HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
ĐỀ TÀI:
Sức lao động là gì? Phân tích tác động của đại dịch
Covid-19 đến thị trường lao động Việt Nam. Đề xuất giải
pháp để phát triển thị trường lao động sau khủng hoảng
đại dịch Covid-19.
Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Lớp
Mã sinh viên
: ThS. Phạm Thanh Hiền
:
:
:
Hà Nội, ngày 15 tháng 06 năm 2021
Mục lục
Trang
A. MỞ ĐẦU…………………………………..……………………………1
1. Tính cấp thiết của đề tài…………………………….…………………2
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………….……………2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu…………………………………….2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu……………………………2
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài………………………………..2
B. NỘI DUNG……………………………………………………………...3
Chương 1: Khái quát lý luận………………………………….…………..3
1.1. Khái niệm sức lao động………………………..……………......3
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa…………….……3
1.3. Các thuộc tính của hàng hóa sức lao dộng……………….…......4
1.3.1. Giá trị hàng hóa sức lao động……………………………4
1.3.2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động………………......6
Chương 2: Tác động của đại dịch Covid-19………………………..........7
2.1. Đôi nét về đại dịch Covid-19 và ảnh hưởng của nó đến
nền kinh tế thế giới…………………………..……….…….…...7
2.2. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến thị trường lao
động Việt Nam………………………………………………….9
Chương 3: Đề xuất giải pháp và liên hệ bản thân……………..……….13
3.1. Giải pháp phát triển thị trường lao động Việt Nam
sau khủng hoảng đại dịch Covid-19…………………….……..13
3.2. Liên hệ bản thân………………………………………...…......15
C. KẾT LUẬN……………………………………………………...…….17
Tài liệu tham khảo………………………………………………...……...18
1
A. MỞ ĐẦU.
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Hiện nay, nước ta đang tiến tới xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hôi chủ nghĩa, nhiều thị trường ở nước ta đã từng bước được hình
thành và phát triển. Một trong những thị trường được hình thành đó là thị
trường sức lao động (hay thị trường lao động). Thị trường lao động hầu như
không được thừa nhận trước thời kì đổi mới, tuy nhiên, hiện nay, việc thừa
nhận thị trường lao động là một điều tất yếu. Có thể khẳng định rằng thị
trường lao động chính là thị trường đóng vai trị quan trọng trong sự phát triển
của nền kinh tế. Việc phát triển thị trường sức lao động là một tất yếu khách
quan vì lao động là hoạt động cơ bản nhất của con người, là nguồn lực to lớn
nhất góp phần tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Và để
có thể tìm hiểu rõ về thị trường sức lao động, đầu tiêu ta phải hiểu về sức lao
động và điều kiện để nó trở thành hàng hóa.
Thị trường lao động Việt Nam đang trên đà phát triển ổn định. Tuy nhiên,
vào cuối năm 2019, sự bùng phát dịch COVID-19 đã mang lại những thách
thức chưa từng có, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của thị trường này. Sự
càn quét khốc liệt của Đại dịch COVID-19 trên phạm vi toàn thế giới gây ra
nhiều tác động tiêu cực chưa từng có tiền lệ lên thị trường thế giới và Việt
Nam, đặc biệt là đối với thị trường lao động. Trong bối cảnh đó, địi hỏi
chúng ta phải có những giải pháp để hạn chế rủi ro của dịch bệnh đối với thị
trường, xác định những xu hướng mới trong thời kì dịch bệnh để có thể đưa ra
các giải pháp đảm bảo tăng trưởng hợp lí, ổn định lại thị trường lao động Việt
Nam và tạo nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế.
Và để cho mọi người có cái nhìn rõ ràng đồng thời hiểu rõ hơn về thị
trường lao động cũng như những ảnh hưởng mà Đại dịch Covid-19 đã đem lại
đối với thị trường này, em xin chọn đề tài: “Sức lao động là gì? Phân tích
tác động của đại dịch Covid 19 đến thị trường lao động Việt Nam. Đề
2
xuất giải pháp để phát triển thị trường lao động sau khủng hoảng đại
dịch Covid 19.” làm đề tài tiểu luận của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Thơng qua nghiên cứu, phân tích sức lao động và ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19 tới nền kinh tế, từ đó thấy được những thách thức đối với thị trường
lao động Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đưa ra các giải pháp và thấy rõ được
ý thức, trách nhiệm của mỗi sinh viên hiện nay trước sự chuyển đổi của thị
trường lao động sau đại dịch này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Những tác động của đại dịch Covid-19 và giải
pháp khắc phục.
Phạm vi nghiên cứu: Thị trường lao động Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hàng hóa sức
lao động.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng thông tin được thu thập trên
các tài liệu, sách báo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Tiến hành phân
tích, so sánh, tổng hợp, hệ thống hóa tài liệu theo mục tiêu nghiên cứu của đề
tài.Vận dụng sự hiểu biết cá nhân và các tài liệu tham khảo.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.
Ý nghĩa lý luận: Tiều luận góp phần cung cấp một cái nhìn khái quát về
hàng hóa sức lao động theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ý nghĩa thực tiễn: Giúp mọi người hiểu rõ về những tác động tiêu cực
của đại dịch Covid-19 lên nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Việt
Nam nói riêng, đặc biệt là thị trường lao động. Qua đó có những suy nghĩ,
3
cách nhìn nhận phù hợp để tìm ra cách thức mới, biến những thách thức thành
những cơ hội trong thời kì dịch bệnh.
B. NỘI DUNG.
Chương 1: Khái quát lý luận.
1.1. Khái niệm sức lao động.
Sức lao động là một khái niệm trọng yếu trong Kinh tế chính trị MácLênin. Sức lao động là khả năng lao động của con người, là điều kiện tiên
quyết của mọi quá trình sản xuất và là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu
của xã hội. C.Mác đã định nghĩa: “Sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể, trong một
con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra
một giá trị sử dụng nào đó.”
[5,tr251]
1.2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.
Sức lao động là điều kiện cơ bản của sản xuất, tuy nhiên, không phải lúc
nào sức lao động cũng là hàng hóa. Trong thời kì chiếm hữu nơ lệ, chủ nơ sở
hữu nơ lệ, vì vậy bản thân người nơ lệ khơng có quyền bán sức lao động của
mình, sức lao động trong trường hợp này khơng được coi là hàng hóa. Một
người thợ dệt vải có thể tự tạo ra quần áo để mặc, sức lao động trong trường
hợp này khơng phải hàng hóa, vì người thợ dệt vải có tư liệu sản xuất để tạo
ra sản phẩm cho bản thân tiêu thụ chứ không phải bán sức lao động để kiếm
sống. Như vậy, sức lao động chỉ được coi là hàng hóa khi có hai điều kiện
sau:
Một là, người lao động được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ xuất
hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa khi nó được bản thân người lao
động đưa ra bán. Người lao động phải làm chủ được sức lao động của mình
4
và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa. Muốn vậy, cần
phải loại bỏ chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến.
Hai là, người lao động khơng có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để
tự kết hợp với sức lao động của mình để tạo ra hàng hóa để bán, cho nên
họ phải bán sức lao động. Nói cách khác, người lao động bắt buộc phải bán
sức lao động của mình để có thể sinh sống, tồn tại. Nếu như người lao động
được tự do về thân thể là điều kiện cần thì việc họ khơng có tư liệu sản xuất
sẽ là điều kiện đủ. Khi người lao động được tự do về thân thể, đồng thời lại có
đầy đủ tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa rồi bán trên thị trường.
Lúc này, sức lao động khơng phải là hàng hóa. Vì vậy, muốn biến sức lao
động thành hàng hóa, thì người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất, chỉ
trong hồn cảnh đó họ mới buộc phải bán sức lao động đi để kiếm sống.
Sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi tồn tại đồng thời hai điều kiện
trên. Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu một bước ngoặt căn bản
trong lịch sử sản xuất hàng hóa, sự cưỡng bức lao động bằng các biện pháp
phi kinh tế trong chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến được thay
bằng hợp đồng mua bán bình đẳng giữa những người bán và người mua sức
lao động (người sở hữu tư liệu sản xuất). Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức
lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo
hiệu sự ra đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội - thời đại của chủ
nghĩa tư bản.
1.3. Các thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó cũng có hai thuộc tính cơ bản
như mọi hàng hóa thơng thường khác. Đó là thuộc tính giá trị và giá trị sử
dụng.
1.3.1. Giá trị hàng hóa sức lao động.
5
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động quyết định.
Để duy trì và tái sản xuất sức lao động, người lao động cần phải tiêu
dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định (như ăn uống, ngủ nghỉ, học
nghề…). Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động có thể được đo lường gián tiếp
thông qua lượng giá trị của các tư liệu sinh hoạt để tái sản xuất sức lao động.
Khác với hàng hóa thơng thường, hàng hóa sức lao động bao gồm cả
yếu tố tinh thần (người công nhân ngồi thời gian làm việc cần có thời gian
nghỉ ngơi để tái tạo sức lao động) và yếu tố lịch sử của từng quốc gia, từng
phong tục tập quán trong từng thời kỳ, trình độ văn minh, điều kiện địa lý, khí
hậu, q trình hình thành giai cấp cơng nhân. Tuy nhiên, mặc dù bao hàm cả
yếu tố tinh thần và lịch sử nhưng đối với mỗi một nước nhất định và trong
một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người
lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị
hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:
Một là, giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết (cả vật chất, tinh thần) để tái
sản xuất ra sức lao động.
Hai là, phí tổn đào tạo người lao động.
Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết (vật chất và tinh thần)
nuôi con của người lao động.
Hiện nay, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện
đại, sự khác biệt giữa các công nhân về trình độ tay nghề, về sự phức tạp của
lao động và mức độ sử dụng năng lực trí óc, tinh thần của họ tăng lên. Tất cả
những điều kiện này tất yếu dẫn đến sự khác biệt theo ngành và theo lĩnh vực
của nền kinh tế. Và nếu đúng theo nguyên tắc ngang giá trong nền kinh tế thị
trường thì giá cả của hàng hóa sức lao động phải phản ánh lượng giá trị nêu
trên.
6
Sự khác nhau giữa giá trị của hàng hóa sức lao động và giá trị của
hàng hóa:
Giá trị của hàng hóa sức lao động
Chỉ bán trong điều kiện thuận lợi.
Tạo ra những giá trị mới.
Giá trị của hàng hóa
Bán trong bất cứ thời gian nào.
Giá trị giảm dần theo thời gian sử
dụng.
Mang yếu tố tinh thần và yếu tố lịch
Không mang yếu tố tinh thần và yếu
sự.
tố lịch sử.
1.3.2. Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động cũng là để thỏa mãn nhu cầu
của người mua.
Tuy nhiên, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có những đặc điểm
riêng khác biệt với giá trị sử dụng của các loại hàng hóa thơng thường. Điều
này được thể hiện ở chỗ: Hàng hóa thơng thường sau khi sử dụng thì giá trị và
giá trị sử dụng của nó đều biến mất dần theo thời gian. Ngược lại, khi sử dụng
hàng hóa sức lao động, người mua hàng hóa sức lao động mong muốn thỏa
mãn nhu cầu có được giá trị lớn hơn, giá trị tăng thêm. Phần giá trị tăng thêm
đó chính là giá trị thặng dư. Giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động có tính
chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới
lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khố để giải thích mâu
thuẫn của cơng thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất
hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa
thành tư bản.
7
Chương 2: Tác động của đại dịch Covid đến thị trường lao động Việt
Nam.
2.1. Đôi nét về đại dịch Covid-19 và ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế
thế giới.
Đại dịch COVID-19, còn được gọi là đại dịch coronavirus, là một đại
dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2, đang diễn ra trên
phạm vi toàn cầu. Được phát hiện lần đầu tiên tại thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ
Bắc, Trung Quốc vào tháng 12/2019, bắt nguồn từ một nhóm người mắc viêm
phổi khơng rõ ngun nhân, dịch bệnh nhanh chóng lan ra nhiều thành phố
khác của Trung Quốc và các quốc gia khác trên thế giới. Với tốc độ lây lan
khủng khiếp, chỉ chưa đầy ba tháng sau khi phát hiện, vào ngày 11 tháng 3
năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra tuyên bố gọi COVID-19 là "Đại
dịch toàn cầu". Hiện nay dịch bệnh đã lan ra 192 quốc gia trên thế giới với số
ca tử vong lên đến hơn 3 triệu người. Có thể nói đây là đại dịch gây ảnh
hưởng nặng nề nhất lên mọi mặt của mỗi quốc gia như kinh tế, y tế, xã hội,…
trong nhiều thập kỉ qua.
Dịch bệnh hiện tại nguy hiểm hơn tất cả những dịch bệnh trước đó (như
Dịch cúm Tây Ban Nha 1918-1920, dịch cúm châu Á 1957-1958, dịch SARS
2002-2005, dịch Ebola, Mers…) ở hai điểm:
Thứ nhất, nó hồnh hành đồng thời trên khắp thế giới chứ khơng bị bó
gọn trong vùng nào hay châu lục nào. Điều này đe dọa đến toàn thế giới và
buộc tất cả mọi người, tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ phải đồng thời đối
phó.
Thứ hai, sự thiếu hụt vacxin và các thiết bị y tế, nhất là đối với các nước
kém phát triển. Hệ luỵ trực tiếp của điều này là thế giới chưa biết đến khi nào
mới có thể kết thúc được thành cơng cuộc chiến chống lại dịch bệnh này.
8
Hiện các quốc gia đều đang đánh giá đại dịch COVID-19 tác động ra sao
đối với kinh tế thế giới. Mặc dù cịn có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tất
cả đều thống nhất rằng, kinh tế toàn cầu sau đại dịch sẽ rất khác so với trước
đây. Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Tác động của
nó cao hơn nhiều so với tác động của virus SARS năm 2002. Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) chỉ ra rằng: “Covid-19 là cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm
trọng nhất kể từ chiến tranh thế giới thứ hai trở lại đây. Mức độ nghiêm trọng
đã vượt xa khủng hoảng tài chính 2008, thậm chí vượt cả Đại suy thoái ở Mỹ
vào những năm 1930”.
(Nguồn: Báo cáo triển vọng kinh tế OECD)
Đại dịch Covid-19 đã nhanh chóng tác động tới các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, thị trường tài chính chao đảo, nền kinh tế tồn cầu rơi vào suy thoái với
tỷ lệ thất nghiệp và nghèo đói cao chưa từng có trong lịch sử. Covid-19 đã
làm khuynh đảo thị trường lao động thế giới!
Ngày 23 tháng 1 năm 2020, Việt Nam ghi nhận ca mắc Covid-19 đầu
tiên. Ngay sau đó, Chính phủ đã ra chỉ thị 16 về thực hiện các biện pháp cấp
bách phòng, chống dịch Covid-19 : “Thực hiện cách ly toàn xã hội trong vịng
15 ngày trên phạm vi tồn quốc.” Điều này tuy hạn chế được sự lây lan của
dịch bệnh một cách đáng kể, tuy nhiên nó đã giáng một địn nặng nề vào thị
9
trường lao động nước nhà. Hàng nghìn người bị mất việc do các doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất kinh doanh phá sản, giải thể hoặc thu hẹp sản xuất. Theo đánh
giá của các chuyên gia và cơ quan quản lý nhà nước, thị trường lao động đã bị
ảnh hưởng nặng nề do đại dịch Covid-19.
2.2. Ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 đến thị trường lao động Việt Nam.
Tại Việt Nam, dịch bệnh Covid-19 đã diễn biến qua bốn giai đoạn.
Trong từng giai đoạn, Chính phủ đã triển khai những biện pháp cụ thể để
ngăn chặn tốc độ cũng như quy mô lây lan của dịch bệnh một cách hiệu quả
nhất. Việc kiềm chế thành công ba đợt dịch đầu tiên đã chứng minh được tính
hiệu quả của các biện pháp trong việc kiềm chế cuộc khủng hoảng y tế này.
Trong khi đó, virus Corona đã lây lan trên khắp các nền kinh tế lớn trên thế
giới và hầu hết các quốc gia xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam như Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản,… đều đang thực hiện các biện pháp kiềm chế sự lây
lan của dịch bệnh , điều này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động
kinh tế của nước ta.
Hoạt động kinh tế sụt giảm mạnh tạo nên một tác động chưa từng có đối
với vấn đề lao động, việc làm của Việt Nam.Theo đánh giá của Bộ Lao động
– Thương binh và Xã hội, dịch Covid-19 đang tác động mạnh đến thị trường
lao động, việc làm; khiến số lượng người có việc làm phi chính thức gia tăng
do nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh đã buộc phải ngừng hoạt động thời gian
dài. Thị trường lao động đã bị đánh một đòn trực diện và nặng nề. GDP tăng
trưởng thấp, cùng với số lượng doanh nghiệp giải thể, phá sản tăng, doanh
nghiệp thành lập mới giảm làm gia tăng tỉ lệ người thất nghiệp. Trong đó, ảnh
hưởng rõ rệt nhất vào q II/2020 khi tình hình dịch Covid-19 diễn biến phức
tạp, nhiều ca lây nhiễm trong cộng đồng xuất hiện và đặc biệt là việc áp dụng
các quy định về giãn cách xã hội được thực hiện triệt để trong tháng 4 năm
2020. Chỉ tính riêng quý II/2020, tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi ở khu vực
thành thị là 4,46% và đây là tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong vòng 10 năm qua.
10
Dịch bệnh tác động mạnh vào những ngành, nghề, khu vực, nhóm lao
động chủ yếu, số lượng người có việc làm phi chính thức gia tăng do nhiều cơ
sở sản xuất kinh doanh đã buộc phải ngừng hoạt động thời gian dài.Trong
thập kỷ qua, tỷ lệ việc làm phi chính thức đã và đang có xu hướng giảm đi
nhưng phần đông lao động cả nước vẫn đang làm việc trong khu vực này.
Trong năm 2019 có 38,1 triệu người đang làm các cơng việc phi chính thức.
Trong đó, gần 13 triệu lao động làm việc trong các lĩnh vực phải đối diện với
cú sốc kinh tế nặng nề nhất.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Lao động phi chính thức được
xác định là lao động có việc làm phi chính thức”, với đặc trưng cơ bản
của việc làm phi chính thức được định nghĩa là việc làm khơng có bảo
hiểm xã hội (đặc biệt là bảo hiểm xã hội bắt buộc) và khơng có
hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên.
Theo Tổng cục Thống kê, trong quý I/2021, lực lượng lao động đã giảm
đi 0,2 triệu người so với quý I/2020, lao động thiếu việc làm tăng đáng kể, đà
phục hổi thị trường lao động suy
giảm.
( Nguồn: Tổng cục thống kê (2021), “Tác động của dịch Covid-19”)
11
Mặc những nỗ lực khôi phục kinh tế đi đôi với phòng chống dịch đã
phần nào cải thiện các gam màu xám của tình hình lao động việc làm trong
nước nhưng hiện nay, cả nước vẫn còn 9,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên chịu
ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19. Trong đó có 0,5 triệu người mất việc;
2,8 triệu người tạm dừng sản xuất kinh doanh; 3,1 triệu người giảm giờ làm và
6,5 triệu người bị giảm thu nhập. Lao động thiếu việc làm tăng đáng kể so với
quý trước và cùng kì năm trước. Cụ thể tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong
độ tuổi quý I/2021 là 2,2%, tăng 0,38% so với quý IV/2020 và tăng 0,22% so
với quý I/2020.
(Nguồn: Tổng cục thống kê (2021), “Tác động của dịch Covid-19” )
Dịch bệnh đã làm gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên vật liệu, các hoạt
động xúc tiến thương mại, du lịch làng nghề, xuất khẩu các mặt hàng tiểu thủ
cơng nghiệp,… Ví dụ như trong ngành công nghiệp ô-tô, do linh kiện đầu vào
khan hiếm cùng với việc thực hiện giãn cách xã hội nên các doanh nghiệp sản
xuất ô-tô trong nước như Honda, Nissan, Toyota, Ford, Hyundai… phải tuyên
bố tạm dừng sản xuất, chỉ đến khi thời kỳ giãn cách xã hội kết thúc và chuỗi
cung ứng được kết nối trở lại, các doanh nghiệp sản xuất ô-tô mới quay trở lại
hoạt động. Nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có chuyên gia
người nước ngoài và người lao động nước ngoài chịu tác động nặng nề từ
12
Covid-19 khi nguồn cung lao động bị thiếu. Chi phí sử dụng lao động trong
thời kỳ này cũng cao hơn khi các doanh nghiệp phải đầu tư thêm khẩu trang,
nước sát khuẩn, thực hiện các biện pháp an toàn trong lao động để tránh lây
nhiễm virus. Bên cạnh đó, đại dịch Covid-19 đã làm tăng tỷ lệ nghèo và cận
nghèo về thu nhập và làm sụt giảm thu nhập tạm thời của hộ gia đình và
người lao động một cách đáng kể. Theo Viện Chính sách và Chiến lược phát
triển nông nghiệp và nông thôn (IPSARD), thu nhập của nhiều hộ nông dân
giảm từ 35-40% trong năm 2020.
Tuy nhiên, một điểm sáng trong đại dịch này đó là dịch Covid-19 đã góp
phần thay đổi thói quen làm việc, thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin
của người lao động nhằm thích nghi với các diễn biến khó lường của đại dịch.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong q I/2020, có gần 80 nghìn lao
động đã chuyển đổi từ cơng việc khơng có cơng nghệ thơng tin sang có ứng
dụng cơng nghệ thơng tin trong cơng việc của mình cho đại dịch Covid-19.
Như vậy, dịch bệnh Covid-19 tác động lên mọi mặt của đời sống kinh tế
- xã hội, nó khơng chỉ gây ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình sức khỏe của mỗi
người mà cịn có những tác động nặng nề đến tăng trưởng kinh tế, hoạt động
thương mại, lao động, việc làm và thu nhập của người lao động. Việt Nam đã
kiểm soát cuộc khủng hoảng y tế Covid-19 rất tốt bằng những biện pháp
kiểm soát dịch bệnh với mức độ quyết liệt ngày càng tăng. Tuy nhiên, những
biện pháp này đã khiến cho hoạt động kinh tế bị cắt giảm mạnh. Trong khi đó,
các quốc gia khác trên tồn thế giới, trong đó có các đối tác xuất khẩu hàng
đầu của Việt Nam, cũng đang áp dụng các biện pháp tương tự với các mức độ
nghiêm ngặt khác nhau nhằm kiểm sốt tình hình dịch bệnh. Nền kinh tế nước
ta đã chịu tác động đáng kể từ cả các kênh trực tiếp (do các chính sách trong
nước) và gián tiếp (do các chính sách ứng phó khủng hoảng của chính phủ các
nước khác), vì vậy cần phải có những giải pháp cụ thể và phù hợp để phục hồi
kinh tế sau đại dịch này.
13
Chương 3: Đề xuất giải pháp và liên hệ bản thân.
3.1. Giải pháp phát triển thị trường lao động Việt Nam sau khủng hoảng
đại dịch Covid-19.
Việt Nam đã kiểm soát dịch bệnh Covid-19 một cách thành công trong
ba đợt dịch đầu và đợt dịch thứ tư cũng đang có những tín hiệu lạc quan khi
có nhiều địa phương đã qua 14 ngày khơng có ca mắc mới và khơng phát hiện
thêm ổ dịch mới trong cộng đồng, điều này đã chứng tỏ các biện pháp phòng
dịch của nước ta đạt hiệu quả rất cao. Bên cạnh việc kiểm soát cuộc khủng
hoảng y tế này, Chính phủ cũng sẽ đưa ra các giải pháp giải quyết cuộc khủng
hoảng kinh tế theo cách quyết liệt như trên mặt trận y tế. Nhiệm vụ này mang
phạm vi rất rộng, nên cần phải có sự đồng bộ về giải pháp chính sách, bao
gồm: các biện pháp kích thích nền kinh tế và việc làm; hỗ trợ doanh nghiệp,
việc làm và thu nhập trong những tháng tới; bảo vệ người lao động tại nơi làm
việc; và đưa ra giải pháp dựa vào đối thoại xã hội.
Để thực hiện nhiệm vụ kép vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế, ổn định xã
hội cần phải tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện khoanh vùng, xét nghiệm trên diện rộng để hạn chế
quy mô lây lan của dịch bệnh. Hạn chế những hoạt động du lịch, lễ hội,…,
cũng như tuyên truyền để người dân thực hiện các biện pháp phòng chống,
quy tắc 5K để chung sống an toàn với dịch bệnh.
Thứ hai, cần được củng cố và hoàn thiện hệ thống y tế để phịng ngừa
những trường hợp xấu nhất có thể xảy ra. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất
kinh doanh cần phải có những biện pháp phịng chống dịch Covid-19, đảm
bảo an toàn cho người lao động.
Thứ ba, đẩy nhanh giải ngân đầu tư cơng theo mục tiêu Thủ tướng
Chính phủ đặt ra, phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành để có thể nhanh
14
chóng giải ngân đầu tư cơng, vừa kích thích tổng cầu trong ngắn hạn, vừa tạo
ra năng lực cho nền kinh tế tăng trưởng trong dài hạn.
Thứ tư, đối với khu vực FDI (Foreign Direct Investment - đầu tư trực
tiếp nước ngồi), Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ (miễn, giảm thuế,
giãn nộp bảo hiểm xã hội, giảm lãi suất…) cho các doanh nghiệp trong nước
trước các khó khăn và cú sốc tiêu cực từ dịch bệnh.
Thứ năm, Chính phủ cần triển khai những gói hỗ trợ kịp thời đến các
đối tượng lao động tự do, hộ kinh doanh, người nhập cư,… Đây là những đối
tượng chịu tác động từ dịch bệnh COVID-19 nặng nề hơn so với các nhóm
đối tượng khác.
Thứ sáu, hiện nay nước ta có khoảng 93,5% lao động tự sản tự tiêu
khơng có trình độ chuyên môn kĩ thuật và hơn một nửa trong số họ đang trong
độ tuổi lao động. Đây là nguồn tiềm năng vơ cùng phong phú có thể tận dụng
và phát triển. Vì vậy Nhà nước cần triển khai những chính sách riêng để thu
hút đối tượng này tham gian thị trường lao động, một mặt góp phần nâng cao
năng suất lao động xã hội nói chung và một mặt giúp cải thiện đời sống của
người lao động.
Các giải pháp trên vừa là ứng phó cấp bách; vừa mang tính căn cơ lâu
dài, nhằm giúp nền kinh tế Việt Nam sớm vượt qua khó khăn. Đến nay, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong thực hiện mục tiêu kép
vừa chống dịch vừa khôi phục, phát triển kinh tế. Mặc dù tốc độ tăng GDP
trong quý II năm 2020 thấp kỷ lục trong nhiều năm qua, nhưng là mức tăng
trưởng dương mà nhiều nước trên thế giới không đạt được. Đại dịch COVID19 đặt nền kinh tế nước ta trước những thách thức vô cùng to lớn, đồng thời
đem lại những cơ hội. Cú sốc này góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển
đổi số của nền kinh tế; lợi ích to lớn trong ứng dụng các thành quả của cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào trong mọi mặt đời sống xã hội.
15
3.2. Liên hệ bản thân.
Bản thân là một sinh viên Học viện Ngân hàng, em nhận thức được rất rõ
sự nguy hiểm của đại dịch Covid-19 về sức khỏe cũng như tác động của nó
đến thị trường lao động hiện nay. Qua ba đợt dịch đầu và hiện tại đang là đợt
dịch thứ tư, số lượng người nhiễm bệnh ngày càng tăng cao qua các đợt dịch.
Điều này cho thấy diễn biến phức tạp, khó lường của dịch bệnh. Để có thể bảo
bảo vệ sức khỏe của bản thân cũng như những người xung quanh, em luôn
tuân thủ các biện phóng phịng dịch mà Chính phủ đã đề ra như hạn chế đến
nơi đông người, thực hiện quy tắc 5K,… Mặc dù phải ở nhà để hạn chế tối đa
sự lây lan của dịch bệnh trong cộng đồng nhưng đây là khoảng thời gian cực
kì phù hợp để để nâng cao khả năng ngoại ngữ cũng như các kĩ năng khác.
Bên cạnh những tác động vào hệ thống y tế, đại dịch Covid-19 cũng gây
ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với các thị trường, đặc biệt là thị trường lao
động. Thị trường lao động Việt Nam đã có những thay đổi căn bản sau đại
dịch Covid-19. Thị trường lao động việc làm sau dịch bệnh trở nên cạnh tranh
gay gắt hơn vì số người thất nghiệp qua các đợt dịch là rất cao, yêu cầu của
các nhà tuyển dụng về người lao động vì thế cũng ngày càng trở nên khắt khe
hơn. Nhận thức rõ được điều này nên ngồi việc nắm vững kiến thức chun
mơn, em ln có gắng trau dồi vốn ngoại ngữ cũng như các kĩ năng mềm để
có thể dễ dàng tìm được việc làm phù hợp sau khi ra trường. Mặc dù đại dịch
Covid-19 dã tác động không nhỏ vào việc học tập như phải thay đổi cách dạy
học, từ học trên giảng đường chuyển thành học online, điều này làm cho việc
học trở nên khó khăn hơn, các hoạt động ngoại khóa của Học viện cũng bị
hạn chế,…nhưng em ln có gắng để có thể hồn thành các học phần một
cách xuất sắc nhất.
Hiện nay đại dịch Covid-19 đã lây lan ra khắp thế giới, làm đảo lộn vả
ảnh hưởng rất lớn tới nhịp sống bình thường cũng như nhiều lĩnh vực đời
sống kinh tế - xã hội, song cũng chính trong lúc dịch bệnh hoành hành này đã
16
thúc đẩy nhanh hơn những ứng dụng của sự phát triển công nghệ vào cuộc
sống, dẫn tới những thay đổi sâu rộng hơn trong tương lai. Với xu hướng cơ
giới hố hiện đại hố ngày nay, địi hỏi cường độ lao động ngày càng cao để
đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh. Người lao động, nhất là các lao động
trẻ cần phải tự tập cho mình tác phong làm việc nhanh nhẹn, có tinh thần
trách nhiệm trong cơng việc thì mới đáp ứng được u cầu đặt ra đó. Đại dịch
COVID-19 đã làm gián đoạn hoàn toàn cách vận hành của toàn thế giới, thay
đổi phương thức làm việc truyền thống và buộc các công ty phải linh hoạt hơn.
C. KẾT LUẬN.
Qua việc nghiên cứu đề tài “ Tác động của đại dịch Covid-19 đến thị
trường lao động Việt Nam”, ta thấy được bức tranh tổng quát về thị trường
lao động trong thời kì dịch bệnh đầy căng thẳng vừa qua. Đại dịch Covid-19
bùng phát từ cuối năm 2019 và đến nay đã lan rộng khắp toàn cầu. Trước tình
hình dịch bệnh phức tạp đó, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các giải pháp kịp
thời và đúng đắn, thực hiện được mục tiêu kép đó là kiểm sốt dịch bệnh đồng
thời phát triển kinh tế - xã hội. Đây khơng phải điều mà nhiều quốc gia có thể
làm được. Ngay cả những quốc gia đứng đầu về kinh tế cũng như có hệ thống
y tế hiện đại như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản,… cũng đang phải chịu ảnh hưởng
cực kì nặng nề từ cuộc khủng hoảng y tế này. TS. Kidong Park, Trưởng đại
diện Tổ chức Y tế thế giới (WHO) tại Việt Nam, đã đánh giá công tác phòng
chống dịch của nước ta rằng : “Các biện pháp của Việt Nam rất nhanh và hiệu
quả.”. Về phương diện sức khỏe cộng đồng, Việt Nam đã thể hiện ở nhóm
đầu thế giới. Đã đến lúc chứng tỏ rằng Việt Nam cũng xuất sắc như vậy trong
giải quyết các thách thức về kinh tế, xã hội, và thị trường lao động.
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội,
nhu cầu nhân sự các ngành nghề và thị trường lao động cũng vì thế mà thay
đổi. Khoảng 38% lực lượng lao động toàn cầu làm việc trong các lĩnh vực
hiện đang chứng kiến sự sụt giảm nghiêm trọng về sản lượng, đi kèm với
17
những nguy cơ cao phải sa thải lao động, giảm lương và giờ làm. Đây khơng
cịn đơn thuần là một thách thức về y tế nữa. Vì vậy, cần phải có những kế
hoạch, giải pháp cụ thể để phục hồi và phát triển thị trường lao động sau đại
dịch này. Bên cạnh đó, hiểu rõ những thay đổi trong cơ cấu thị trường lao
động hiện nay sẽ giúp cho các lao động trẻ học cách thích ứng cũng như lựa
chọn được ngành nghề phù hợp. Nếu như người lao động, doanh nghiệp biết
đổi mới, ứng dụng công nghệ thông tin thì có thể dễ dàng thích ứng với nhu
cầu của xã hội cũng như tình hình dịch bệnh.
Danh mục tài liệu tham khảo
18
STT
1
Tên và nguồn tài liệu
Tổng cục thống kê (2019), “Niên giám thống kê”.
Tổng cục Thống kê (2020), “Báo cáo điều tra lao động việc làm
2
quý II năm 2020”.
UNDP (2020), “Đánh giá tác động kinh tế xã hội của đại dịch
3
Covid-19 đối với hộ gia đình và doanh nghiệp dễ bị tổn thương ở
Việt Nam”.
Nguyễn Hoàng (2020), “Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng tiêu cực đến
4
5
6
7
tình hình lao động, việc làm.”
1.
Karl Marx, Friedrich Engels (1993), “C. Mác và Ph. Ăngghen
toàn tập Tập 23”, Nxb. Chính trị quốc gia.
ILO (2020), “Đại dịch Covid-19 với thị trường lao động Việt Nam”.
ILO (2020), “Báo cáo nhanh Covid-19 và Việc làm: Tác động và
Ứng phó”.
8 1. ILO (2020), “Covid-19 và thế giới việc làm”.