- Nguyễn Xn Lập: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Quy hoạch đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội trong giai
đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006.
- Nguyễn Thị Thắng: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị “Cơng tác
Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp quận, huyện thuộc diện Ban Thường
vụ Thành uỷ Hà Nội quản lý trong giai đoạn hiện nay”, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2006:
- Trần Minh Thấu: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, “Cơng tác quy
hoạch và đào tạo cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Đồng Nai trong giai đoạn hiện
nay”, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000.
- Trần Cát Điền: Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, “Cơng tác quy
hoạch cán bộ chủ chốt cấp quận thuộc diện Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh quản lý trong giai đoạn hiện nay” Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2005.
Các cơng trình khoa học nêu trên, khá đa dạng, phong phú, đã làm rõ
cơ sở khoa học của công tác QHCBCC đã phân tích đánh giá thực trạng cơng
tác quy hoạch cán bộ ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực khác nhau và đã đưa
ra các giải pháp chủ yếu, đồng bộ khả thi về các lĩnh vực đó.
Tuy nhiên, cho đến nay ở Tổng cục CNQP chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về Quy hoạch cán bộ chủ chốt trong doanh
nghiệp QPAN Tổng cục CNQP. Vì vậy, tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm
luận văn tốt nghiệp cao học với mong muốn góp phần luận giải những vấn đề


7
lý luận và thực tiễn đặt ra.
3. Mơc ®Ých, nhiƯm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Mc ớch ca luận văn là làm rõ những cơ sở khoa học Quy hoạch cán
bộ chủ chốt trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP; luận văn đề xuất
những giải pháp nhằm thực hiện tốt quy hoạch cán bộ chủ chốt trong doanh
nghiệp quốc phòng an ninh thuộc Tổng cục CNQP giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác QHCBCC trong doanh
nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP.
- Đánh giá đúng thực trạng ĐNCBCC và QHCBCC từ năm 2005 đến

nay; chỉ ra nguyên nhân những ưu điểm, tồn tại thiếu sót, rút ra những kinh
nghiệm trong quy hoạch cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp QPAN thuộc
Tổng cục CNQP.
- Nêu phương hướng và đề xuất những giải pháp thực hiện tốt công
tác quy hoạch cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục
CNQP đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Quy hoạch cán bộ chủ chốt
trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu, khảo sát công tác quy hoạch cán bộ chủ chốt
trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP thời gian từ năm 2005 đến
nay, các giải pháp có giá trị đến năm 2020.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên
cứu của luận văn


8
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, về cán bộ
và công tác cán bộ. Luận văn dựa vào các chỉ thị, nghị quyết, báo cáo và
hướng dẫn của Bộ Quốc phịng, Tổng cục Chính trị, Tổng cục CNQP về công
tác cán bộ.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn QHCBCC
trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP thời gian từ năm 2005 đến
nay và tham khảo các báo cáo sơ kết, tổng kết hàng năm của các doanh
nghiệp QPAN.

5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, đồng thời luận văn còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chun ngành như: phân tích và tổng hợp, lơgíc lịch sử, thống kê, so sánh, đặc biệt chú trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm quan niệm về quy hoạch
cán bộ nói chung, QHCBCC trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục
CNQP hiện nay nói riêng.
- Đề xuất những giải pháp khả thi có chất lượng để nâng cao chất
lượng QHCBCC trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP trong giai
đoạn hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc QHCBCC trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP nói
riêng; đồng thời đề tài cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục
vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu về công tác chính trị, tư tưởng ở hệ
thống các nhà trường quân đội.


9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUY HOẠCH
CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG DOANH NGHIỆP QUỐC PHỊNG
AN NINH THUỘC TỔNG CỤC CƠNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG
1.1. DOANH NGHIỆP, ĐẢNG BỘ CÁC DOANH NGHIỆP VÀ ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG DOANH NGHIỆP QUỐC PHỊNG AN NINH
THUỘC TỔNG CỤC CƠNG NGHIỆP QUỐC PHỊNG


1.1.1. Khái quát doanh nghiệp và đảng bộ doanh nghiệp quốc
phòng an ninh thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng
1.1.1.1. Khái qt tình hình, đặc điểm của doanh nghiệp quốc
phịng an ninh thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng
- Tình hình chung và hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp quốc phịng an ninh thuộc Tổng cục
Cơng nghiệp quốc phòng
CNQP, tiền thân là Phòng Quân giới, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
quyết định thành lập ngày 15-9-1945. Trải qua hai cuộc kháng chiến bảo vệ
Tổ quốc, cùng với sự phát triển của Quân đội, ngành quân giới đã không
ngừng lớn mạnh và trưởng thành; Quân giới luôn khẳng định được vị trí, vai
trị, đáp ứng nhu cầu cấp thiết của cuộc kháng chiến. Từ khi thành lập, tổ chức
quy mơ cịn hạn chế, đến nay CNQP đã kiện toàn về tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ. Lực lượng CNQP bao gồm CNQP nòng cốt và các cơ sở CNQP
dân sinh tham gia hoạt động CNQP. Hệ thống tổ chức CNQP tương đối đồng
bộ gồm: các cơ quan chỉ đạo, quản lý; các viện nghiên cứu; các doanh nghiệp,
nhà máy và các cơ sở đào tạo. CNQP đã sản xuất được các loại vũ khí cho sư
đồn bộ binh, sửa chữa, cải tiến được nhiều loại vũ khí, phương tiện đã có


10
trong Quân đội. Năng lực sản xuất kinh tế cũng được phát huy tốt. Nhà nước
đã ban hành pháp lệnh về CNQP, xác định CNQP là một bộ phận của công
nghiệp quốc gia, đồng thời là một phần quan trọng của thực lực và tiềm lực
quốc phòng - an ninh.
Doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP được thành lập theo yêu
cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo về Tổ quốc, tiền thân là các xưởng quân
giới và các xí nghiệp, nhà máy sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị quân sự
trong kháng chiến chống Pháp, Mĩ; được tổ chức, quản lý và hoạt động trong

khuôn khổ các quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước, các Nghị định
hướng dẫn thực hiện Luật của Chính phủ, các quy định của Bộ Quốc phòng.
Từ ngày 1-7-2010, Luật Doanh nghiệp Nhà nước 2003 hết hiệu lực, các công
ty Nhà nước, các cơng ty (doanh nghiệp) phục vụ quốc phịng - an ninh được
tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 dưới
hình thức là cơng ty trách nhiệm hữu hạn.
Thực hiện Chỉ thị số 75/2008/CT-BQP, ngày 29-5-2008 của Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng "Về việc triển khai thực hiện Quyết định 339/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp
100% vốn nhà nước thuộc Bộ Quốc phòng giai đoạn 2008 - 2010"; Hướng
dẫn số 825/HD-CT ngày 09-7-2008 về việc hướng dẫn hoạt động CTĐ,
CTCT trong sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp quân đội giai đoạn 2008- 2010".
Cùng với đó, Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng đã ban hành Chỉ thị số
3260/CT-CNQP, ngày 29-7-2008 "Về việc chuyển đổi các doanh nghiệp trực
thuộc Tổng cục theo Quyết định số 339/QĐ-TTg, ngày 31-3-2008 của Thủ
tướng Chính phủ". Đến trước thời điểm 01-7-2010, 22 doanh nghiệp QPAN
thuộc Tổng cục CNQP được chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên và công ty mẹ - cơng ty con (xem phụ lục 1).
VỊ tỉ chức và chức năng, nhiệm vụ
V hỡnh thc t chc sau khi chuyển đổi: Doanh nghiệp QPAN thuộc
Tổng cục CNQP là thuộc sở hữu nhà nước do Bộ Quốc phòng làm chủ sở


11
hữu, hoạt động theo hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Công ty được thành lập và hoạt động theo các quy định của pháp luật và Bộ
Quốc phịng. Cơng ty có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản bằng
tiền Việt Nam và ngoại tệ.
Về cơ cấu tổ chức quản lý của công ty: Tồn Tổng cục hiện nay có 22
doanh nghiệp QPAN trực thuộc là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

viên - cơng ty mẹ - cơng ty con, trong đó có 19 cơng ty có bộ máy tổ chức
quản lý gồm: Chủ tịch kiêm giám đốc cơng ty; kiểm sốt viên; các phó giám
đốc (trong đó có một chức danh phó giám đốc do chính ủy cơng ty kiêm
nhiệm); kế tốn trưởng; bộ máy giúp việc (các phịng, ban chun mơn nghiệp
vụ); các đơn vị thành viên. Có 01 tổng cơng ty và 2 cơng ty tổ chức theo hình
thức cơng ty mẹ - cơng ty con, có bộ máy tổ chức quản lý gồm: Hội đồng thành
viên - chủ tịch hội đồng thành viên kiêm tổng giám đốc; kiểm sốt viên; các phó
tổng giám đốc, trong đó có một chức danh phó tổng giám đốc do chính ủy tổng
cơng ty, kiêm nhiệm; kế toán trưởng; bộ máy giúp việc (các phịng, ban chun
mơn nghiệp vụ); các cơng ty con trực thuộc và các đơn vị thành viên.
Chức năng doanh nghiệp QPAN, có trách nhiệm bảo tồn và phát triển
vốn chủ sở hữu đầu tư tại cơng ty; giữ gìn và phát triển đội ngũ cán bộ, công
nhân lao động lành nghề và hoàn thành các nhiệm vụ về QPAN do Bộ Quốc
phòng, Tổng cục CNQP giao.
Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh: Sản xuất, sửa chữa, nghiên cứu, cải
tiến, đồng bộ các loại vũ khí, trang bị quân sự để phục vụ cho nhiệm vụ huấn
luyện, chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu của quân đội và các lực lượng vũ trang
nhân dân; sản xuất các loại vật tư chuyên dụng phục vụ sản xuất quốc phòng
và thực hiện các nhiệm vụ quân sự - quốc phòng theo chỉ lệnh của Bộ Quốc
phòng và Tổng cục giao.
Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh: Cùng với nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất
hàng quốc phòng, kết hợp với sản xuất hàng kinh tế, lấy sản xuất quốc phòng


12
là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, sản xuất kinh tế làm đòn bẩy để phát triển sản
xuất chung của các doanh nghiệp, tạo điều kiện nâng cao chất lượng cơng tác
quản lý, khai thác có hiệu quả trang bị máy móc hiện có, đồng thời tạo nguồn
lực cho nhiệm vụ phát triển CNQP.
Về cơ chế quản lý, điều hành hoạt động sản xuất- kinh doanh

Là một đơn vị quân đội tổ chức theo điều lệnh, điều lệ quân đội, đồng
thời vừa là một doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh, do đó doanh nghiệp
QPAN phải chịu sự tác động cùng một lúc của cả hai cơ chế: Cơ chế chỉ huy
hành chính - quân sự và cơ chế thị trường. Tính đặc thù này chỉ rõ, doanh
nghiệp phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: sản xuất quốc phòng theo kế
hoạch pháp lệnh và tham gia sản xuất, phát triển kinh tế theo sự điều tiết của
quy luật kinh tế thị trường. Sản xuất, phát triển kinh tế và sản xuất quốc
phòng là hai nhiệm vụ gắn chặt với nhau, là "bài tốn kép" mà các doanh
nghiệp QPAN ln phải tìm lời giải hợp lý.
Hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước, nên ngoài sự quản lý
trực tiếp của Tổng cục CNQP, các doanh nghiệp còn chịu sự quản lý, kiểm
tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước theo ngành ở địa phương như:
phải thực hiện đăng ký kinh doanh, chấp hành các quy định về mơi trường; an
ninh trật tự, phịng chống cháy nổ; thuế và các khoản đóng góp cho địa
phương theo quy định của pháp luật.
Hiện nay, cơ chế kinh doanh và yêu cầu phục vụ quốc phòng chưa
được phân chia một cách cụ thể, rõ ràng. Trên thực tế, do yêu cầu duy trì năng
lực thường xun để có thể nhanh chóng đáp ứng nhu cầu quốc phòng, một số
doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp có tính đặc thù về mặt kỹ thuật
cao, có những dây chuyền cơng nghệ đặc thù, chuyên dụng cho sản xuất quốc
phòng thường phải chấp nhận mức huy động năng lực sản xuất hàng dân sự
thấp hơn mức có thể. Các doanh nghiệp loại này hiện chỉ sử dụng trên dưới
20% năng lực sản xuất theo nhiệm vụ sản xuất quân sự.


13
Nếu khơng thể huy động năng lực cịn lại cho sản xuất dân sinh hoặc
mở hướng sản xuất hàng dân sinh bằng những dây chuyền công nghệ độc lập
sẽ tác động trực tiếp đến đời sống cán bộ, công nhân viên chức và người lao
động, khơng duy trì được năng lực sản xuất quốc phịng, thậm chí cịn bị

"chảy máu" chất xám trong một bộ phận cán bộ, công nhân kỹ thuật có tay
nghề cao, ở những lĩnh vực đặc thù.
Mặt khác, do nhiều năm hoạt động trong cơ chế tập trung bao cấp,
những ảnh hưởng của cơ chế chỉ huy hành chính - qn sự vẫn cịn in đậm
dấu n trong lối t duy, phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ,
công nhân viên các doanh nghiệp quân ®éi.
- Đặc điểm doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP
Các doanh nghiệp thuộc Tổng cục CNQP địa bàn đóng quân trên tất cả
mọi miền của tổ quốc (Bắc, Trung, Nam), hầu hết các doanh nghiệp được
hình thành và phát triển trong thời kỳ chiến tranh với nhiệm vụ sửa chữa, sản
xuất các trang thiết bị, khí tài, vật tư, vũ khí trang thiết bị kỹ thuật phục vụ
cho nhiệm vụ quốc phịng, trong đó một số doanh nghiệp được hình thành là
tiền thân các xưởng của ngành quân giới được trưởng thành và phát triển qua
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Sau hồ bình lập
lại các nhà máy thuộc ngành quân giới trước đây vẫn giữ vị trí vơ cùng quan
trọng và là lực lượng nịng cốt trong sản xuất vũ khí, trang thiết bị, khí tài
phục vụ cho nhiệm vụ quốc phịng. Sau một thời gian ổn định tổ chức các xí
nghiệp CNQP hoà vào trong một tổ chức rộng lớn hơn cả về mơ hình, nhiệm
vụ và tổ chức để thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu của giai đoạn mới đặt ra.
Tuy bước đầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển CNQP có gặp nhiều khó khăn,
cơng tác quản lý các xí nghiệp quốc phịng cịn chịu tác động của cơ chế bao
cấp, hầu hết các xí nghiệp chưa phát huy được khả năng vốn có của nó. Trải
qua các thời kỳ, cùng với sự phát triển chung của xã hội trên các lĩnh vực, các
xí nghiệp Quốc phịng của qn đội trên cơ sở đảm bảo cho nhiệm vụ quân
sự, bên cạnh huy động các cơ sở vật chất trang thiết bị kỹ thuật, vật tư, kỹ


14
thuật cần có phục vụ quốc phịng và làm kinh tế, nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh thực hiện theo Luật doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Các cơ sở sản

xuất của quân đội không những sản xuất hợp tác trong quân đội với nhau hoặc
trong nước mà có điều kiện cịn hợp tác kinh tế với nước ngồi...
Như trên đã nêu, Tổng cục CNQP có 22 đơn vị là doanh nghiệp QPAN
.Mơ hình biên chế, tổ chức của các doanh nghiệp được tiến hành xây dựng
theo chức năng, nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp cơ sở, thông qua các cơ quan
chức năng của Tổng cục CNQP xem xét trình Tổng cục thẩm định đề nghị Bộ
Quốc phòng (BQP) quyết định. Các quyết định về biên chế tổ chức các doanh
nghiệp thường xuyên có sự điều chỉnh, bổ sung theo yêu cầu nhiệm vụ phát
triển của mỗi doanh nghiệp. Ngược lại cũng có doanh nghiệp bị thu hẹp lại do
tính chất ngành nghề khơng cịn phù hợp, dây chuyền cũ chưa kịp thời có đầu
tư thoả đáng, dẫn đến sản phẩm chất lượng không cao, thị hiếu của thị truờng
lạc hậu, lương bình qn cơng nhân thấp.
Tổng qn số cả cán bộ, cơng nhân viên quốc phịng, hợp đồng lao
động của 22 doanh nghiệp đến nay có khoảng 20.000 người, mỗi doanh
nghiệp có khoảng trên, dưới 400 cán bộ, cơng nhân viên đang cơng tác. Có
nhiều doanh nghiệp do được hình thành và phát triển từ các nhà máy sản xuất
vũ khí trong thời kỳ chiến tranh, địa thế vùng rừng núi, đất đai rộng rãi, đến
nay các nhà máy này đã trở thành bản danh được kết nối từ bao thế hệ, các hệ
thống đường, trường trạm trang hoàng như những thị trấn nhỏ, khu gia đình
các nhà máy này như một thế giới thu nhỏ, có đầy đủ các hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hố- xã hội.
1.1.1.2. Đảng bộ các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh thuộc Tổng
cục Cơng nghiệp quốc phịng
- Vai trị, vị trí của các Đảng bộ doanh nghiệp quốc phòng, an ninh
thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng
Trong Điều lệ (Điều 5) tổ chức và hoạt động của các công ty trách


15
nhiệm hữu hạn một thành viên trực thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng

quy định: “Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong công ty hoạt động theo
pháp luật và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam”; “Tổ chức chính trị - xã hội
trong Công ty hoạt động theo pháp luật và điều lệ của tổ chức mình phù hợp
với các quy định của pháp luật, quy định của Bộ Quốc phòng”. Hướng dẫn số
825/HD-CT ngày 09-7-2008 của Tổng cục Chính trị về CTĐ, CTCT trong sắp
xếp đổi mới doanh nghiệp quân đội giai đoạn 2008-2010 đã hướng dẫn: Sau
khi có quyết định chuyển đổi doanh nghiệp sang hoạt động theo mơ hình cơng
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty mẹ - công ty con về chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ công ty thực hiện theo Quy định số 114QĐ/TW ngày 20-8-2004 của Ban Bí thư Trung ương (khóa IX) quy định chức
năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp quân đội; về
công tác cán bộ thực hiện theo quy chế công tác cán bộ của đảng ủy Quân sự
Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương).
Đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp QPAN có q trình hình thành và
phát triển gắn liền với quá trình hành thành và phát triển của chính doanh
nghiệp đó, đồng thời gắn liền với q trình xây dựng và kiện tồn tổ chức
đảng ở các doanh nghiệp trong Tổng cục. Đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp
QPAN có vị trí vai trị đặc biệt quan trọng trong hệ thống tổ chức đảng của
đảng bộ Tổng cục CNQP, là chủ thể lãnh đạo, nhân tố quyết định đến sự hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị, xây dựng và phát triển doanh nghiệp.
Là nơi trực tiếp triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết về xây dựng và
phát triển CNQP của đảng uỷ Tổng cục.
Đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo với phân công cá nhân
phụ trách; lấy tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển đảng.
Hiện nay đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục
CNQP do xuất phát từ sự khác nhau về số lượng đảng viên, cơ cấu tổ chức,


16
tính chất, đặc điểm nhiệm vụ và điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp, nên

đảng bộ cơ sở các doanh nghiệp này được tổ chức theo một hình thức cơ bản
là: đảng bộ cơ sở (hai cấp), gồm: 46 đảng bộ cơ sở; 342 chi bộ trực thuộc
đảng ủy cơ sở.
Đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục có số lượng
đảng viên đơng, trên 7.300 đảng viên, có tuổi đời trung bình là 42. Trình độ
chun môn nghiệp vụ cao đẳng, đại học trở lên đạt trên 50%. Hầu hết trong
số họ là những người lao động lâu năm, có kinh nghiệm, từng trải, có phẩm
chất và bản lĩnh chính trị vững vàng, ln tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, kỷ luật
quân đội và các quy định của đơn vị, của doanh nghiệp. Phần đông đảng viên
là con em với nhiều thế hệ đã và đang làm việc, cống hiến cho doanh nghiệp,
cho quân đội từ những năm kháng chiến cho đến ngày nay nên sự gắn bó, tình
u và trách nhiệm với doanh nghiệp, luôn là một cơ sở quan trọng cho sự ổn
định về tư tưởng của đội ngũ này. Đây chính là lực lượng tiên phong trong
lãnh đạo tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ ở doanh nghiệp.
Tuy nhiên, do tuổi đời, tuổi nghề cao lại bị ảnh hưởng bởi tư duy của
thời kỳ bao cấp; khơng ít đảng viên có trình độ tay nghề cao nhưng ít được
đào tạo cơ bản, chỉ thích ứng với yêu cầu của nhiệm vụ sửa chữa, nâng cấp vũ
khí, trang thiết bị của giai đoạn trước. Ngoài ra vấn đề chuyển đổi ngành
nghề, việc làm, thu nhập; những tác động trực tiếp của mặt trái cơ chế thị
trường, những tiêu cực của xã hội đang ảnh hưởng khơng nhỏ đến tư tưởng,
tình cảm của đảng viên trong doanh nghiệp.
- Cơ cấu tổ chức của các đảng bộ doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng
cục CNQP
Khác với các doanh nghiệp ngoài quân đội, doanh nghiệp QPAN thuộc
Tổng cục CNQP có một hệ thống tổ chức sự lãnh đạo theo chiều dọc từ cơ
quan chủ quản cấp trên xuống cơ sở. Phần lớn các đảng bộ cơ sở có cơ quan


17

chủ quản là đảng uỷ cấp trên trực tiếp, còn lại là trực thuộc Đảng uỷ Tổng
cục.
Tổng số cấp uỷ viên các cấp của đảng bộ cơ sở ở các doanh nghiệp là
1.253 đồng chí, trong đó đảng uỷ viên đảng bộ cơ sở là 415 đồng chí, chi uỷ
viên chi bộ trực thuộc là 838 đồng chí. Tuổi đời trung bình của cấp uỷ viên
các cấp trong đảng bộ cơ sở các doanh nghiệp là 45. Trình độ đại học trở lên
đạt trên 94%. Cấp uỷ viên các cấp ở các đảng bộ cơ sở đều được đạo tạo cơ
bản về chuyên môn nghiệp vụ, trưởng thành từ hoạt động thực tiễn tại doanh
nghiệp, đa số đều là cán bộ quản lý, nhiệt tình trách nhiệm cao trong cơng
việc. Đây là lực lượng nòng cốt quyết định đến chất lượng lãnh đạo của đảng
bộ cơ sở ở các doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục.
- Chức năng của các Đảng bộ doanh nghiệp QPAN thuộc
Tổng cục CNQP
Chức năng của các đảng bộ doanh nghiệp QPAN được thực hiện theo
đúng quyết định 114-/QĐTW ngày 20-08-2004 của Ban Bí thư về chức năng,
nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các doanh nghiệp Quân đội. Các
đảng bộ doanh nghiệp QPAN là hạt nhân chính trị lãnh đạo cơng tác, mọi mặt
hoạt động của doanh nghiệp mà trọng tâm là lãnh đạo doanh nghiệp hoạt động
sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; lãnh đạo xây dựng tổ chức Đảng trong sạch
vững mạnh, đội ngũ đảng viên có sức chiến đấu cao; xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện, từng bước đáp ứng những yêu cầu của Đảng đối với Quân
đội là chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
- Nhiệm vụ đảng bộ doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP
Cùng với việc thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của một đảng bộ
cơ sở trong quân đội, các đảng bộ cơ sở ở doanh nghiệp cịn có nhiệm vụ đặc
thù sau:
Chấp hành nghị quyết, chỉ thị mệnh lệnh của cấp trên, lãnh đạo thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị được giao, xây dựng đảng bộ trong sạch



18
vững mạnh, phát triển doanh nghiệp bền vững: Gồm lãnh đạo phát triển vốn
chủ sở hữu; lãnh đạo công tác quản lý chỉ huy bộ đội, giữ gìn và phát triển đội
ngũ cán bộ, công nhân lao động lành nghề.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất quốc phòng, an ninh, các nhiệm
vụ quân sự - quốc phòng theo chỉ lệnh, kết hợp việc quản lý khai thác cơ sở
vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để sản xuất kinh tế theo cơ chế thị trường bảo
đảm doanh nghiệp phát triển bền vững.
1.1.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc phịng an
ninh thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phòng
1.1.2.1. Khái niệm về cán bộ chủ chốt
- Khái niệm về cán bộ
Trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, cũng như trong
công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta thường quan tâm
đặc biệt tới vấn đề cán bộ.
Thuật ngữ cán bộ đã xuất hiện trong đời sống xã hội ở Việt Nam từ
sau khi có phong trào cách mạng theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lê nin.
Chỉ một lớp người là những chiến sĩ cách mạng, lớp người mới sẵn sàng chịu
đựng gian khổ, hy sinh gắn bó với nhân dân. Cho đến nay hai từ "cán bộ " đã
rất thân thuộc đối với những đảng viên cộng sản nói riêng và nhân dân Việt
Nam nói chung. Tuy nhiên khi nghiên cứu, đề cập đến khái niệm "cán bộ "
vẫn còn những ý kiến, quan điểm chưa đồng nhất.
Từ trước đến nay khái niệm cán bộ thường được dùng phổ biến trong
các nước XHCN, các tổ chức thuộc phong trào cộng sản và cơng nhân quốc
tế, cịn ở các nước phương Tây như: Mỹ, Anh, Pháp, Đức thường dùng khái
niệm công chức, ở Nhật dùng khái niệm quan chức. Theo Từ điển Từ Hải của
Trung Quốc, từ cán bộ được giải thích là: Xuất phát từ tiếng Pháp, được dịch
ra tiếng Nhật. Như vậy từ này do người Nhật sử dụng đầu tiên, sau đó được
chuyển sang Trung Quốc, và từ Trung Quốc du nhập vào nước ta. Trong tiếng
Pháp, cũng như tiếng Anh, từ "cán bộ " có nhiều nghĩa, nhưng có hai nghĩa



19
chủ yếu được chuyển vào từ "cán bộ" của Nhật, Trung Quốc và Việt Nam.
Nghĩa thứ nhất là cái khung (ảnh), cái khn. Nghĩa thứ hai là người nịng
cốt, những người chỉ huy trong quân đội trong một số tổ chức làm nòng cốt.
Ở nước ta vào ngày 09-3-1998 Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội ban hành
Pháp lệnh cán bộ cơng chức, trong đó tại Điều 1 nêu: “Cơng chức là những
người làm việc trong các cơ quan nhà nước được tuyển dụng, bổ nhiệm làm
nhiệm vụ thường xuyên trong biên chế, được hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, theo ngạch, bậc lương được pháp luật quy định” [50]. Từ điển tiếng
Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, ghi công chức là: "Người được tuyển dụng và
bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng
lương do ngân sách nhà nước cấp" [49, tr.207].
Trong Đại từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý chủ biên, xuất bản
năm 1999, từ cán bộ được định nghĩa là:
1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước.
2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường khơng giữ
chức vụ trong các cơ quan tổ chức nhà nước [21, tr.249].
Trong cuốn "Từ điển tiếng Việt", Nxb Đà Nẵng, năm 2002, nêu cán
bộ có hai nghĩa:
1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà
nước. Cán bộ nhà nước. Cán bộ khoa học. Cán bộ chính trị.
2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức
phân biệt với người thường khơng có chức vụ. Đoàn kết giữa cán bộ
và chiến sĩ. Họp cán bộ và cơng nhân nhà máy. Làm cán bộ Đồn
thanh niên [49, tr.109].
Trong cuốn "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước", từ cán bộ được dùng
với rất nhiều nghĩa khác nhau:

- Trong các tổ chức đảng, đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa:


20
Một là, chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến TW (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn viên, hội viên;
hai là, người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong các tổ chức này.
- Trong quân đội là những chỉ huy từ Trung đội trưởng trở lên (cán bộ trung
đội, cán bộ đại đội, cán bộ tiểu đoàn...) và thường là sĩ quan từ cấp uý trở lên.
- Trong hệ thống Nhà nước, từ cán bộ được hiểu cơ bản trùng với từ
công chức, chỉ những người làm việc trong các cơ quan hành chính, cơ quan
tư pháp. Đồng thời cán bộ cũng được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy,
phụ trách, lãnh đạo (trưởng, phó phịng...).
Trong pháp lệnh cán bộ, cơng chức Việt Nam năm 1998, đã xác định
đối tượng là cán bộ, công chức bao gồm những người:
Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; những
người được bầu cử, được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên… trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội và trong các cơ quan, đơn vị
quân đội nhân dân và công an nhân dân [50, tr.5-6].
Từ những điều nêu trên, chúng ta có thể khẳng định: Cán bộ là một
phạm trù dùng để chỉ tất cả những người công tác ở các cơ quan tổ chức của
Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, lực lượng vũ trang, nằm trong biên chế, cả
những người giữ chức vụ lẫn những người làm công tác chuyên môn nghiệp
vụ không giữ chức vụ.
Trong khoa học tổ chức chúng ta có thể phân chia cán bộ thành các
loại khác nhau tuỳ theo từng tiêu trí. Thường người ta phân loại cán bộ theo
những cách sau:
- Cách 1: Phân theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn: Cán bộ lãnh đạo,
cán bộ quản lý, cán bộ chủ chốt, lãnh đạo chủ chốt, cán bộ chính trị, cán bộ

quân sự, cán bộ kinh tế, cán bộ khoa học kỹ thuật…
- Cách 2: Phân loại theo chức vụ, cấp hàm trình độ tổ chức xã hội và
vị trí vai trị của cán bộ: Cán bộ cao cấp, trung cấp, sơ cấp...


21
- Cách 3: Phân theo loại hình tổ chức trong hệ thống chính trị: Cán bộ
Đảng, cán bộ Nhà nước, cán bộ đoàn thể nhân dân...
- Khái niệm cán bộ chủ chốt:
Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, định nghĩa: "Chủ chốt là quan
trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [21, tr.174].
Trong mỗi tổ chức có những người lãnh đạo, nhiều tổ chức có tập thể
lãnh đạo. Những người đó là cán bộ chủ chốt. Vậy cán bộ chủ chốt là những
người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối toàn bộ hoạt động của
một tổ chức nhất định.
Khi nghiên cứu cán bộ chủ chốt cần phân biệt cán bộ chủ chốt với cán
bộ lãnh đạo chủ chốt. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu trong một
tổ chức, còn cán bộ chủ chốt là những người lãnh đạo của một tổ chức nhất
định. Chúng ta đã biết rằng:
Trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị của nước ta hiện nay được
phân thành nhiều cấp và nhiều bộ phận khác nhau. Nếu như ở mỗi cấp, mỗi
bộ phận trong các hệ thống tổ chức đều có một tập thể lãnh đạo quản lý, thì
những người đứng đầu quan trọng nhất, có chức vụ cao nhất trong các tập thể
ấy được gọi là cán bộ lãnh đạo chủ chốt [43, tr.35].
Việc xác định cán bộ lãnh đạo chủ chốt không những phải gắn với một
hệ thống tổ chức nhất định mà còn phải căn cứ vào chức danh cụ thể của từng
người, bởi vì trong thực tế một người cán bộ "ở cương vị này, trong tổ chức
này là chủ chốt, nhưng trong mối quan hệ khác, vị trí khác, thì lại khơng phải
là chủ chốt" [43, tr.35].
Khi nói đến cán bộ lãnh đạo chủ chốt người ta không coi họ chỉ là

những người thực hiện các chức năng lãnh đạo đơn thuần, mà cịn nhìn nhận
họ là những người có trách nhiệm cả về phương diện quản lý.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc phịng an ninh
thuộc Tổng cục Cơng nghiệp Quốc phòng


22
Có thể hiểu khái niệm cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp QPAN là
những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu các cơ quan trong hệ
thống bộ máy tổ chức trong doanh nghiệp: Đảng, chính quyền và các đồn thể
chính trị - xã hội; những người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cấp uỷ
đảng, chính quyền, chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện đường lối, nhiệm vụ chính
trị, điều hành cơng tác, chỉ đạo cán bộ thuộc quyền quản lý của mình thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị và các mặt cơng tác khác của doanh nghiệp.
Thực hiện Quyết định số 49-QĐ/TW ngày 03-5-1999 của Bộ Chính
trị, Thực hiện theo quy chế cơng tác cán bộ 269/QC-ĐUQSTW ngày 31-121999 Của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Luật sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 và bổ sung năm 2008 [31];
Quyết định 03/2006/QĐ-BQP ngày 06-01-2006 của Bộ Quốc phòng về việc
ban hành tiêu chuẩn chức vụ cán bộ Tổng cục CNQP. Tổng cục CNQP đã quy
định cụ thể những chức danh cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp QPAN là:
- Ở tổng công ty, công ty mẹ cơng ty con: Tổng giám đốc, Chính ủy,
Phó tổng giám đốc, Kế tốn trưởng, Phó phịng tài Chính, Kiểm sốt viên;
trưởng, phó phịng Kế hoạch; Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm Chính trị; trưởng,
phó phịng Kỹ thuật; trưởng phó phịng kiểm tra chất lượng sản phẩm; trưởng,
phó phịng Tổ chức Lao động; trưởng, phó phịng Hành chính Hậu cần;
trưởng, phó phịng Kinh doanh; trưởng, phó phịng an tồn. Bí thư Đồn
thanh niên, Chủ tịch Hội phụ nữ, Chủ tịch Cơng đồn.
- Ở các nhà máy hoạt động theo hình thức cơng ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên: Giám đốc, Chính ủy, Phó giám đốc; Kế tốn trưởng, Phó
phịng tài Chính, Kiểm sốt viên; trưởng, phó phịng Kế hoạch; Chủ nhiệm,

phó chủ nhiệm Chính trị; trưởng, phó phịng Kỹ thuật; trưởng phó phịng
kiểm tra chất lượng sản phẩm; trưởng, phó phịng Tổ chức Lao động; trưởng,
phó phịng Hành chính Hậu cần; trưởng, phó phịng Kinh doanh; trưởng, phó
ban an tồn; quản đốc, phó quản đốc phân xưởng. Bí thư Đồn thanh niên,


23
Chủ tịch Hội phụ nữ, Chủ tịch Cơng đồn.
- Ở các Cơng ty thành viên: Giám đốc, Phó giám đốc, Bí thư đảng ủy
Cơng ty; trưởng, phó phịng tài chính, trưởng, phó phịng Kế hoạch; trưởng,
phó phịng Kỹ thuật; trưởng phó phịng kiểm tra chất lượng sản phẩm; trưởng,
phó phịng Tổ chức Lao động; trưởng, phó phịng Hành chính Hậu cần;
trưởng, phó phịng Kinh doanh; trưởng, phó ban an tồn; quản đốc, phó quản
đốc phân xưởng; Bí thư Đồn thanh niên, Chủ tịch Chi hội phụ nữ, Chủ tịch
Cơng đồn.
- Ở các xí nghiệp thành viên: Giám đốc; Phó giám đốc; trưởng, phó
ban Tài chính, trưởng, phó ban Kế hoạch; trưởng, phó ban kỹ thuật, trưởng,
phó ban hành chính - hậu cần; trưởng phó ban nghiệp vụ; quản đốc, phó quản
đốc phân xưởng.
1.1.2.1. Đặc điểm đội ngũ cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc
phòng an ninh thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng
ĐNCBCC trong doanh nghiệp QPAN thuộc Tổng cục CNQP là đội
ngũ cán bộ giữ các chức vụ quan trọng kiêm nhiệm một hoặc một số chức vụ
khác trong cơng tác Đảng, chính quyền, đồn thể. Do vậy có ảnh hưởng lớn đối
với đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp QPAN. Đây là đội ngũ cán bộ có số
lượng khoảng 930 người, chiếm khoảng 3,5% tổng số cán bộ là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phịng trong Tổng cục. Song lại có vị
trí rất quan trọng trong việc xây dựng các nghị quyết, quyết định, lãnh đạo thực
hiện các nhiệm vụ chính trị sản xuất, kinh doanh trong toàn Tổng cục.
- Đây là đội ngũ cán bộ hiểu biết sâu, rộng về đường lối, chủ trương,

chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, am hiểu
tình hình chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, an ninh, quốc phịng ở trong nước và
ở địa phương; có kiến thức, kinh nghiệm hoạt động trong cơng tác xây dựng
đảng, đồn thể, vận động quần chúng, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước; có
năng lực tổ chức, quản lý, chỉ đạo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; có khả năng


24
nghiên cứu khoa học, có khả năng tổ chức, quản lý sản xuất, kinh doanh.
- Phần lớn số cán bộ này đã được rèn luyện, thử thách, trưởng thành
trong thực tiễn cách mạng của đất nước, quân đội và trong phong trào của
quần chúng, do vậy mà lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với
mục tiêu và con đường XHCN, trung thành với Đảng, Quân đội với chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quyết tâm thực hiện thắng lợi
đường lối đổi mới của Đảng, tích cực đấu tranh với những luận điểm sai trái.
Hầu hết các đ/c đều nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; giữ gìn phẩm chất đạo đức của
người cán bộ, đảng viên, gương mẫu trong thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- ĐNCBCC trong doanh nghiệp QPAN luôn được Thường vụ Đảng ủy
Tổng cục CNQP quan tâm thường xuyên lãnh đạo chỉ đạo xây dựng, củng cố,
kiện tồn, vì vậy số lượng đã được tăng lên, cơ cấu ngày càng hợp lý hơn,
chất lượng được nâng lên rõ rệt.
- ĐNCBCC trong các doanh nghiệp QPAN chủ yếu được hình thành
từ nguồn cán bộ trong quy hoạch tại chỗ, một số đồng chí được điều động,
luân chuyển từ nơi khác đến song vẫn là trong nội bộ giữa các cơ quan, đơn vị
trong Tổng cục. Mặc dù được đào tạo trong qn đội hay ngồi qn đội thì
cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp QPAN đều có truyền thống của anh
bộ đội Cụ Hồ, cần cù chịu khó lao động, sản xuất, cố gắng, tích cực học tập
cơng tác để vươn lên, chủ động sáng tạo trong cơng việc, có tinh thần tương
thân, tương ái, đồn kết gắn bó với đồng chí đồng đội, gần gũi với quần chúng

nhân dân, được quần chúng tín nhiệm.
- ĐNCBCC trong doanh nghiệp QPAN đều do tập thể BTV Tổng cục,
BTV Đảng ủy doanh nghiệp xem xét ra nghị quyết, quyết định luân chuyển,
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc giới thiệu ứng cử. Do vậy đều là đối tượng điều
chỉnh của quy chế bổ nhiệm, quy chế bầu cử hiện hành, được thực hiện theo một
quy trình chặt chẽ có xem xét đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống,


25
năng lực trình độ, kết quả hồn thành nhiệm vụ, quan hệ với quần chúng, chấp
hành kỷ luật quân đội.... Đồng thời họ phải chịu sự giám sát, kiểm tra, đánh giá
của các cơ quan, tổ chức có liên quan và quần chúng trong đơn vị.
- ĐNCBCC trong doanh nghiệp QPAN trong Tổng cục CNQP hầu hết
được đào tạo chính quy có hệ thống tại các trường đại học trong nước và
nhiều đồng chí được đào tạo bài bản tại nước ngồi, có thời gian cơng tác
trong Qn đội và Tổng cục dài nên có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động
thực tiễn sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực CNQP. Tuy nhiên cũng cịn một
số ít cán bộ chủ chốt chưa được đào tạo chuyên sâu quản lý kinh tế, cịn hạn
chế trình độ ngoại ngữ, tin học cịn lúng túng trước yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ hội nhập quốc tế về kinh tế.
1.1.2.3. Vai trò của cán bộ chủ chốt trong doanh nghiệp quốc
phòng, an ninh thuộc Tổng cục Cơng nghiệp quốc phịng
Ở thời kỳ nào, quốc gia nào, cũng vậy, cán bộ và công tác cán bộ đều
là vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp đến vận mệnh của đất nước, sự
tồn, vong của chế độ, sự thành bại của cách mạng.
C.Mác và Ph. Ăngghen, là những người đặt nền móng cho vấn đề cán
bộ của giai cấp vô sản. Hai ông không chỉ là những người sáng lập ra chủ
nghĩa xã hội khoa học, mà còn là những người đem lý luận khoa học kết hợp
với phong trào công nhân lập nên tổ chức cộng sản đầu tiờn trờn thế giới. Từ
kinh nghiệm lịch sử của xã hội lồi người và từ chính quá trình nghiên cứu,

truyền bá lý luận khoa học vào phong trào công nhân C.Mác đã khẳng định:
"Tư tưởng căn bản khơng thể thực hiện được gì hết, muốn thực hiện tư tưởng
thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" [33, tr.181].
V.I.Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của C.Mác
và Ph.Ăngghen, xây dựng một đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Bản
thân V.I. Lờnin vừa là lãnh tụ của Đảng, đồng thời cũng là một lãnh tụ của
nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Trong di sản lý luận của Người về


×