Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠOCỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNGCHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNHTRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1016.01 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------------------

HÀ VĂN BÌNH

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN - 2014


-2BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
----------------------------

HÀ VĂN BÌNH

NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CƠ SỞ Ở HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH THẾ ĐỊNH

NGHỆ AN - 2014


-3-

LỜI CÁM ƠN
Với tình cảm chân thành, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến:
Ban Lãnh đạo nhà trường, Phòng đào tạo Sau đại học, Khoa Giáo dục Chính trị
- trường Đại học Vinh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được học tập,
nghiên cứu nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác
giáo dục chính trị trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Xin chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà khoa học đã nhiệt tình
giảng dạy, giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc
biệt, nhà giáo TS Đinh Thế Định - người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ
chuyên ngành Chính trị học.
Chân thành cảm ơn Lãnh đạo, chuyên viên Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà
Tĩnh; Lãnh đạo Huyện ủy, UBND huyện, các ban xây dựng Đảng thuộc Huyện
ủy Cẩm Xuyên, Trung tâm Bồi dưỡng Chính trị huyện Cẩm Xuyên, Phòng Nội
vụ, Phòng Tài chính – Kế hoạch, Văn phòng HĐND – UBND, Chi cục Thống
kê; đảng ủy, UBND các xã, thị trấn thuộc huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã
tạo điều kiện thuận lợi trong việc động viên, khuyến khích tôi trong quá trình
học tập cũng như nhiệt tình cung cấp số liệu và tư vấn khoa học cho tôi trong
quá trình hoàn thiện đề tài.
Mặc dù bản thân đã nỗ lực cố gắng, nhưng luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, giúp đỡ của các thầy, cô
giáo và bạn bè, đồng chí, đồng nghiệp.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014

Tác giả luận văn

Hà Văn Bình

KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


-4-

1

AN-QP

:

An ninh, quốc phòng

2

BCH

:

Ban chấp hành

3

CBCC

:


Cán bộ chủ chốt

4

CCB

:

Cựu chiến binh

5

CN, TTCN

:

Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

6

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

7

CSVC


:

Cơ sở vật chất

8

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

9

HTCT

:

Hệ thống chính trị

10

KH-CN

:

Khoa học, công nghệ

11


KHKT

:

Khoa học kỹ thuật

12

KT-XH

:

Kinh tế - xã hội

13

LHPN

:

Liên hiệp phụ nữ

14

LLCT

:

Lý luận chính trị


15

MTTQ

:

Mặt trận tổ quốc

16

UBND

:

Ủy ban nhân dân

17

VH-XH

:

Văn hóa - xã hội

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU

……..……………………………………………


6


-5B. NỘI DUNG ………………………….…..…………………….
Chương 1: Năng lực lãnh đạo và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở nước
ta hiện nay ………………………………………………………………
1.1. Cán bộ chủ chốt và năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cơ sở… ……………………………………….
1.2. Năng lực lãnh đạo và các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt ở cơ sở ………………………………………….
1.3. Những đòi hỏi khách quan việc nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở nước ta hiện nay
Kết luận chương 1 ………………………...……………………
Chương 2: Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt và nâng cao năng
lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ
sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ……………………………….
2.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội huyện Cẩm Xuyên …….….
2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ
sở ở huyện Cẩm Xuyên hiện nay .........................................................
2.3. Thực trạng năng lực lãnh đạo và nâng cao năng lực lãnh
đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên...........
2.4. Yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ...........
Kết luận chương 2 ...........................................................................
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh ..............................................................................
3.1. Những quan điểm cơ bản về việc nâng cao năng lực lãnh đạo
của cán bộ chủ chốt cấp xã ...................................................................

3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo
của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở huyện
Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay ............................
3.3. Thăm dò tính cần thiết và khả thi của các giải pháp nâng cao
năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở …………
Kết luận chương 3 …………………………..……………………
C. KẾT LUẬN…………………………….………………………...
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. PHỤ LỤC

12
12
12
21
32
43
44
44
50
59
70
71
73
73
77
105
107
108
110
114


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ TRONG LUẬN VĂN


-6Trang

1.

Bảng 1. Đơn vị hành chính huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh

47

2.

Bảng 2. Cơ cấu CBCC cấp xã ở huyện Cẩm Xuyên năm 2013

51

3.

Bảng 3. Phân loại năng lực tổ chức thực tiễn của CBCC cấp xã ở
65
huyện Cẩm Xuyên hiện nay
Bảng 4. Các thành tố của NLTCTT
65
Bảng 5. Ý kiến của CBCC về sự cần thiết và mức độ đạt được ở
68
một số kỹ năng tổ chức thực hiện
Bảng 6. Kết quả đánh giá tính cần thiết của các giải pháp đề xuất
106

Bảng 7. Kết quả đánh giá tính khả thi của các giải pháp đề xuất
106

4.
5.
6.
7.
8.
9.

Phụ lục 1. Phiếu trưng cầu ý kiến

Phụ lục 2. Thống kê trình độ chuyên môn của cán bộ chủ chốt
trong hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
10. Phụ lục 3. Thống kê trình độ chính trị của cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
11. Phụ lục 4. Phiếu điều tra năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ
chốt cấp xã ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
12. Phụ lục 5. Danh sách cán bộ chủ chốt cấp xã ở huyện Cẩm Xuyên
hiện nay

114
117
118
119
120


-7-


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cán bộ là khâu then chốt, trọng yếu của công tác xây dựng Đảng. Vị trí
của công tác cán bộ gắn liền với vai trò của đội ngũ cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh, người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta đã nhấn mạnh: "Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc" [22; 269], "công việc thành công hay thất bại đều do
cán bộ tốt hay kém" [22; 273]. Thấm nhuần tư tưởng của Người, trong suốt hơn
84 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi cán bộ và
công tác cán bộ là những nhân tố quyết định sự thành, bại của cách mạng. Mỗi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều đánh dấu những bước trưởng thành, tiến
bộ của đội ngũ cán bộ của Đảng ta. Vì thế, Đảng ta luôn chú trọng tới yêu cầu
xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, toàn diện, đặc biệt tập trung xây dựng và
nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt (CBCC), coi đây là vấn
đề mấu chốt, quyết định toàn bộ sự nghiệp cách mạng.
Hệ thống chính trị (HTCT) và CBCC của HTCT ở xã có vai trò rất quan
trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội,
tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, Nghị quyết Hội nghị lần
thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) về đổi mới và nâng cao
chất lượng của HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn đã xác định: xây dựng đội
ngũ cán bộ ở cơ sở xã, phường, thị trấn là một trong ba vấn đề cơ bản và bức
xúc cần tập trung giải quyết, trong đó yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có
năng lực tổ chức vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân, trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào
tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở
[14; 167].



-8Trong những năm gần đây, đội ngũ cán bộ các xã, thị trấn (gọi chung là cấp
xã) đã có bước phát triển về chất lượng. Tuy nhiên, đội ngũ này vẫn bộc lộ những
yếu kém, bất cập về kiến thức, năng lực, trình độ trước những yêu cầu của tình
hình, nhiệm vụ mới. Vì vậy, một số cán bộ gặp khó khăn, lúng túng, thậm chí va
vấp, vi phạm trong thực thi nhiệm vụ. Bên cạnh đó, trước tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường, một bộ phận CBCC cấp xã có dấu hiệu suy thoái về phẩm chất đạo
đức, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, vi phạm dân chủ, tham nhũng, lãng phí... bị
kỷ luật. Những điều đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng đồng thời
đặt ra đòi hỏi bức thiết phải đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt
năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC cấp xã.
Cẩm Xuyên là một huyện nằm giữa Thành phố Hà Tĩnh và huyện Kỳ
Anh, nơi có khu kinh tế Vũng Áng – khu kinh tế động lực của tỉnh. Là huyện có
truyền thống cách mạng, có nền kinh tế phát triển. Trong tình hình hiện nay đã
đặt ra hàng loạt các nhiệm vụ nặng nề, phức tạp về xây dựng và quản lý quy
hoạch, quản lý đất đai, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng kỷ thuật, hạ
tầng xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, phòng chống các tệ nạn xã hội,
đảm bảo an ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội ...
Để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên, huyện Cẩm Xuyên phải
có một đội ngũ CBCC nói chung, đội ngũ CBCC cấp xã nói riêng vững mạnh,
có phẩm chất, năng lực, phương pháp, phong cách công tác tốt, nhạy bén, năng
động, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong tình hình mới. Với ý nghĩa
đó, chúng tôi chọn đề tài: " Nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Khoa học chính trị, chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, có không ít công trình nghiên cứu về chất
lượng công tác của cán bộ lãnh đạo, quản lý trong đó có nghiên cứu sâu về năng



-9lực lãnh đạo của CBCC. Các nghiên cứu đề cập đến vấn đề này ở CBCC các
cấp, các ngành, các không gian và ở các thời điểm khác nhau; nhiều công trình,
bài viết đã có những đóng góp, những lý giải, những kiến nghị hết sức sâu sắc,
có giá trị thực tiễn cao. Tiêu biểu như:
- Nhóm đề tài về những yêu cầu đối với cán bộ cơ sở: Học viện Nguyễn
Ái Quốc: "Mẫu hình và con đường hình thành người cán bộ lãnh đạo chính trị
chủ chốt cấp cơ sở", 1992; Tiến sĩ Phan Văn Tích (chủ biên): "Xác định cơ cấu
và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở (xã, thị trấn)", Nhánh đề tài
KT-XH.05-11-06, 1993; Bùi Đình Phong: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò
của đạo đức cách mạng và sự thống nhất giữa đức và tài", Tạp chí LLCT, số
1/2003; Trần Văn Phòng: "Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo
chính trị hiện nay", Tạp chí LLCT, số 5/2003....
Các đề tài trên đã làm rõ những yêu cầu cơ bản đối với cán bộ nói chung,
cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở nói riêng. Đặc biệt xây dựng được
mẫu hình và cụ thể hóa các tiêu chuẩn cơ bản của người cán bộ trong giai đoạn
cách mạng mới, trong đó nhấn mạnh yếu tố đức và tài trong quan điểm của tư
tưởng Hồ Chí Minh và đòi hỏi của thực tế hiện nay.
- Nhóm đề tài về nội dung, phương pháp, cách thức xây dựng đội ngũ
CBCC: Trần Duy Hưng: "Xây dựng đội ngũ CBCC của HTCT cấp huyện ở tỉnh
Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Lịch sử, 2002; Bùi Khắc
Hằng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ với việc nâng cao năng lực
lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Thanh Hóa hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2004; Phan Thị Thúy Vân: "Xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp xã ở thành phố Cần Thơ hiện nay - Thực trạng và giải
pháp", Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, 2005... Ngoài ra, còn nhiều bài báo
của nhiều nhà nghiên cứu đăng trên các báo, tạp chí khoa học về vấn đề cán bộ
và nâng cao năng lực cán bộ trong HTCT.
Các luận văn, bài báo trên có những đóng góp về mặt lý luận rất sâu sắc
trong nghiên cứu về đội ngũ CBCC cấp cơ sở. Vai trò của đội ngũ này rất qua

trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở nhưng lại có những đặc
điểm riêng của từng vùng. Qua đó, nghiên cứu từng nội dung, phương pháp,
cách thức xây dựng đội ngũ CBCC nhằm chọn lọc những vấn đề mang tính


- 10 chung, tính đặc sắc, có cơ sở lý luận sâu sắc để vận dụng trong việc nâng cao
năng lực lãnh đạo đối với CBCC các xã, thị trấn trên địa bàn.
Các công trình từ đề tài, luận văn, luận án và các bài viết đăng trên các
tạp chí được nêu ra ở trên đã cung cấp những thông tin bổ ích dưới các khía
cạnh và các mức độ khác nhau, nhất là những lý luận về công tác cán bộ nói
chung và CBCC trong HTCT cơ sở những năm gần đây, đúc rút nhiều kinh
nghiệm và đề xuất các giải pháp có giá trị.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có luận văn nào nghiên cứu về đội ngũ
CBCC của HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên một cách sâu sắc, toàn diện, hệ
thống dưới góc độ Chính trị học. Vì vậy, tác giả chọn nghiên cứu đề tài này trên
cơ sở kế thừa có chọn lọc các công trình trên nhằm hệ thống lại những kiến thức
đã học và góp phần đáp ứng đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp xây dựng và phát
triển huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về năng lực lãnh đạo cho đội ngũ CBCC
trong HTCT cơ sở. Từ đó, đề xuất phương hướng và giải pháp góp phần nâng
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm
Xuyên nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
3.2. Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu và luận chứng nhằm làm rõ hơn cơ sở lý luận về năng lực
lãnh đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên.
+ Khảo sát, điều tra đầy đủ, có hệ thống về thực trạng năng lực, hiệu quả
lãnh đạo, quản lý của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên,
tỉnh Hà Tĩnh.

+ Xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm
Xuyên trong những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


- 11 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đội ngũ CBCC và năng lực lãnh
đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Về lý luận: Luận văn không trình bày toàn bộ các vấn đề lý luận
về cán bộ và công tác cán bộ mà tập trung phân tích những vấn đề liên quan đến
năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ và những quan điểm về nâng cao năng lực
của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ CBCC cấp xã.
4.2.2. Về thực tiễn: Luận văn tập trung phân tích thực trạng đội ngũ
CBCC và năng lực lãnh đạo của CBCC trong HTCT cơ sở huyện Cẩm Xuyên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp; phương pháp lôgíc và lịch sử kết hợp với phương pháp điều tra xã hội học,
đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ thêm cơ sở khoa học, quan điểm và quan niệm về nâng
cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu, thiết thực, khả thi
góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở
huyện Cẩm Xuyên trong những năm tiếp theo.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho Huyện ủy, UBND huyện, các đoàn thể chính trị của huyện, Đảng ủy,
UBND, các đoàn thể chính trị cấp xã, thị trấn ở huyện Cẩm Xuyên và các địa

phương khác trong công tác cán bộ, công tác xây dựng Đảng và xây dựng
HTCT. Luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập liên quan đến công tác cán bộ, công tác xây dựng
Đảng và xây dựng HTCT cơ sở ở các trường bồi dưỡng chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, Luận văn gồm 3
chương
Chương 1: Năng lực lãnh đạo và yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo của
đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở nước ta hiện nay.


- 12 Chương 2: Thực trạng đội ngũ CBCC và nâng cao năng lực lãnh đạo của
đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo của CBCC
trong HTCT cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.


- 13 B. NỘI DUNG
Chương 1
NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Cán bộ chủ chốt và năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt trong
hệ thống chính trị cơ sở
1.1.1 Một số khái niệm
- Khái niệm cán bộ
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý làm chủ biên thì:
"Cán bộ: Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước; người giữ
chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan,
tổ chức nhà nước" [48; 249]. Theo Luật Cán bộ, công chức: "Cán bộ, công chức

là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị
và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải
thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo
cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [22; 33].
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm dùng để
chỉ những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn
thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công.
Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu chung lại, có hai
cách hiểu cơ bản:
Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế Nhà nước, làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, xã hội, các doanh nghiệp
nhà nước và các lực lượng vũ trang từ Trung ương đến địa phương và cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ
chức để phân biệt với người không có chức vụ.


- 14 Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn
đặc trưng cơ bản:
+ Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác
trong HTCT... lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
+ Cán bộ giữ chức vụ, trọng trách nào đó trong một tổ chức của HTCT.
+ Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi
hoàn thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
+ Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung,
chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý
hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc,
hưởng lương từ ngân sách Nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình

thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ
nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
- Khái niệm cán bộ chủ chốt
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 2002:
Chủ chốt là tính từ chỉ "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt” [47;
174]. Như vậy, nói chủ chốt là nói đến quan hệ trong một tập hợp nhất định có
nhiều phần tử, nhiều đối tượng và vị trí, tính chất của những phần tử, đối tượng
trong tập hợp ấy.
Từ những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu Cán bộ chủ chốt là
người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, có tác dụng làm nòng cốt trong
các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm
đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp
mình về lĩnh vực công tác được giao.
CBCC có những đặc trưng cơ bản như sau:
+ CBCC là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc
xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định


- 15 và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Kiểm
tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều
chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực
tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, CBCC còn là người giữ vai trò
đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính
trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh.
+ CBCC là những người đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ yếu do
bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính
quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là những người chịu trách
nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc
lĩnh vực công tác được đảm nhận.

Từ nhận thức đó, đặc biệt theo quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5
(khóa IX) về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị
trấn; Nghị định số 112/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về công
chức xã, phường, thị trấn; đội ngũ CBCC của HTCT cơ sở bao gồm các chức
danh: bí thư, phó bí thư đảng ủy xã; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND xã; chủ tịch, phó
chủ tịch UBND xã; chủ tịch ủy ban MTTQ; chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ; chủ
tịch hội cựu chiến binh; bí thư đoàn thanh niên; chủ tịch hội nông dân.
- Khái niệm Hệ thống chính trị
Hiện nay, ở nước ta khái niệm HTCT thường được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa rộng, khái niệm HTCT được sử dụng để chỉ toàn bộ lĩnh vực
chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm
các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư tưởng
và các chuẩn mực chính trị.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm HTCT được sử dụng để chỉ hệ thống các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã hội
gồm nhân dân, các tổ chức chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị
- xã hội có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị. Trong đó,
nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị và là nền tảng của HTCT.


- 16 Trong các xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản, HTCT hình thành
và phát triển cùng với quá trình vận động của mâu thuẫn đối kháng giữa các giai
cấp gắn với cuộc đấu tranh của nhân dân lao động và các lực lượng tiến bộ
chống lại chế độ xã hội đó, làm thay đổi các HTCT theo hướng tiến bộ, hoặc thủ
tiêu và thay thế nó bằng một HTCT dân chủ, tiến bộ hơn.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể thực sự của quyền
lực chính trị, tự mình định đoạt quyền chính trị của mình. Điều căn bản nhất của
HTCT xã hội chủ nghĩa là quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân thông qua đảng cộng sản.
Ở Việt Nam, khái niệm HTCT lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng trong

Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương khoá VI (tháng 3-1989) thay
cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”.
HTCT đó bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. HTCT
nước ta vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ. Đây không chỉ đơn giản là sự thay đổi tên gọi mà là một bước đổi mới quan
trọng trong tư duy chính trị của Đảng ta. HTCT xã hội chủ nghĩa là sự kế thừa
và phát triển các thành tựu về tổ chức và hoạt động của hệ thống chuyên chính
vô sản trong các giai đoạn trước “đổi mới”, đồng thời phản ánh một hiện thực
mới về chính trị và dân chủ trong điều kiện đổi mới KT-XH ở nước ta hiện nay.
1.1.2. Vai trò, vị trí, đặc điểm và tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ
chốt cấp xã
1.1.2.1 Vai trò, vị trí của người cán bộ chủ chốt cấp xã
Bàn về vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo đối với sự nghiệp cách mạng,
C.Mác và Ph. Ăngghen là người đầu tiên nêu ra quan điểm khoa học về cán bộ.
Hai ông khẳng định: "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử
dụng lực lượng thực tiễn" [31; 184].
Theo quan điểm của hai ông, cán bộ là những người tiêu biểu cho phong
trào cách mạng; có tri thức và trình độ nhận thức cao, biết kết hợp vận dụng lý
luận cách mạng với thực tiễn để tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng,
lãnh đạo quần chúng thực hiện các cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng. Họ phải


- 17 là những người tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, có trách nhiệm cao và được quần chúng noi theo.
Kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen về Đảng
của giai cấp công nhân, V.I. Lênin đã đề ra những quan điểm quan trọng về
cán bộ trong quá trình xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Theo
V.I. Lênin, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ trước hết là ở chỗ đảm bảo
tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối chính trị của Đảng. Bởi vì họ vừa là

người xây dựng đường lối, vừa tiến hành lựa chọn phương pháp chỉ đạo, tổ
chức thực hiện và kiểm tra quá trình vận động cách mạng, hướng tới mục tiêu
đã đề ra. Vì thế, Người nhấn mạnh: "Mấu chốt là vấn đề người, vấn đề lựa
chọn người" và "trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền
thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào" [45; 351].
V.I. Lênin, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
Nga, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã tổ chức và lãnh đạo
Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi to lớn. Khi giành được chính
quyền, Đảng kiểu mới của V.I. Lênin trở thành Đảng cầm quyền. Lúc này,
vấn đề cán bộ càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn. Ở giai đoạn này,
nhiệm vụ mới vô cùng khó khăn của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân là
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội nhằm xây dựng thành công xã hội
mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin yêu cầu đội ngũ cán bộ phải nỗ lực
cao hơn thời nội chiến để hoàn thành sứ mệnh mới là quản lý nhà nước, quản
lý xã hội. Người khẳng định: "Nghiên cứu con người, tìm ra cán bộ có bản
lĩnh; hiện nay đó là then chốt, nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [46; 462].
Để có được đội ngũ cán bộ am hiểu nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực
quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đáp ứng yêu cầu xây dựng chủ
nghĩa xã hội, một nhiệm vụ lâu dài, khó khăn và phức tạp, V.I. Lênin đã coi
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các cương vị
công tác, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của họ, chú ý giáo dục,


- 18 rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và năng lực công tác cho cán
bộ, chống bệnh quan liêu, xa dân, kiêu ngạo, thoái hóa biến chất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, luôn coi trọng công tác cán

bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đủ sức đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Người coi: "Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc" [21; 269]. Vai trò của người cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, được
thể hiện trong bốn mối quan hệ chủ yếu: cán bộ với đường lối chính sách, cán
bộ với tổ chức bộ máy, cán bộ với công việc và cán bộ với quần chúng. Trong
quan niệm của Người, cán bộ không chỉ là người vạch ra đường lối mà còn có
vai trò quyết định trong việc tổ chức thực hiện đường lối. Người nói: "Cán bộ
là người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân
dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được"; "Cán
bộ là dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động
cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt" [21; 54].
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu cán bộ phải sâu sát quần chúng,
nắm bắt kịp thời và phản ánh tình hình đời sống, tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân với Đảng và Nhà nước để quyết định đường lối, chủ trương, chính
sách hợp lòng dân. Đối với cơ sở, điều này càng đặc biệt quan trọng. Người
chỉ rõ: "Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong
quần chúng mà ra và trở lại nơi quần chúng" [21; 290]. Người kết luận:
"Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém" [ 21; 273].
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ phải là người lãnh đạo, dẫn dắt
quần chúng nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng của Đảng, là người tận tụy
phục vụ nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng ta rằng: "Mỗi đảng viên và cán bộ
phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" [20; 131].


- 19 Thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề
cán bộ, trong suốt 84 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú

trọng và đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm với đòi hỏi của
từng thời kỳ cách mạng, đó chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Đảng ta xác định phải "có một đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và
năng lực xây dựng đường lối chính trị đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng
lợi đường lối, đó là vấn đề cốt tử của lãnh đạo, là sinh mệnh của Đảng cầm
quyền" [13; 27]. Trong công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện sự nghiệp
CNH, HĐH, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH: "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của
cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng" [13; 66]. Theo quan điểm của Đảng,
trong khi phải xây dựng đội ngũ cán bộ một cách đồng bộ, đáp ứng với yêu
cầu của từng giai đoạn cách mạng, cần đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ
CBCC các cấp, nhất là cấp chiến lược và cấp cơ sở.
Như vậy, bất kỳ lúc nào và ở đâu, vai trò của đội ngũ CBCC cũng rất
quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của
CBCC càng đặc biệt quan trọng.
Trên cơ sở những quan điểm đó có thể nói CBCC cấp xã có vai trò, vị trí
trong HTCT cơ sở:
- Là người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo,
điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp
trên về nhiệm vụ được phân công.
- Là người có trách nhiệm tiếp nhận các chủ trương chính sách và sự lãnh
đạo từ cấp trên.
- Là người giữ vị trí quan trọng trong việc cụ thể hoá đường lối, chính
sách của Đảng, chính quyền cấp trên vào điều kiện ở cơ sở, chủ trì việc hoạch
định chiến lược mục tiêu, phương hướng, đề ra chủ trương, chính sách động
viên, tổ chức nhân dân thực hiện những nhiệm vụ phát triển KT-XH ổn định đời
sống nhân dân trên địa bàn xã.



- 20 - Có thẩm quyền giải quyết các mối quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội, AN
- QP trong phạm vi toàn xã, có khả năng tổ chức công việc và là trung tâm đoàn
kết của tổ chức.
Như vậy, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu quan
trọng nhất trong HTCT cơ sở, có ảnh hưởng quyết định đến việc chấp hành chủ
trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước
thông qua việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn
hoá xã hội trên địa bàn cấp xã mà mình phụ trách.
1.1.2.2. Đặc điểm chủ yếu của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống
chính trị cơ sở
Đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở phần lớn trưởng thành trong thực tiễn
cách mạng ở cơ sở. Do đó, họ có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng vào sự
lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội; am hiểu và nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, nhiệt tình, tâm huyết với công việc, có kinh nghiệm công tác, khả năng
thuyết phục, vận động quần chúng tốt, được hội viên và nhân dân tín nhiệm. Số
cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, năng
động, nhạy bén, tiếp cận với cái mới nhanh; được các thế hệ cán bộ đi trước
hướng dẫn, giúp đỡ nên họ trưởng thành nhanh chóng, trở thành nguồn cán bộ
lãnh đạo cao hơn ở địa phương hoặc cung cấp cán bộ cho huyện và tỉnh.
Đội ngũ CBCC trong HTCT cơ sở hoạt động trong điều kiện kinh tế ngày
càng phát triển, với đòi hỏi yêu cầu ngày càng cao, cho nên họ năng động, luôn
tìm tòi, sáng tạo trong các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, an ninh
- quốc phòng, luôn cố gắng phấn đấu vươn lên nhằm đáp ứng với yêu cầu của sự
nghiệp xây dựng và phát triển quê hương.
Với nhiều chủ trương mới, tích cực nên thuận lợi cho công tác luân chuyển
cán bộ giữa các xã với nhau hoặc giữa xã với huyện. CBCC Đảng, chính quyền cấp
xã là cán bộ, công chức nên thuận lợi trong việc thực hiện chính sách cán bộ theo
qui định của Nhà nước, tạo sự yên tâm, gắn bó của họ với địa phương.
1.1.2.3. Những tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ chủ chốt cấp xã



- 21 Theo quy định tại Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ về tiêu
chuẩn cụ thể đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn và các quan điểm,
đường lối, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn… của Đảng về cán bộ và công tác cán
bộ, đội ngũ CBCC nói chung phải có những tiêu chuẩn cơ bản như sau:
Thứ nhất: người CBCC phải có tri thức và văn hoá chính trị, có khả năng
lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa giàu mạnh. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: đảng của giai cấp công nhân là
trí tuệ, lương tâm và thời đại. Hồ Chí Minh cũng khẳng định: “Đảng ta là đạo
đức, là văn minh” vì vậy, người cán bộ của Đảng phải biết làm giàu trí tuệ của
mình bằng kho tàng tri thức nhân loại đã tạo ra.
Thứ hai: người CBCC phải đặt lợi ích của giai cấp, của dân tộc của nhân
loại lên trên lợi ích cá nhân.
Thứ ba: CBCC phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trên cơ sở lập
trường của giai cấp công nhân tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng,
với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định con đường
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Có năng lực dự báo và định hướng sự
phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp
luật; thuyết phục và tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có ý
thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư: người CBCC phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ
nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư, không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, có ý thức
tổ chức kỷ luật, trung thực không cơ hội gắn bó mật thiết với nhân dân và được
nhân dân tín nhiệm.
Thứ năm: người CBCC phải có kinh nghiệm và nghệ thuật trong hoạt
động chính trị, linh hoạt nhạy bén, giải quyết kịp thời đúng đắn những tình
huống phức tạp xảy ra.

Như vậy, với vai trò vô cùng quan trọng và trách nhiệm nặng nề người
CBCC có những tiêu chuẩn cần phải có. Để luôn xứng đáng là người tiêu biểu,
đại diện và lãnh đạo nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, tin cậy và uỷ thác.


- 22 Người cán bộ lãnh đạo phải không ngừng rèn luyện tu dưỡng mọi mặt, thống
nhất giữa đức và tài, thực hiện được mục tiêu to lớn là đưa sự nghiệp cách mạng
đến thắng lợi cuối cùng.
1.2. Năng lực lãnh đạo và các yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo của
cán bộ chủ chốt ở cấp xã
1.2.1. Năng lực lãnh đạo
Theo từ điển tiếng Việt, “năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan sẳn có
để thực hiện một hoạt động nào đó” [47; 362].
Theo nhà Tâm lý học người Nga Cơvaliốp: Năng lực là một tập hợp hoặc
tổng hợp những thuộc tính cá nhân con người đáp ứng những nhu cầu của hoạt
động và bảo đảm cho hoạt động có kết quả cao…
Như vậy, nói đến năng lực là nói đến khả năng đạt được kết quả hoạt
động nào đó. Năng lực không phải là những thuộc tính cá nhân riêng lẽ mà là
một tổ hợp các thuộc tính cá nhân đáp ứng yêu cầu cao của hoạt động. Các thuộc
thuộc tính ấy có quan hệ tác động lẫn nhau, thống nhất với nhau trong một chỉnh
thể. Mỗi con người có thể tích hợp nhiều năng lực tiềm ẩn, những năng lực đó
được bộc lộ ra hay không tùy thuộc vào những điều kiện chủ quan hay khách
quan. Đối với những người có tài năng đặc biệt và thiên tài, năng lực của họ
được phát triển và bộc lộ mạnh mẽ khiến họ đạt đến đỉnh cao ở nhiều lĩnh vực
khác nhau. Năng lực vừa mang tính bẩm sinh, vừa là kết quả của quá trình học
tập, rèn luyện, hoạt động thực tiễn của con người.
Theo Hồ Chí Minh: năng lực con người không phải hoàn toàn do tự
nhiên mà có, mà một phần lớn do công tác, do luyện tập mà có. Vì thế, năng lực
không chỉ là tư chất bẩm sinh thuần tuý vốn có của con người, mà là kết quả của
sự phối hợp những tư chất bẩm sinh vốn có với sự rèn luyện, tu dưỡng, học tập

thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Người cán bộ lãnh đạo nói chung, CBCC nói riêng dù ở cấp nào cũng
phải có năng lực nhất định. Trong đó, năng lực tư duy lý luận và năng lực tổ
chức thực tiễn là hai nhân tố quan trọng nhất. Hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ
với nhau, không tách rời nhau, cái này hỗ trợ cái kia phát triển. Không có năng
lực tư duy lý luận thì không có khả năng khái quát, sáng tạo và vận dụng đúng


- 23 đắn linh hoạt các quy luật khách quan. Ngược lại không có năng lực thực tiễn thì
sa vào bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, quan liêu, mệnh lệnh xa rời thực tiễn,
thoát ly cuộc sống đầy sôi động đang cuộn chảy. Đội ngũ CBCC của HTCT phải
có năng lực toàn diện, nhất định trên nhiều lĩnh vực mới đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ được giao. Ngoài ra, CBCC cấp xã còn phải có năng lực sáng tạo, tính
quyết đoán và khả năng làm việc với con người.
Từ những phân tích như trên có thể hiểu, năng lực CBCC trong HTCT cơ
sở là tổng hợp khả năng lãnh đạo, quản lý điều hành hoạt động với chất lượng và
hiệu quả cao.
1.2.2. Những yếu tố cấu thành năng lực lãnh đạo của đội ngũ CBCC
trong hệ thống chính trị cơ sở
1.2.2.1. Năng lực tư duy lý luận
Năng lực tư duy lý luận là tổng thể tri thức trí tuệ, phương pháp luận của
chủ thể đáp ứng yêu cầu phát triển, nhận thức nhanh nhạy, đúng đắn về những
vấn đề thực tiễn ở cấp độ lý luận, giúp cho CBCC cơ sở có những phản ứng sắc
bén, khả năng vận dụng sáng tạo linh hoạt lý luận vào thực tiễn nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý cơ sở.
Năng lực tư duy lý luận của CBCC cấp xã được biểu hiện cụ thể:
Thứ nhất, đó là khả năng tiếp thu lý luận, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước một cách đúng đắn, khả năng phát hiện những
mâu thuẫn, những vấn đề mới, khả năng tổng kết thực tiễn và khả năng vận dụng
sáng tạo lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách để xây dựng chương trình, kế

hoach công tác, kế hoạch phát triển KT-XH phù hợp với thực tiễn ở cơ sở.
Thứ hai, năng lực tư duy lý luận mang tính khái quát, là khả năng liên
kết tri thức các lĩnh vực, các ngành nghề, các bộ phận phong phú đa dạng thành
một chỉnh thể ở mức độ khái quát cao. Đồng thời phân định được tính đặc thù,
tính riêng biệt của các loại lĩnh vực, bộ phận để khi lãnh đạo, chỉ đạo vừa mang
tính lịch sử cụ thể vừa mang tính khái quát tổng hợp.
Thứ ba, năng lực hiện thực hoá tri thức đó là khả năng biến những tri
thức đã lĩnh hội được thành các chủ trương, chương trình, kế hoạch hành
động làm biến đổi hiện thực trực tiếp. Nó thực hiện khả năng vận dụng lý


- 24 luận vào thực tiễn, liên hệ lý luận với thực tiễn, vận dụng cái chung một cách
đúng đắn vào từng tình huống cụ thể. Đó cũng là khả năng tổng hợp để có cái
nhìn hệ thống, nắm được cái chủ yếu, cái bản chất của sự vật hiện tượng trong
sự vận động của chúng, trên cơ sở đó đưa ra những quyết định đúng đắn phù
hợp với thực tiễn cơ sở.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận của CBCC cấp xã có giá trị định hướng
đúng đắn hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của đội ngũ này. Cơ sở của
năng lực tư duy lý luận là tri thức lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kho tàng tri thức của nhân loại, đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và sự trải nghiệm trong phong trào cách mạng của thực tiễn địa phương.
1.2.2.2. Năng lực tổ chức thực tiễn
Năng lực tổ chức thực tiễn là năng lực tổ chức vận hành bộ máy HTCT
cơ sở, có nhiệm vụ xác định hoạt động nhịp nhàng cân đối có trật tự, có hiệu lực,
hiệu quả nhằm hiện thực hoá những mục tiêu đề ra. Biểu hiện cụ thể của năng
lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ CBCC cấp xã như sau:
Một là, có khả năng thu nhập và xử lý thông tin liên quan đến mọi mặt
của đời sống xã hội: Chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng… ở cấp xã
một cách nhanh chóng và có hiệu quả cụ thể, thiết thực. Công tác lãnh đạo
quản lý là biểu hiện mối quan hệ giữa chủ thể lãnh đạo quản lý và khách thể bị

lãnh đạo, quản lý. Mối quan hệ này được phản ánh qua thông tin hai chiều giữa
chủ thể và khách thể. Thiếu thông tin hoặc xử lý thông tin không kịp thời,
chính xác người lãnh đạo quản lý dễ rơi vào tình trạng quan liêu, độc đoán,
chuyên quyền xa rời thực tiễn.
Đội ngũ CBCC cấp xã gắn liền với cơ sở, họ vừa phải tổ chức thực hiện
các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, vừa phải bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình
cơ sở để triển khai thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đúng đắn phù hợp với thực
tiễn cơ sở. Vì vậy, thu thập xử lý thông tin đầy đủ trước hết phải nắm vững chủ
truơng, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Đồng
thời phải xây dựng phương pháp làm việc khách quan, khoa học hình thành
mạng lưới cung cấp thông tin xác thực từ cơ sở kết hợp với việc đi sâu, đi sát


- 25 cơ sở nắm vững những diễn biến hoạt động KT-XH, AN - QP…từ nhân dân.
Sau khi có đầy đủ thông tin, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã lại phải có
khả năng tổng hợp, khái quát, phân tích để rút được những đặc điểm nguyên
nhân đề ra được những giải pháp, quyết định đúng đắn giải quyết có hiệu quả
những nhiệm vụ đặt ra.
Hai là, khả năng tổ chức bộ máy, phối hợp các lực lượng, các bộ phận, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ đặt ra ở cấp xã. CBCC ở cấp xã phải có tư duy tổ chức
phối hợp các bộ phận trên cơ sở phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của
đội ngũ cán bộ dưới quyền để bố trí phù hợp với năng lực, sở trường. Phải là
trung tâm đoàn kết, thu hút cán bộ cấp dưới và nhân dân tạo nên sức mạnh tổng
hợp nhằm thực hiện những nhiệm vụ đang đặt ra.
Ba là, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát để duy trì, điều chỉnh việc thực
hiện các quyết định quản lý. Phát hiện kịp thời những vấn đề mới nảy sinh để
giải quyết, tìm ra những lệch lạc, sai sót để sửa chữa, điều chỉnh các vấn đề thực
tế đặt ra để các quyết định có hiệu lực, hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng. Lênin
chỉ rõ: “Khi mục tiêu và nhiệm vụ đã được xác định, quyết định được thông qua,
bộ máy con người đã được sắp xếp thì trọng tâm của sự lãnh đạo, quản lý phải

chuyển sang lĩnh vực kiểm tra và gắn với kiểm tra là đôn đốc, uốn nắn, tổ chức
thực hiện đến cùng quyết định”[48; 463].
Công tác kiểm tra giám sát làm tăng hiệu quả các quyết định quản lý,
đảm bảo cho việc hoàn thành nhiệm vụ một cách triệt để, tránh được các căn
bệnh vốn có như qua loa, đại khái, hạn chế các tiêu cực có thể nảy sinh trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ. Năng lực này còn thể hiện ở khả năng đánh giá
hiệu quả việc thực hiện các quyết định và khả năng đúc rút kinh nghiệm thực
tiễn kịp thời vận dụng nó vào cuộc sống.
1.2.2.3 Năng lực sáng tạo và tính quyết đoán
Năng lực sáng tạo là khả năng vận dụng tri thức lý luận và khoa học vào
thực tiễn không rập khuôn máy móc, tìm ra những con đường mới những
phương pháp mới, giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra phù hợp với đòi
hỏi khách quan. Với tư duy năng động, người CBCC cấp xã phải nắm bắt được


×