Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Ch­¬ng 1: hö thèng chýnh trþ vµ sù ra ®êi cña hö thèng chýnh trþ, hö thèng chýnh trþ thôy §ión nh÷ng vên ®ò lý luën c¬ b¶n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.78 KB, 100 trang )

Mục lục
Trang
1

Mở đầu

Chng 1: MT S VN Lí LUN CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
THỤY ĐIỂN

1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chính trị
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị Thụy Điển

7
7
21

Chương 2: THỰC TRẠNG MƠ HÌNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỤY ĐIỂN HIỆN NAY

2.1. Tổ chức và hoạt động của các đảng chính trị Thụy Điển
2.2. Tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước của Thụy Điển
2.3. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở Thụy
Điển (xã hội công dân)
2.4. Nhận xét về hệ thống chính trị Thụy Điển và khuyến nghị đối
với quá trình hồn thiện hệ thống chính trị Việt Nam
KÕt ln
Tµi liƯu tham kh¶o


35
35
48
68
75
91
93


1
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thụy Điển là một đất nớc tơng đối rộng lớn, đứng thứ 5
ở châu Âu (sau Nga, Ucraina, Pháp, c). Thụy Điển là đất nớc
có chiều dài lớn, khoảng cách từ điểm cực Bắc đến điểm
cực Nam vào khoảng 1.600 km2.
Biên giới trên bộ của Thụy Điển là 2.205 km, trong đó
giáp Na Uy ở phía Tây (1.619 km) và Phần Lan ở phía Đông
(586 km), biên giới phía Nam giáp với biển Baltic. Một chiếc
cầu - đờng hầm nối Thụy Điển với Đan Mạch, nớc láng giềng
phía Đông Nam của Thụy Điển.
Hơn nửa diện tích của Thụy Điển đợc rừng bao phủ, chủ
yếu là rừng cây gỗ thẳng. Núi, thác nớc và ®Êt ®Çm lÇy
chiÕm gÇn 1/4 diƯn tÝch. ChØ cã 7% là đất canh tác. Một
nhân tố chính trong địa hình của Thụy Điển là hồ. Thụy
Điển có khoảng 100.000 hồ chiếm 9% lÃnh thổ. Trong đó, hồ
Vanem (5.585 km2) là hồ chứa nớc ngọt lớn thứ 3 ở châu Âu.
LÃnh thổ Thụy Điển gồm miền Bắc là Norrland (60% lÃnh
thổ), tuyến núi, sát biên giới Na Uy, trừ một đồng bằng nhỏ
sát biển phía Đông đà và đang giữ vai trò quan trọng trong

nền kinh tế quốc dân với nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn có
của mình: các mỏ đồng, rừng và các dòng sông với nhiều
thác nớc là nguồn đóng góp quan trọng cho ngành cung cấp
năng lợng của quốc gia. Miền Trung (đồng bằng và hồ) là
Svealand. Miền Nam là Gotaland (cao nguyên và đồng bằng:
đồng bằng Skane ở cực nam, đất màu mỡ).


2
Bờ biển của Thụy Điển dài khoảng 3.218 km. ở một vài
nơi, bờ biển gấp khúc tạo thành một loạt các đảo và các cồn
cát. Ví dụ, bán đảo Stockholm bao gồm gần 20.000 hòn
đảo.
Hòn đảo lớn nhất của Thụy Điển là Gotland và Oland
mang những đặc điểm tự nhiên đặc biệt. Gotland có một
vị trí chiến lợc quan trọng nằm giữa biển Baltic. Visby - một
thành phố cổ của vùng này, là một trung tâm thơng mại
quan trọng cả trong thời Viking và thời Trung cổ. Toàn bộ hòn
đảo đặc biệt hấp dẫn nhờ các công trình địa lý nhân tạo.
Oland có phần giống nh bớc chân, có hệ thống thực vật rất
đặc biệt. Kể từ năm 1972, Oland ®ỵc nèi liỊn víi vïng ®Êt
liỊn phÝa Nam cđa Thơy Điển bằng một cây cầu.
Vị thế của Thụy Điển trên trờng quốc tế và khu vực
châu Âu nói chung và khu vực Bắc Âu nói riêng là rất quan
trọng. Khi nghiên cứu về chính trị Bắc Âu nói chung thì
Thụy Điển cũng là địa bàn cần đợc khai thác và là đối tợng
nghiên cứu không thể bỏ qua. Trong cách thức tổ chức và vận
hành hệ thống chính trị thì Thụy Điển cũng có những đặc
điểm cần đợc tham khảo. Sự kết hợp của các thể chế chính
trị theo chủ nghĩa tự do với truyền thống dân chủ là đặc

điểm nổi trội của Thụy Điển, sự tồn tại chế độ hoàng gia
theo hiến định tạo nên những đặc điểm khá căn bản của
Thụy Điển. Trong cỏc nc Bc u thỡ Thụy Điển cũng đại diện cho sự ổn
định Chính trị với nhà nước phúc lợi chung, chế độ an sinh tốt, nền dân chủ được
ngày một hoàn thiện. Hệ thống chính trị tinh gọn hiệu quả, phát huy được cơ cấu
quyền lực, cơ chế phân công và phối hợp giữa các bộ phận của hệ thống chính trị


3
ngày càng thể hiện được những giá trị khá bền vững mà các nước trên thế giới
cần học tập.
Thơy §iĨn và Việt Nam từ trong lịch sử đà có quan hệ
khăng khít mà biểu trng đặc sắc nhất là hình ¶nh cđa cè
Thđ tíng Olop Palnmer cđa Thơy §iĨn nhiệt tình đng hé cách mạng
ViƯt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, khi nhà nước ta đang tiến hành cuộc
cải cách nền hành chính, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhà
nước của dân do dân và vì dõn. Do vậy việc tham khảo kinh nghiệm
về mọi mặt của thế giới là vô cùng cần thiết mà một trong
những nội dung cần tham khảo đó là kinh nghiệm vỊ Mơ hình
tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị của các nước trên thế giới chung
và Thụy Điển nói riêng. ChÝnh v× lý do đó, tác giả chọn ti Mô
hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị
Thụy Điển làm luận văn tốt nghiệp cao học chuyờn ngnh chớnh
tr hc.
2. Tình hình nghiên cứu liờn quan n ti
Nghiên cứu về Thụy Điển nói chung và hệ thống chính
trị Thy in nói riêng ở Việt Nam còn khá ít, các công trình
chủ yếu đặt trong nghiên cứu về khu vực Bắc Âu hoặc đặt
trong tổng thể nghiên cứu về hệ thống chính trị thế giới.
Tiờu biu l cuốn sách Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ

thống chính trị ở một số nớc trên thế giới do PGS.TS. Tô Huy
Rứa chủ biên có đề cập đến những đặc điểm trong tổ
chức và vận hành của hệ thống chính trị các nớc Bắc Âu
trong đó có hệ thống chính trị Thụy Điển và Đan M¹ch. Nội
dung của cuốn sách đi sâu phân tích những hệ thống chính trị cơ bản có tính
chất đại diện, điển hình ở một số nước trên thế giới - tác động của tư tưởng


4
chính trị, điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, tính chất dân chủ, tiến bộ
của hệ thống này - nêu rõ tính phổ biến, tính đặc thù của mơ hình ấy, trên cơ
sở đó đề xuất các khuyến nghị về việc tham khảo kinh nghiệm tổ chức, hoạt
động của hệ thống chính trị các nước trên, trong q trình nghiên cứu tiếp tục
đổi mới hệ thống chính trị ở nc ta.
Trong đề tài KX.10.10 về mô hình tổ chức và hoạt
động của hệ thống chính trị một số nớc trên thế giới có
nhánh số 3 do TS. Nguyễn Thế Lực làm chủ nhiệm chuyên
nghiên cứu và khảo sát và hệ thống chính trị các nớc Bắc Âu.
Ngoài ra gần đây các viện chuyên ngành trong Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh cũng có các
cuộc hội thảo về chủ đề hệ thống chính trị, quyền con ngời, tổ chức bộ máy nhà nớc, cơ chế bảo hiến, thanh tra nhân
dân (Ombusman) của Thụy Điển.
Cun sỏch “Trào lưu xã hội dân chủ ở các nước phương Tây hiện này”
2010 do Tống Đức Thảo và Bùi Việt Hương đồng chủ biên, nhà xuất bản
CTQG ấn hành có đề cập đến sự ảnh hưởng của trào lưu xã hội dân chủ đến tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị, hệ tự tưởng và phương thức cầm
quyền Thụy Điển. Cuốn sách đã đề cập đến sự ảnh hưởng đến sự vận hành
trên thực tế của trào lưu xã hội dân chủ đến hệ thống chính trị và nền dân chủ
ở Thụy Điển hiện nay.
Cuốn sách “Các đảng dân chủ xã hội châu Âu: cải cách và thách thức”

2011 của GS. WOLFGANG MERKEL do nhà xuất bản chính tri - hành chính
ấn hành đã đề cập đến việc tổ chức và vận hành của Đảng dân chủ xã hội
Thụy Điển(SAP) bộ phận rất quan trọng của hệ thống chính trị Thụy Điển.
Các tác giả của cuốn sách cũng chỉ ra những thách thức và dự báo xu hướng
vận động của đảng SAP trong những thập kỷ mới.v.v.


5
Cun sỏch Dân chủ và lÃnh đạo l bỏo cỏo năm 1996 của tổ
chức “SNS đánh giá dân chủ Thụy Điển”, do tập thể các nhà khoa học nổi
tiếng ở Thụy Điển biên soạn đó là: Olypertersson; Forgen Hersounsson;
Michele Micheletti và Anders westholm, được nhà sản xuất SNS Forlog ấn
hành bằng tiếng Anh năm 1997. Các tác giả cuốn sách đã tập trung trình bày
một số vấn đề cơ bản : Những ý tương khác nhau ở Thụy Điển về dân chủ và
lãnh đạo; tình trạng nền dân chủ hiện nay của Thụy Điển, mối quan hệ giữa
hiến pháp và lãnh đạo, vai trò và trách nhiệm của các nhà lãnh đạo Thụy
Điển… Trên cơ sở đó các tác giả cuốn sách đề xuất một số biện pháp nhằm
giải quyết tình trạng thất nghiệp, tạo điều kiện cho khu tài chính cơng phát
triển, xã hội hồn thiện, hướng tới một sự lãnh đạo dân chủ hơn ở Thụy Điển.
Cuốn sách Bức tranh toàn cảnh Thụy Điển m tỏc gi Han
Ingvar Jonson, Nxb quốc gia năm 1997(dịch từ bản tiếng Anh với nhan đề
Spotlight on Sweden do viện Thụy Điển xuất bản năm 1995): với nội dung
phong phú và sinh động, với cách trình bày ngắn gọn và súc tích, cuốn sách
đã phác họa bức tranh toàn cảnh các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội,… của Thụy Điển trên những net nổi bật và đặc sắc nhất.
Cuốn sách Chính quyền địa phơng Thụy Điển - Truyền
thống và cải cách, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997. Cuụn Sorehagot tỏc
gi trờn cơ sở trình bày một số cải cách về ranh giới, cơ cấu pháp lý, cơ cấu
tổ chức, những nguyên tắc tài chính của các cấp chính quyền địa phương
Thụy Điển.... Cuốn sách đã khái qt tồn bộ q trình phát triển và những

thay đổi quản lý hành chính mà chính quyền địa phương Thụy Điển
Cuốn sách “Mảnh trời Bắc Âu- ( Phát triển văn hóa Thụy Điển) Englik
Avnorders Himmel (Glimtar Av Seriges Kultm) của tác giả Hữu Ngọc, Nhà
xuất bản, Thế giới, Hà Nội, 1997; Cuốn sách đã đề cập đến con người và văn
hóa Thụy Điển.v.v.


6
Tuy nhiên, các nghiên cứu trên mới chỉ đi vào lý giải và
phân tích những yếu tố, những mặt hoạt động của hệ
thống chính trị nh bộ máy nhà nớc, chính quyền địa phơng
của Thụy Điển mà cha có đợc cái nhìn tổng quát về tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị của nớc này. Trên cơ sở
đó rút ra những đặc điểm, những giá trị phổ quát của hệ
thống chính trị Bắc Âu và của Thụy Điển. Vì vậy kế thừa các kết
nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước để tác giả nghiên cứu đề tài
“Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thớng chính trị Thụy Điển” .
3. Mơc tiªu, nhiƯm vơ nghiªn cøu của đề tài
3.1. Mơc tiªu nghiên cứu cđa đề tài lµ làm rõ về mơ hình tổ
chức và hoạt động của hệ thống chính trị Thụy Điển. Trªn cơ sở đó rút
ra những giá trị tham khảo đối với quá trình đổi mới và
hoàn thiện hệ thống chính trị nớc ta.
3.2. Nhiờm vu nghiờn cu cua ờ tai
Để hoàn thành đợc mục tiêu nêu trên, lun văn tp trung
giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chính tr.
- Phõn tich các nhân t anh hng đến sự hình thành và
quá trình vận hành của hệ thống chính trị Thụy Điển.
- Trinh by thc trng t chc v hoạt động của hệt hống chính trị Thụy
Điển hiện nay.

- Rút ra nh÷ng nhËn xÐt về hệ thống chính trị Thy in v
khuyến nghị đối với việc tìm hiểu, kế thừa những kinh
nghiệm của hệ thống chính trị Thụy Điển, góp phần vào
việc đổi mới và tăng cờng hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị ở nớc ta trong giai đoạn hiện nay.


7
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về mặt nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu về Mô hình tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị Thụy Điển
- Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về mơ hình tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị Thụy Điển hiện nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản mà chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử và phương pháp lịch sử cụ thể cùng
với hệ thống phương pháp luận chính trị học mácxít là cơ sở để hình thành
phương pháp luận văn.
- Ngồi ra cịn sử dụng các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp,
thống kê, so sánh… để nghiên cứu và trình bày nội dung luận văn.
7. Những đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn có những đóng góp khoa học sau:
- Q trình hình thành, mơ hình tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị Thụy Điển
- Đánh giá, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Thụy Điển.
- Phân tích và nêu ra những giá trị tham khảo cho việc đổi mới và hoàn
thiện hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.
8. KÕt cÊu cđa luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo. Luận văn gồm 2 chơng, 6 tiết.



8
Ch¬ng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
VÀ NHỮNG NHÂN TỚ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỤY ĐIỂN
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chính trị
1.1.1. Khái niệm về hệ thớng chính trị
Hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị và
Chính trị học. Nó chính là hệ thống những thiết chế, tổ chức, cách thức để
hiện thực hóa quyền lực chính trị. Thơng qua hệ thống chính trị quyền lực
chính trị được xác lập, tư tưởng chính trị được vận dụng vào trong thực tiễn
chính trị, các quan hệ chính trị được xác lập. Cũng thơng qua hệ thống chính
trị vị trí, vai trị của các chủ thể chính trị được xác lập. Cũng chính tầm quan
trọng và sự phức tạp của chính trị nói chung và hệ thống chính trị nói riêng
mà nó được xem xét từ nhiều chiều cạnh, bị chi phối bởi nhiều luồng tư
tưởng, bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố như kinh tế, truyền thống, hệ tư tưởng,
bản chất của nền chính trị và đặc biệt là của giai cấp cầm quyền. Hệ thống
chính trị với tư cách là một hệ thống các thiết chế tổ chức là một trong các bộ
phận tạo nên cấu trúc của chính trị (các yếu tố cịn lại của chính trị là quan hệ
chính trị và hệ tư tưởng chính trị).
Có thể nêu ra những quan điểm chủ yếu sau đây về hệ thống chính trị:
Quan niệm thứ nhất: Cho rằng, hệ thống chính trị là hệ thống quyền lực
của giai cấp cầm quyền, hay cịn gọi là hệ thống chun chính của giai cấp
cầm quyền, nghĩa là hệ thống đó chỉ bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội do
giai cấp cầm quyền thiết lập nên để bảo vệ quyền lực và hiện thực hóa lợi ích,
nhu cầu của giai cấp cầm quyền - giai cấp nắm sức mạnh kinh tế. Các tổ chức
chính trị - xã hội khác khơng được coi là thành tố của hệ thống chính trị.
Quan niệm mày xuất phát từ nhận thức cho rằng kinh tế quyết định chính trị,



9
phương thức và cách thức hiện thực hóa quyền lực chính trị. Hay cịn gọi là
quan điểm tuyệt đối hóa vai trị của kinh tế mà khơng thấy được sự ảnh hưởng
ngược trở lại của chính trị đối với kinh tế. Chính vì tuyệt đối hóa vai trị của
kinh tế nên họ cho rằng giai cấp nào nắm quyền thống trị về kinh tế thì có
quyền thiết định hệ thống các thiết chế tổ chức của mình nhằm hiện thực hóa
lợi ích và nhu cầu của giai cấp mình [26, tr.18].
Quan niệm thứ hai: Xem hệ thống chính trị khơng chỉ là hệ thống
chuyên chính của giai cấp cầm quyền mà là tất cả các tổ chức chính trị - xã
hội hợp pháp hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến quyền lực thống trị
của giai cấp cầm quyền. Đó là hệ thống tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp,
trong đó ưu thế cơ bản thuộc về các thiết chế của giai cấp nắm quyền lực về
kinh tế để tác động vào các qúa trình kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ, duy trì và
phát triển chế độ xã hội đương thời và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Quan
điểm này đã có phần mở rộng hơn so với quan niệm thứ nhất. Nó cũng cho
phép phân định giữa các tổ chức của hệ thống chính trị với các tổ chức nằm
ngồi hệ thống chính trị, đó chính là sự thừa nhận của Nhà nước bằng hệ
thống pháp luật [26, tr.18-19].
Quan niệm thứ ba cho rằng, hệ thống chính trị là hệ thống các thể chế
chính trị bao gồm các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng phái chính trị và
các tổ chức chính trị - xã hội… được tổ chức và hoạt động theo những chuẩn
mực xã hội, tuân thủ những nguyên tắc cơ bản được xác lập bởi hiến pháp và
hệ thống pháp luật. Quan niệm này đã xác định được những yếu tố cơ bản cấu
thành hệ thống chính trị đó là nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức chính
trị - xã hội (các nhóm lợi ích). Tuy nhiên, đây mới chỉ là những yếu tố mà
chúng ta nhìn thấy được còn đằng sau những yếu tố này là sự ràng buộc đan
xen nhau, mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tức là mới chỉ nhìn nhận hệ thống
chính trị ở trạng thái tĩnh mà chưa xem xét chúng dưới lăng kính động, tức là

sự vận hành của chúng trong mối tương tác của đời sống chính trị [3, tr.19].


10
Quan niệm thứ tư: Cho rằng, hệ thống chính trị là hệ thống các đảng
phái chính trị được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù
hợp với sự quy định của nhà nước. Giải thích cho quan điểm này chỉ đề cập
đến các đảng phái chính trị, các lập luận cho rằng dựa trên mục đích của hệ
thống chính trị là bao gồm hệ thống các thể chế hiện thực hóa quyền lực chính
trị do đó nó chỉ bao gồm các đảng phái chính trị. Vì nhà nước hay cụ thể là
các thể chế nhà nước để hiện thực hóa quyền lực nhà nước [26, tr.19].
Chúng ta có thể định nghĩa: Hệ thống chính trị là tổ hợp có tính chỉnh
thể các thế chế chính trị (các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị
các tổ chức và các phong trào xã hội)... được xây dựng trên các quyền và các
chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành
theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực
chính trị [26, tr.19].
1.1.2. Cấu trúc của hệ thớng chính trị
Hệ thống chính trị được cấu thành từ nhiều bộ phận chức năng khác
nhau. Có thể coi mỗi bộ phận đó là một tiểu hệ thống của Hệ thống chính trị.
Như vậy, cấu trúc của Hệ thống chính trị được chia thành như sau;(1)Tiểu hệ
thống thể chế;(2) Tiểu hệ thống quan hệ;(3)Tiểu hệ thống cơ chế vận hành;
(4)Tiểu hệ thống các nguyên tắc hoạt động,...
Trung tâm của Hệ thống chính trị là nhà nước. Nhà nước tác động
mạnh mẽ đến hoạt động của các tiểu hệ thống khác. Nhà nước thể hiện bản
chất chính trị của hệ thống chính trị và chế độ xã hội. Các đảng chính trị cũng
phải dành lấy quyền lực nhà nước, thông qua Nhà nước và bằng Nhà nước để
thực hiện các mục tiêu chính trị của mình.



11
1.1.2.1. Thể chế chính trị
Thể chế chính trị là cốt lõi của Hệ thống chính trị, trên cơ sở tiểu hệ
thống này mà các tiểu hệ thống khác được xác lập và hoạt động. Vì vậy thể
chế chính trị là khái niệm có vị trí quan trọng, là một trong những khái niệm
trung tâm của khoa học chính trị. Trước khi nghiên cứu cấu trúc của hệ thống
chính trị, chúng ta cần làm rõ khái niệm thể chế chính trị.
Như vậy khái niệm "thể chế" nói chung được hiểu theo ba cấp độ:
Thứ nhất, những quy định, những chuẩn mực, quy chế, quy phạm luật
lệ phản ánh mối quan hệ chức năng giữa các bộ phận của một tổng thể - chỉnh
thể (trong đời sống xã hội).
Thứ hai, thể chế được coi là những dạng thức, những cấu trúc tổ chức
phân bố theo những chức năng của hệ thống xã hội.
Thứ ba, thể chế được hiểu tổng hợp gồm cả hai cấp độ mà cấp độ này
làm cơ sở để xác định cấp độ kia.
Hiểu một cách đơn giản hơn “thể chế” là khn khổ trong đó quy định
“luật chơi” “sân chơi” và “người chơi”
Thể chế phân định mối quan hệ chức năng giữa cái bộ phận và cái tổng
thể nhưng mối quan hệ giữa "thể chế" với tư cách là một bộ phận của một
"tổng thể" có ý nghĩa tương đối, tùy theo cái "tổng thể" mà chúng ta xem xét.
Trong mối quan hệ này "tổng thể" là một tổng thể, trong mối quan hệ khác
"tổng thể" chỉ đóng vai trị là một thể chế mà thơi.
Từ cách tiếp cận trên về "thể chế" người ta đưa vào khoa học chính trị,
xây dựng thành khái niệm "thể chế chính trị" để nghiên cứu các hiện tượng và
các quá trình chính trị.
Vậy "Thể chế chính trị" một mặt là những quy định, quy chế, chuẩn
mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ... nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ
chính trị. Mặt khác, nó là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức
năng cấu thành của một chủ thể chính trị, hay hệ thống chính tri [6, tr.19].



12
Do tính phức tạp của khái niệm thể chế chính trị, khi sử dụng khái niệm
này cần phải linh hoạt, tính tới những sự biến đổi của khái niệm trong sinh
hoạt học thuật hoặc khoa học. Đặc biệt cần phân biệt khái niệm thể chế chính
trị với các khái niệm gần gũi với nó như "chính thể", "chế độ chính trị" v.v...
Thể chế chính trị xuất hiện trong đời sống xã hội là một đòi hỏi khách
quan, phản ánh sự phát triển của thượng tầng kiến trúc trong sự phù hợp với
hạ tầng kinh tế. Thể chế chính trị là phương tiện để điều chỉnh, kiểm soát các
quan hệ, hành vi chính trị và thực thi quyền lực chính trị.
Các thể chế chính trị là những phạm trù lịch sử. Chúng hình thành
trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Với tư cách là các bộ phận
hợp thành cơ thể xã hội, các thể chế chính trị, trong q trình phát triển, vừa
đổi mới, hồn thiện vừa đảm bảo tính liên tục và kế thừa.
Các thể chế chính trị có những chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Đảm bảo mối quan hệ, vai trò, chức năng giữa các bộ phận của hệ
thống; Quy định các quan hệ và hành vi của con người trong các lĩnh vực
chính trị nhất định; Tổng hợp các vai trị mà con người, cộng đồng người
thực hiện trong khuôn khổ các thể chế đó; Hình thành các chuẩn mực, các
tiêu chí chính trị.
Trong hệ thống chính trị, vị trí, vai trị, chức năng của các thể chế chính
trị rất khác nhau. Những thể chế quan trọng mà chúng ta cần quan tâm nghiên
cứu là: Các thể chế nhà nước (đồng thời là các thể chế chính trị), đảng chính
trị, các phong trào xã hội và các tổ chức chính trị xã hội, hệ thống bầu cử...
1.1.2.2. Các thể chế nhà nước
Nhà nước có vị trí độc quyền kiểm sốt lãnh thổ, thay mặt tồn xã hội
thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, làm luật, các hoạt động điều tiết
cần thiết cho toàn xã hội, thu thuế, các khoản thu khác, quyền kiểm soát việc
chấp hành pháp luật và các chuẩn mực pháp lý khác quyền sử dụng cưỡng
bức thể chất và các hình phạt khác.



13
* Cơ quan lập pháp (còn được gọi là Quyền lập pháp, Nghị viện hay
Quốc hội và một số tên gọi khác như ở Nga là Đuma quốc gia và Hội đồng
Liên bang, ở Đức là Bundextas và Bundexrat, ở Trung Quốc là Hội nghị Đại
biểu nhân dân tồn quốc...)
Nhìn chung cơ quan lập pháp có các chức năng cơ bản sau: (1) Đại
diện cho ý chí của nhân dân (cử tri); (2) Lập pháp; (3) Quyết định những
vấn đề chung. Như thông qua ngân sách, phân bổ ngân sách, chuẩn quyết
toán ngân sách và quyết định các thứ thuế; Phê chuẩn hoặc hủy bỏ điều ước
quốc tế, tuyên bố tình trạng chiến tranh, hịa bình, tình trạng khẩn cấp;
Đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập các cơ quan nhà nước;(4)
Giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước, quan chức nhà nước; Trong
chức năng này có các hình thức như: Nghe báo cáo của chính phủ, các
thành viên chính phủ; chất vấn các thành viên chính phủ, bỏ phiếu tín
nhiệm chính phủ, các thành viên chính phủ; Luận tội người đứng đầu cơ
quan hành pháp; (5) Những quyền hạn khác như quyết định trưng cầu dân
ý, đại xá; (6) Quyền ủy quyền của nghị viện; (7) Phục vụ cử tri (đóng vai
trị trung gian giữa cử tri và chính quyền).
Quốc hội cịn được xem như là một tổ chức để giải quyết những mâu
thuẫn trong xã hội. Ở nhiều nước, các nhóm lợi ích cũng coi Quốc hội là nơi
để họ có thể tác động hoặc bày tỏ nguyện vọng của họ.
Khả năng kiềm chế và đối trọng của Quốc hội với các quyền khác. Đây là
một nguyên tắc và chức năng của các thể chế quyền lực trong các nước dân chủ
nghị trường. Nguyên tắc này nhằm làm cho quyền lực nhà nước được kiểm soát,
kiềm chế, tránh được lạm dụng quyền lực, hoặc tuyệt đối hóa quyền lực.
Kiềm chế của Quốc hội đối với ngành hành pháp:Nói chung, Quốc hội
các nước đều có những quyền sau đối với ngành hành pháp; (1) Quyết định
phê chuẩn dự chi ngân sách Nhà nước; (2) Chất vấn, giám sát, thậm chí luận

tội các quan chức hành pháp, kể cả tổng thống; (3) Phê chuẩn nhân sự nội các


14
và thẩm phán tòa án tối cao do người đứng đầu Chính phủ đệ trình; (4) Phê
chuẩn các hiệp ước mà chính phủ ký với nước ngồi; (5) Bác bỏ phủ quyết của
người đứng đầu hành pháp đối với các dự luật; (6) Kết tội và truất quyền của các
công chức hành chính, kể cả tổng thống trong trường hợp phạm tội.
Ngành lập pháp có quyền: (1) Quyết định quy mơ của tịa án tối cao,
các tịa án cấp dưới; (2) Nghị viện có quyền phê chuẩn đề cử thẩm phán của
người đứng đầu chính phủ hoặc đứng đầu nhà nước; (3) Quốc hội có thể kết tội
một thẩm phán và truất quyền thẩm phán khi thẩm phán đó có hành vi sai trái.
* Cơ quan hành pháp: Chức năng: Hành pháp là một trong 3 nhánh
quyền lực của Nhà nước. Nó có chức năng chủ yếu là thực thi pháp luật và
quản lý hành chính nhà nước (lập quy).
Cơ cấu tổ chức cơ quan hành pháp và phụ thuộc vào mơ hình nhà nước,
cộng hịa tổng thống hay cộng hòa đại nghị. Đối với các nước cộng hòa tổng
thống, đứng đầu thể chế hành pháp là tổng thống (điển hình là Mỹ). Ở các
nước cộng hịa đại nghị (Đức, Italia...) thì đứng đầu hành pháp là thủ tướng. ở
các nước này tổng thống giữ chức năng đại diện cho quốc gia.
Ở Mỹ, Tổng thống Mỹ do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm.
Ở các nước cộng hòa đại nghị, thủ tướng đứng đầu quyền hành pháp,
được nghị viện bầu. Thông thường thủ tướng là người của đảng đa số hoặc
một liên minh đa số trong nghị viện.
Ở các nước có mơ hình hỗn hợp (Pháp) tổng thống cũng được bầu trực tiếp.
Trong chế độ cộng hòa tổng thống Nghị viện khơng thể bỏ phiếu bất tín
nhiệm tổng thống (tổng thống tồn dân tín nhiệm). Tổng thống cũng không
được giải tán nghị viện.
Ở các nước này, Tổng thống là trung tâm quyền lực của nhà nước,
quyền hành pháp hồn tồn thuộc về Tổng thống. Tổng thống có quyền:

Quyết định mọi chính sách, đường lối chính trị của chính phủ, định
hướng đường lối đối nội, đối ngoại của quốc gia; Có quyền quyết định sử


15
dụng, bãi miễn các thành viên nội các - các bộ trưởng, các quan chức cao cấp
khác của chính phủ; Có quyền thay mặt chính phủ ký kết các điều ước các
hiệp định với nước ngồi; Thống sối các lực lượng vũ trang, quyền chỉ huy
quân sự cao nhất; Ký ban bố các luật, mệnh lệnh hành chính có hiệu lực pháp lý.
Các thành viên nội các không cố định, có thể thay đổi do Tổng thống.
Các thành viên Nội các không đồng thời là thành viên nghị viện. Nội các là cơ
quan giúp việc của Tổng thống, chịu trách nhiệm trước Tổng thống.
Bộ máy công chức: Được coi là kết cấu hạ tầng của ngành hành pháp.
Bộ máy công chức khơng chỉ đóng vai trị quan trọng trong thực thi nhiệm vụ
mà là còn là một yếu tố ngăn cản sự lạm quyền của giới lãnh đạo chính trị. Bộ
máy công chức được lựa chọn theo hai cách:
Sự lựa chọn này vừa đảm bảo trao cho những người có uy tín với nhân
dân, vừa trao cho những người có trình độ chun mơn kỹ thuật cần thiết cho
sự quản lý nhà nước.
Như vậy trong hệ thống hành chính của nhiều nước có hai phạm trù
cơng chức cơ bản: a) Quan chức chính trị; b) Cơng chức thường xun. Quan
chức chính trị có thể thay đổi theo sự thay đổi của Chính phủ. Nó giúp cho
việc thích nghi, chuyển hướng chính trị kịp thời của bộ máy, cịn cơng chức
thường xuyên đảm bảo sự ổn định, thực hiện những nhiệm vụ cố định có tính
kỹ thuật của bộ máy hành chính đã được pháp quy hóa. Vấn đề là phải giải
quyết tốt mối quan hệ giữa 2 phạm trù công chức này.
Cơ cấu Chính phủ: Ở các nước cộng hịa tổng thống, ngồi Tổng thống
cịn có các bộ, các trung tâm, các ủy ban điều hành độc lập, văn phòng điều
hành của Tổng thống và nội các. Các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Tổng
thống về công việc mà họ quản lý, về chính sách của chính quyền. Ngồi ra

các bộ trưởng còn phải quan tâm đến những yêu cầu của Quốc hội, cơ quan
phê chuẩn họ. Các nhóm áp lực, lobby cũng có ảnh hưởng đến các bộ trưởng.
Ở các chính phủ liên bang cịn có cơ quan hành chính tiểu bang. Tổng thống


16
điều hòa phối hợp hoạt động các bộ và cơ quan ngang bộ nhằm tạo ra sự nhất
quán khi hoạch định và thực thi các chính sách. Tổng thống có đặc quyền
hành pháp, các quyền này được bảo vệ, giữ bí mật và khơng bị kiểm sốt bởi
bất cứ cơ quan tổ chức nào.
Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm
triển khai thực hiện các đạo luật đã được nghị viện thông qua sao cho có lợi
nhất cho quốc gia. Những văn bản này khơng những chỉ bổ sung mà cịn thay
thế cả pháp luật trong điều chỉnh những vấn đề khác nhau của đời sống xã
hội. Chúng giúp cho ngành hành pháp quản lý xã hội một cách chi tiết, bởi
Quốc hội chỉ có thể ban hành những đạo luật chung mà thơi. Như vậy quyền
đưa ra chính sách cụ thể nằm trong tay ngành hành pháp. Các cơ quan trong
bộ máy hành pháp có thể đưa ra các luật lệ riêng phản ánh những quan điểm
của mình gọi là các văn bản quy phạm pháp luật.
Ở các nước có mơ hình cộng hịa đại nghị thì người đứng đầu ngành
hành pháp, thủ tướng là lãnh tụ của một đảng hoặc liên minh chính trị chiếm
đa số trong nghị viện, được nguyên thủ quốc gia (tổng thống) chỉ định thành
lập nội các.
Thủ tướng là trung tâm quyền lực của nhà nước, đứng đầu chính phủ,
đảm nhiệm những chức năng nhiệm vụ cơ bản như tổng thống trong chế độ
cộng hòa tổng thống.
Nội các đại diện cho nguyên thủ quốc gia thực thi quyền hành pháp,
chịu trách nhiệm trước nghị viện. Nếu nghị viện bỏ phiếu khơng tín nhiệm thì
nội các phải từ chức, hoặc trong trường hợp ấy, chính phủ đề nghị nguyên thủ
quốc gia giải tán nghị viện để dân bầu lại.

Trong mơ hình hỗn hợp giữa cộng hịa tổng thống và cộng hịa đại nghị,
(điển hình là Pháp), Tổng thống là nguyên thủ quốc gia. Chính phủ do Thủ
tưởng đứng đầu (từ đảng đa số trong nghị viện) do Tổng thống bổ nhiệm.


17
Ở Pháp đặc tính cộng hịa đại nghị vẫn rất rõ nét nhưng quyền lực Tổng
thống cũng được tăng cường.
+ Quyền kiềm chế và đối trọng của thể chế hành pháp đối với các thể
chế khác: Thông qua một số quyền hạn và nhiệm vụ được Hiến pháp thừa
nhận, cơ quan hành pháp tác động gây ảnh hưởng đối với quốc hội:
Ở các nước cộng hòa tổng thống (Mỹ), tổng thống có quyền phủ quyết
đối với các đạo luật mà Quốc hội đã thơng qua có quyền gửi thơng điệp của
Tổng thống cho Quốc hội, trong đó chứa đựng nội dung các dự án luật do
Tổng thống đề nghị. Quyền đưa ra sáng kiến lập pháp; Quyền sáng kiến về
luật ngân sách; Yêu cầu triệu tập họp Quốc hội bất thường.
* Cơ quan tư pháp hay là ngành tư pháp là một trong ba thể chế quyền
lực quan trọng của nhà nước.
Cơ quan tư pháp có các chức năng sau: (1) Bảo vệ hiến pháp và pháp
luật thông qua các hoạt động xét xử mọi hành vi vi phạm hiến pháp và pháp
luật; (2) Giải thích hiến pháp, pháp luật; (3) Phối hợp hoạt động với các
ngành khác (trong đó cả giám sát, kiềm chế...).
Thẩm quyền: Xét xử và định hướng xét xử: Khi bảo vệ hiến pháp và
pháp luật, ngành tư pháp cũng chỉ dựa vào pháp luật, không được vượt ra
ngồi khn khổ pháp luật. Tư pháp xét xử phải cơng minh. Đây là một địi
hịi rất cao, khi trong xã hội có nhiều nhóm lợi ích khác nhau, có thế lực khác
nhau, hiểu, thực thi pháp luật khác nhau, thậm chí vi phạm cũng bằng các
cách khác nhau. Nhất là khi các cơ quan nhà nước như quốc hội, chính phủ,
tổng thống v.v... vi phạm pháp luật thì việc xét xử cực kỳ khó khăn.
Ở nhiều nước, việc giải thích pháp luật khơng được ghi thành một chức

năng chính thức. Nhưng qua thực tế xét xử, ngành tư pháp khách quan đã đảm
nhiệm chức năng này. Bởi vì để xét xử được, tư pháp phải hiểu, những điều
luật rất chung, giải thích luật, áp dụng luật như thế nào... Hành vi giải thích tư
pháp này cịn có một chức năng phái sinh nữa là giáo dục pháp luật. Ở một số


18
nước, ngành tư pháp còn bao gồm cả kiểm sát việc thực hiện pháp luật của
nhà nước và công dân. Ở những nước đó, về tổ chức, ngành tư pháp ngồi hệ
thống tịa án, cịn có cả viện kiểm sát.
* Cơ cấu tổ chức của ngành tư pháp: Đó là hệ thống tịa án. Nói
chung ở các nước đều có tòa án tối cao, tòa án địa phương, tòa án lưu
động, tòa trọng tài, tòa đặc biệt xét xử theo hai cấp sơ thẩm, phúc thẩm. ở
các nước có kết cấu liên bang, ngồi hệ thống tịa án liên bang, cịn có hệ
thống tịa án tiểu bang.
1.1.2.3. Các Đảng phái chính trị và các phong trào chính trị-xã hội
* Các Đảng phái chính trị
Có nhiều cách quan niệm về Đảng chính trị.
Quan điểm của Lênin cho rằng đảng chính trị là tập hợp những người
có tổ chức nhất của một giai cấp, có ý thức nhất về quyền lợi của giai cấp
mình, có quyết tâm chiến đấu vì lợi ích của giai cấp.
Ngày nay, trên thế giới có những quan niệm khác nhau về đảng chính
trị. Ở Mỹ, ở phương Tây và các nước có chế độ đại nghị, nhiều ý kiến cho
rằng: Đảng chính trị là một nhóm cá nhân, được tổ chức lại nhằm giành chiến
thắng trong các cuộc bầu cử, để điều hành chính phủ và quyết định chính sách
cơng cộng. Các đảng như vậy gọi là đảng bầu cử. Mục tiêu là giành ghế trong
nghị viện và các vị trí quyền lực.
Các đảng chính trị khác nhau, các phong trào chính trị - xã hội khác nhau
sẽ đóng vai trị khác nhau trong đời sống chính trị của nước này hay nước khác.
Có thể chúng trở thành đảng cầm quyền, thành lập chính phủ từ đội ngũ đảng

viên của mình, giữ vị trí chủ đạo trong các cơ quan lập pháp, có ảnh hưởng và uy
tín lớn ở tất cả các tầng lớp khác nhau của xã hội. Một số đảng khác ở vị trí đối
lập, chiếm giữ ít ghế trong cơ quan lập pháp hoặc có thể khơng có ghế nào,
khơng có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống chính trị, xã hội đất nước.


19
* Các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội
Các phong trào và tổ chức chính trị - xã hội khác với các đảng chính trị
ở mục tiêu định hướng, hình thức tổ chức và phương thức hoạt động.
Trong xã hội hiện đại vai trò của các phong trào xã hội, các tổ chức
chính trị - xã hội rất lớn và khơng ngừng tăng lên, có nhiều phong trào và
tổ chức có vai trị và chức năng quan trọng trong Hệ thống chính trị. Đây là
một bộ phận quan trọng của xã hội công dân, đang tích cực cùng nhà nước
và Hệ thống chính trị hiện thực hóa các lợi ích và nhân cách cá nhân cũng
như của cộng đồng, cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. ở nhiều
nước các phong trào xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ và quan trọng trong
việc hoạch định chính sách của nhà nước và khuynh hướng chính trị của
các đảng. Bởi vì đây là một tiểu hệ thống có khả năng hiện thực hóa và xã
hội hóa các mục tiêu chính trị của Hệ thống chính trị.
1.1.3. Nguyên tắc và cơ chế vận hành của Hệ thớng chính trị
1.1.3.1. Ngun tắc
Mỗi Hệ thống chính trị có những nguyên tắc và cơ chế vận hành riêng.
Dựa trên những nguyên tắc này mà các quan hệ, hành vi chính trị được định
hướng và tạo thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống. Cũng cần nói thêm
rằng giữa "ngun tắc" và "cơ chế" khơng có những bức trường thành ngăn
cách. Nói cách khác giới hạn giữa các khái niệm đó chỉ là tương đối.
Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới phổ biến một số nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nguyên tắc
này khẳng định tính khách quan quyền lực của nhân dân với tư cách là chủ thể

của quá trình lao động sản xuất xã hội, là những người sáng tạo ra các giá trị xã
hội (nguồn gốc của quyền lực), ủy một phần quyền của mình thơng qua những
người đại diện để tổ chức và thực thi quyền lực chính trị quyền lực nhà nước. Từ
nguyên tắc này, phát sinh một loạt các nguyên tắc sinh hoạt và ứng xử chính trị
khác liên quan đến việc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.


20
Nguyên tắc thứ hai ủy quyền có điều kiện và có thời hạn: Nguyên tắc
này xác định ai là người có thể được ủy quyền và ủy quyền trong bao lâu. Để
đảm bảo nguyên tắc này phải xây dựng thể chế bầu cử bao gồm lựa chọn các
ứng viên, thể thức bầu cử và thủ tục truất quyền khi cần thiết.
Do trong xã hội có các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm và từng con
người khác nhau với những định hướng giá trị chính trị khác nhau nên ý kiến
về các vấn đề đều có thể khác nhau. Vì vậy để đảm bảo điều hịa những khác
biệt đó phải có nguyên tắc đồng thuận xã hội, tức là:
Nguyên tắc thứ ba nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc này thực chất là tạo
các điều kiện kinh tế - xã hội và pháp lý để dân tham gia ngày càng nhiều và
thực chất vào công việc nhà nước, tự quyết định vận mệnh của mình thơng
qua nhà nước, bằng nhà nước.
Những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là: (1) Công khai các hoạt
động của nhà nước; (2) Tạo điều kiện để dân tiếp cận thông tin; (3) Tạo điều
kiện để dân bày tỏ nguyện vọng (dân chủ trực tiếp, gián tiếp); (4) Bầu cử tự do để
nhân dân lựa chọn các đại biểu và thể hiện ý chí, phải hỏi dân khi quyết định
những vấn đề quan trọng; (5) Thiểu số phục tùng quyết định của đa số, đa số
tôn trọng và bảo vệ thiểu số.
Nguyên tắc thứ tư nguyên tắc tập trung (thống nhất) - phân quyền: Đây
là hai mặt của một vấn đề trong đời sống chính trị. Khơng có tập trung (thống
nhất) quyền lực đủ mức thì sẽ khơng có quyền lực chính trị hoặc quyền lực
nhà nước và sẽ khơng có quyền lực để phân chia (hoặc phân cơng); khơng có

thống nhất thì khơng cịn quyền lực nhà nước (tức là chỉ còn quyền lực tập
đoàn hoặc quyền lực cát cứ).
Sự thống nhất quyền lực nhà nước thể hiện:
(1) Xã hội công dân thống nhất, trên đó xây dựng nhà nước;
(2) Lãnh thổ quốc gia dân tộc thống nhất;


21
(3) Ý chí nhân dân được tổng hợp lại thành những văn bản (khế ước) có
tính pháp lý hợp pháp (hiến pháp và pháp luật...) từ đây xây dựng những thể
chế quyền lực thống nhất (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan hành chính cao
nhất, cơ quan xét xử cao nhất...).
Tuy nhiên, những ngun tắc này dù có tính hiến định hoặc pháp định
nhưng về thực chất chúng được áp dụng trong thực tiễn là rất khác nhau. Ở
nhiều nước, những nguyên tắc này vẫn là những mục tiêu cần vươn tới.
(4) Thống nhất bởi đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền chi phối hệ
thống chính trị bằng các phương thức chính trị như ảnh hưởng cương lĩnh,
đường lối, nêu gương, tổ chức, vận động giáo dục...
Trên cơ sở những thống nhất trên đây, mà biểu hiện ra là tính đồng
thuận, tính thỏa hiệp xã hội, sẽ thực hiện sự phân quyền. Sự phân quyền mà
sắc thái và các cấp độ của nó được các tác giả mơ tả và nhấn mạnh rất khác
nhau như “phân lập” "phân chia" "phân cơng" "phân quyền" "phân cấp" "tản
quyền" v.v...đều muốn nói đến giao cho các chủ thể khác nhau theo chiều
ngang (Trung ương - Trung ương) hay theo chiều dọc (Trung ương - địa
phương) những nhiệm vụ có tính chức năng của nhà nước (chức năng chính
trị hoặc xã hội).
Vì vậy phân quyền là một biểu hiện tất yếu của quá trình thực thi quyền
lực nhà nước trong tính phức tạp, đa dạng, trong trạng thái vận động của nó.
Khơng có sự phân quyền, trong điều kiện xã hội hiện đại, quyền lực chính trị
và quyền lực nhà nước sẽ khơng được thực thi.

1.1.3.2. Cơ chế vận hành của Hệ thống chính trị
Cơ chế tổng hợp các phương thức vận hành của Hệ thống chính trị. Cơ
chế vừa phản ánh bản chất chế độ chính trị vừa chi phối các hoạt động của hệ
thống. Có các cơ chế cơ bản sau:
(1) Cơ chế mệnh lệnh cưỡng bức.


22
(2) Cơ chế thể chế.
(3) Cơ chế tư vấn.
(4) Cơ chế kiểm sốt quyền lực.
Các cơ chế này có thể được vận hành đồng thời, có thể riêng biệt tùy
theo các quan hệ giữa chủ thể chính trị và đối tượng chịu tác động của quyền
lực chính trị. Các cơ chế thể hiện được trình độ thuần thục của hệ thống và sự
trưởng thành về văn hóa chính trị.
Quan hệ theo chiều ngang (cùng cấp) của hệ thống: Giữa các thể chế
cấp Trung ương với cấp Trung ương, địa phương với địa phương... Ví dụ giữa
các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và Tịa án tối cao.
Quan hệ theo chiều dọc của hệ thống: Giữa các cơ quan quyền lực
Trung ương với các cơ quan quyền lực địa phương và cơ sở
Quan hệ Hệt thống chính trị của một quốc gia với các hệ thống chính trị
bên ngồi.
Quan hệ chính trị là yếu tố kết nối các bộ phận chức năng, các cấu trúc
của Hệ thống chính trị. Vai trị đặc biệt của các quan hệ chính trị là ở chỗ nó
biểu đạt cân bằng lợi ích, sự trung lập, trạng thái thực tế chấp nhận được giữa
các lợi ích, các nhóm, các giai cấp, các dân tộc trong một hệ thống quyền lực
công và nhân danh quyền lực công để bảo vệ, duy trì sự cân bằng ấy.
1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của Hệ
thống chính trị Thụy Điển
1.2.1. Khái quát lịch sử thể chế chính trị Vương quốc Thụy Điển

Lịch sử đất nước Thụy Điển vào khoảng 12000 năm trước công nguyên
đây là điểm khởi đầu, đó là thời kỳ các tảng băng lớn bao phủ bán đảo
Scandinavia bắt đầu tan. Những con người đầu tiên xuất hiện, họ là những bộ
lạc săn bắn theo vết băng tan mà tiến dần lên phía Bắc, những bộ lạc hoang dã
trên đất Thụy Điển đã đấu tranh với thiên nhiên và đặt nền móng văn minh:


23
họ tìm ra lửa, làm đồ gốm, ni súc vật, trồng trọt. Đến khoảng 3000 năm
trước công nguyên họ biết định cư trồng trọt và về sau học biết cách sử dụng
sắt. Những thế kỷ đầu công nguyên, các tộc người xung quanh vùng hồ
Malaren đã chiếm ưu thế và khuất phục các tộc người Goth. Nước Thụy Điển
đã sơ bộ hình thành trên nền lãnh thổ do vương quốc thống nhất.
Thời kỳ Viking (Thế kỷ VIII - XI): Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XI sau
công nguyên, những bộ tộc người Viking đã thốt khỏi tình trạng biệt lập trên
bán đảo Scandinavia tập trung ở các bờ biển (Bắc thành phố Stoockholm ngày
nay), họ tung hoành trên biển khơi, họ cướp bóc bn bán, khám phá đất lạ,
chiếm đất, học hỏi những kỹ thuật và tư tưởng mới của Đơng Âu vùng Nga,
đế chế phía đơng Bizance và Tây Âu ( Anh, Pháp, Đức). Như vậy trong suốt
thời kỳ Viking, vương quốc Thụy Điển đã được hình thành, nhưng các đường
biên giới vẫn khơng có người ở, khơng có chính quyền trung ương, Mỗi địa
phương có hệ thống pháp luật và luật riêng của mình.[24, tr15]
Rất khó có thể nói vào thời điểm nào thì Thụy Điển trở thành một
vương quốc đơn nhưng vào khoảng thế kỷ VII đã có những vị vua tuyên bố
ràng quyền trị vị tồn bộ đất nước.
Thụy Điển có truyền thống lâu đời về quyền địa phương tự quyết về
các vấn đề của địa phương. Ngay các thế kỷ đầu và sau công nguyên, các tộc
trưởng đã thường họp các hội đồng(ting) để giải quyết những bất đồng nội bộ
và phán xét công lý.
Thời kỳ Trung cổ (Thế kỷ XI- XV): Trong thời kỳ này, ở cả nông thôn và

thành thị. Thụy Điển Đã có một hệ thống khá phát triển của chính quyền địa
phương tự quản. Các vị vua được bầu theo một số quy định: bên cạnh vua cịn
có một hội đồng bao gồm đại diện các nhà quý tộc lớn.
Đến thế kỷ XII, nhiều bộ luật tổng hợp các luật địa phương, quy
định tỷ mỉ sinh hoạt chủ yếu lúc đó ở nơng thơn. Vào giữa thế kỷ XIV, bộ
luật của nhà vua Magnus Eikssons - một hiến pháp ra đời sớm - đảm bảo


24
cho giới tiểu chủ Thụy Điển có quyền tự do về các nhân và tài chính có
quyền được gây ảnh hương đến các vấn đè quốc gia. Sau năm 1350 ít lâu,
đã có một bộ luật chung cho cả nước nhằm bảo vệ hịa bình và an ninh
cho mọi người, kẻ nào sử dụng bạo lực trong nhà thờ, trong một cuộc họp
các người tự do, hoặc đối với phụ nữ khơng ai bảo vệ hay nhà của tư
nhân, thì bị đặt ra ngồi vịng pháp luật, bị mất hết của cải và quyền lợi
khác.Và bộ luật trung ấy còn là một hiến pháp quy định quyền hạn, nhiệm
vụ của vua, hội đồng và nhân dân.
Như vậy là dân chủ ở Thụy Điển đã có truyền thống từ rất sớm. Nơng
dân Thụy Điển sớm có một vai trị chính trị mà nơng dân các nước khác chưa
có, nơng dân có ruộng đất và tự do, là một lực lượng chính trị đáng kể. Ngay
từ thế kỷ XV, Nghị viện Thụy Điển (Riksdag) ra đời đã có 4 thành phần: quý
tộc, tăng lữ, tư sản (thị thành) và nông dân.
Thời kỳ củng cố, bành trướng, trở thành cường quốc (thế kỷ XVI - đầu
thế kỷ XVIII): Thế kỷ XVI - một nhà quý tộc Thụy Điển khởi nghĩa chống lại
Đan Mạch, thắng trận (1523) và được bầu làm vua Thụy Điển năm 27 tuổi,
tên là Gustav I Vasa (1523 - 1560), ông có công là đã củng cố vương quốc,
khiến Thụy Điển trở thành một mạnh nhất và thống nhất. Năm 1544, Quốc
hội đã khẳng định Thụy Điển giờ đây được trị vì bởi một nền quân chủ hùng
mạnh bằng việc lần đầu tiên trao vương miện theo nguyên tắc cha truyền con
nối. Ơng khuyến khích cơng thương nghiệp, giải phóng kinh tế khỏi sự thống

trị của Hansa, tịch thu của cải đất đai của giáo hội công giáo la mã, đạo tin
lành Luther trở thành quốc giáo cho đến nay.Các vua kế vị ông tiếp tục chống
Đan Mạch và mở rộng bờ cõi. [24, tr28]
Sang thế kỷ XVII, cháu gọi Gustav I Vasa bằng ơng là Gustav II
Adolf trị vì từ 1611 đến 1632. Có tài về chính trị và quân sự, ông đưa Thụy
Điển thành một cường quốc quân sự, ơng tham gia nhiều về phía đạo Tin
lành một giai đoạn trong chiến tranh (1618-1648), ông chiếm được rất


×