BỘ TƯ PHÁP
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
MÔN HỌC: QUẢN TRỊ DOANH NGHIỆP
ĐỀ TÀI: Phân tích Tác động của dịch Covid 19 đến hoạt động
quản trị của các doanh nghiệp vận tải hàng không
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:
Hà Nội, Tháng 11/2022
2
MỤC LỤC
Mở đầu…………………………………………………………………………3
Nội dung………………………………………………………………………..3
I.
Cơ sở lí luận…………………………………………………………..3
1. Khái niệm, mục đích của quản trị kinh doanh…………………………...3
2. Đặc điểm của hoạt động quản trị kinh doanh……………………………4
3. Cách tiếp cận hệ thống của một doanh nghiệp…………………………..4
4. Dịch vụ vận tải hàng không……………………………………………...4
II.
Cơ sở thực tiễn
1. Tổng quan về dịch Covid 19……………………………………………..6
2. Tình hình dịch Covid 19 trên thế giới…………………………………....6
3. Tác động của dịch Covid 19 đến ngành vận tải hàng không……………..6
3.1.Tác động của dịch Covid 19 đến ngành vận tải hàng không trên thế
giới…………………………………………………………………………...6
3. 2.Tác động của dịch Covid 19 đến ngành vận tải hàng không tại Việt
Nam..…………………………… …………………………………………..7
4. Giải pháp trong hoạt động quản trị của các doanh nghiệp vận tải hàng không khi đối
mặt với hậu quả của đại dịch Covid 19…………………..9
Tổng kết………………………………………………………………………13
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………..13
3
MỞ ĐẦU
Vận tải hàng không là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn đại diện cho phương thức
vận tải tiên tiến và hiện đại, ngày càng đóng vai trị to lớn và có ảnh hưởng quan trọng
trong cơng cuộc phát triển kinh tế – văn hoá - xã hội, an ninh và quốc phịng của mỗi quốc
gia.
Ngành hàng khơng đóng vai trị rất quan trọng đối với nền kinh tế toàn cầu. Theo báo cáo
của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), ngành vận tải hàng khơng có mối liên
kết chặt chẽ với những ngành như sản xuất máy bay, hỗ trợ thương mại quốc tế, du lịch,
dịch vụ…
Tuy nhiên trong bối cảnh thế giới đang gặp nhiều khó khăn, thiệt hại do đại dịch Covid 19,
hàng không Thế giới cũng không tránh khỏi những bước thăng trầm, viễn cảnh ảm đạm.
Trong quá khứ, hàng không chỉ chứng kiến một vài lần khủng hoảng và dễ dàng hồi phục.
Dịch Sars năm 2003 khiến việc đi du lịch khơng an tồn nhưng nền kinh tế tồn cầu vẫn
ổn. Cuộc khủng hoảng 2008 diễn ra nhưng di chuyển bằng đường hàng khơng vẫn an tồn.
Tuy nhiên năm 2020 lại là quãng thời gian buồn với ngành hàng không quốc tế trước tác
động của đại dịch Covid-19. Các lệnh giãn cách, đóng cửa biên giới và hạn chế đi lại khiến
hàng khơng vừa mất an tồn cũng như sụt giảm về nhu cầu.
Xuất phát từ những thực tế trên, em xin chọn đề tài : “Tác động của dịch Covid
19 đến hoạt động quản trị của các doanh nghiệp vận tải hàng không” làm đề tài cho bài
tập học kì của mình. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo. Em xin trân
trọng cảm ơn !
NỘI DUNG
I.
Cơ sở lí luận
1. Khái niệm, mục đích quản trị kinh doanh
1.1. Khái niệm
- Khái niệm: Quản trị kinh doanh là tập hợp các hoạt động có liên quan và tương tác mà
một chủ thể kinh doanh tác động lên tập thể những người lao động trong doanh nghiệp để
4
sử dụng một cách tốt nhất mọi nguồn lực, tiềm năng và cơ hội của doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thơng lệ kinh
doanh.
1.2. Mục đích
- Đảm bảo thực hiện khối lượng công việc.
- Đưa doanh nghiệp ngày càng phát triển vững chắc trong điều kiện môi trường kinh doanh
thường xuyên biến động.
2. Đặc điểm của hoạt động quản trị kinh doanh
- Hoạt động quản trị kinh doanh được xác định bởi chủ thể bao gồm chủ sở hữu và người
điều hành.
- Hoạt động quản trị kinh doanh mang tính liên tục.
- Hoạt động quản trị kinh doanh mang tính tổng hợp và phức tạp.
- Hoạt động quản trị kinh doanh luôn gắn với môi trường và được địi hỏi là phải ln
thích ứng với sự biến đổi của môi trường.
3. Các tiếp cận hệ thống về hoạt động quản trị của một doanh nghiệp Cách tiếp cận
này phối hợp từ hai cách nhìn nhận:
+ Từ bên ngồi: Một doanh nghiệp bất kỳ, đều hoạt động trong một thị trường xác định,
hơn nữa, bản thân thị trường đó lại bị tác động thường xuyên, liên tục của nhiều yếu tố.
- Các yếu tố của môi trường ngành theo Michael Porter;
- Các yếu tố thuộc về chính trị, chính sách; - Các yếu tố kinh tế - xã hội;
- Các yếu tố địa lý và khí hậu; - Các yếu lố về kỹ thuật và công nghệ; - Các yếu tố của
khuôn khổ pháp lý.
+ Từ bên trong: Một doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn về khả năng sáng kiến, trình độ
nghiên cứu, sản xuất, thương mại hố, phân phối ... đặc biệt ở cách tiếp cận này, người ta
còn đề cập đến sự hạn hẹp về năng lực tài chính như một sự ràng buộc các hoạt động của
doanh nghiệp.
Từ cách tiếp cận các hoạt động này của doanh nghiệp cho chúng ta bức tranh đầy đủ
hơn, có ý nghĩa hơn cho việc nghiên cứu, quản trị, thể hiện: - Trước hết, để quản trị
doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố ngoại lai có ảnh hưởng. Sự phân tích
đầy đủ các yếu tố đó trả lời cho chúng ta câu hỏi; Doanh nghiệp đang ở trong môi
trường nào?
>Các doanh nghiệp, suy cho cùng thường bị trói buộc ở sự hạn hẹp về khả năng tài chính,
từ đó chỉ rõ vai trị của quản trị tài chính đối với các doanh nghiệp, điều đó trả lời câu hỏi:
5
Doanh nghiệp đang ở trong hoàn cảnh nào?
- Tất cả các hoạt động quản trị nếu thiếu các ý tưởng mới thì chỉ cịn là một sự chấp hành
xơ cứng một q trình cũ. Mọi thắng lợi chỉ có thể có nếu hoạt động quản trị bắt đầu từ
các ý tưởng mới. Cũng chính từ đó xác định u cầu của quản trị không chỉ dừng lại là
áp đặt một sự chấp hành mà hơn nữa, nó địi hỏi quản trị phải đảm bảo nảy sinh các ý
tưởng mới mẻ.
4. Dịch vụ vận tải hàng không
4.1. Khái niệm
Vận tải hàng khơng nói theo nghĩa rộng là sự tập hợp các yếu tố kinh tế kỹ thuật nhằm
khai thác việc chuyên chở bằng máy bay một cách có hiệu quả.
Nếu nói theo nghĩa hẹp thì vận tải hàng khơng là sự di chuyển của máy bay trong
không trung hay cụ thể hơn là hình thức vận chuyển hành khách, hàng hố, hành lí, bưu
kiện từ một địa điểm này đến một địa điểm khác bằng máy bay.
4.2. Vai trò của vận tải hàng không
4.2.1. Vận tải hàng không với nền kinh tế
- Hàng không kết nối mạng lưới giao thông vận tải trên tồn thế giới. Đó là điều vơ cùng
cần thiết cho kinh doanh tồn cầu và du lịch. Nó đóng một vai trị quan trọng trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
- Hàng không vận chuyển gần 2 tỷ hành khách mỗi năm và 40% kim ngạch xuất khẩu liên
vùng hàng hóa (theo giá trị). 40% khách du lịch quốc tế hiện nay đi du lịch bằng đường
hàng không.
- Ngành công nghiệp vận tải hàng không tạo ra tổng cộng 29 triệu việc làm trên tồn cầu.
- 25% cơng ty bán hàng phụ thuộc vào vận tải hàng không. 70% doanh nghiệp báo cáo rằng,
để phục vụ một thị trường lớn thì sử dụng dịch vụ hàng khơng là điều tất yếu.
4.2.2. Vận tải hàng khơng với lợi ích xã hội và mơi trường
- Bằng cách mở rộng giải trí và trải nghiệm văn hoá cho người dân, vận tải hàng khơng
giúp cải thiện chất lượng cuộc sống. Nó cung cấp một sự lựa chọn rộng rãi về địa điểm
nghỉ ngơi khắp thế giới và là một phương tiện với giá cả phải chăng để thăm viếng bạn
bè, người thân ở xa.
- Vận tải hàng khơng góp phần vào sự phát triển bền vững. Nhờ điều kiện du lịch và
thương mại, nó tạo ra tăng trưởng kinh tế, cung cấp công ăn việc làm, tăng thuế lợi tức,
và thúc đẩy việc bảo tồn các khu vực cần được bảo vệ. - Những cải tiến trong việc quản
lí giao thơng hàng khơng có khả năng làm giảm tiêu hao nhiên liệu 6-12%, đồng thời
việc cải thiện hoạt động còn giảm thiểu nhiên liệu thêm 2-6%.
6
II.
Cơ sở thực tiễn: Tác động của dịch Covid 19 đến hoạt động quản trị của các
doanh nghiệp kinh doanh vận tải hàng không.
1. Tổng quan về dịch Covid 19
Coronavirus 2019 (2019-nCoV) là virus đường hô hấp mới gây bệnh viêm đường hơ hấp
cấp ở người và có thể lây lan từ người sang người. Virus này được xác định trong một cuộc
điều tra ổ dịch bắt nguồn từ khu chợ lớn chuyên bán hải sản và động vật ở Vũ Hán, tỉnh
Hồ Bắc, Trung Quốc.
2019-nCoV là chủng virus mới chưa được xác định trước đó. Ngồi chủng coronavirus
mới phát hiện này, đã có nhiều chủng coronavirus khác được biết tới ngày nay có khả năng
lây nhiễm ở người với nhiều biến thể có khả năng lây nhiễm cao hơn và kháng vacxin cao
hơn.
2. Tình hình dịch Covid 19 trên thế giới
Khởi nguồn từ Vũ Hán (Trung Quốc) vào cuối năm 2019, đến nay, đại dịch Covid-19 đã
bùng phát ở 215 quốc gia. Theo thống kê, đến ngày 22/10/2020, thế giới ghi nhận
41.518.941 người mắc, 1.136.848 người tử vong tại 215 quốc gia và vùng lãnh thổ, tiếp
theo là Ấn Độ, thứ ba là Brazil. Tại khu vực ASEAN, Indonesia đã vượt qua Philippines
trở thành là quốc gia dẫn đầu khu vực về tổng số trường hợp mắc và số bệnh nhân tử vong.
Tại Việt Nam, số ca nhiễm là 1.145 người, tử vong 35 người. Mỗi ngày, thế giới có hàng
trăm ngàn ca mắc mới, hàng nghìn người tử vong và chưa có dấu hiệu chững lại, thậm chí
lây lan nhanh tại một số quốc gia sau khi nới lỏng các biện pháp giãn cách xã hội.
Đại dịch Covid-19 gây ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả quốc gia, hiện vẫn diễn
biến phức tạp. Kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái nghiêm trọng. Việt Nam là một quốc gia
có độ mở nền kinh tế lớn, hội nhập quốc tế sâu rộng, cũng chịu nhiều tác động của dịch
bệnh Covid-19. Mặc dù nước ta đã có sự kiểm sốt dịch bệnh thành cơng bước đầu, nhưng
Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây gián đoạn
chuỗi cung ứng sản xuất và lưu thơng hàng hóa, một số ngành như: xuất, nhập khẩu, hàng
không, du lịch, dịch vụ lưu trú, ăn uống, y tế, giáo dục, lao động, việc làm bị tác động trực
tiếp; nhiều doanh nghiệp phá sản, giải thể, tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô, v.v
3. Tác động của dịch Covid 19 đến ngành vận tải hàng không
3.1. Tác động của dịch Covid 19 đến ngành vận tải hàng không trên thế giới
Ngày 3/2, Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế (IATA) ra báo cáo cho biết do tác động từ
những hạn chế đi lại trong đại dịch COVID-19, vận tải hàng không thế giới trong năm
2020 đã chứng kiến mức sụt giảm chưa từng có trong lịch sử (66%).
7
Tổng giám đốc IATA Alexandre de Juniac khẳng định: "2020 là một năm thảm họa". Về
phần mình, trưởng nhóm kinh tế của IATA Brian Pearce cho biết tổng quãng đường các
chuyến bay vận tải hành khách thế giới đã thực hiện trong năm 2020 giảm 2/3 và "đây là
cú sốc lớn nhất mà ngành hàng không từng trải qua".
Theo IATA, do các biện pháp hạn chế đi lại để phòng dịch được áp đặt cho hầu hết các
chuyến bay quốc tế nên vận tải hành khách quốc tế giảm 76%, trong khi vận tải hành
khách nội địa giảm ít hơn (49%). Chỉ riêng các hạn chế đi lại được áp đặt trong làn sóng
đầu tiên của đại dịch hồi đầu năm 2020 đã khiến vận tải hành khách hàng không thế giới
chỉ đạt 5% mức hoạt động bình thường.
Nhiều hãng hàng không phải đậu tàu bay ngay trên đường băng vì khơng cịn chỗ đậu
trong các sân bay. Ngành hàng khơng ở Bắc bán cầu đã có chút hồi phục trong mùa Hè
nhưng chững lại vào mùa Thu, sau đó tình hình lại trở nên tồi tệ hơn vào kỳ nghỉ lễ cuối
năm khi các lệnh hạn chế đi lại nghiêm ngặt hơn được áp đặt nhằm ứng phó với sự xuất
hiện các biến thể mới của virus SARSCoV-2.
Ngoài ra, vận tải hàng hóa đường khơng tính theo tấn hàng trên mỗi km (CTKs) cũng sụt
giảm 10,6% so với năm 2019 và đây cũng là mức giảm tồi tệ nhất kể từ năm 1990 khi
IATA bắt đầu sử dụng cách tính tốn này.
Theo số liệu của Cơ quan hàng khơng Liên hợp quốc (ICAO), các hãng hàng không thế
giới đã thiệt hại khoảng 370 tỷ USD trong năm 2020.
IATA dự báo vận tải hành khách hàng không thế giới sẽ tăng khoảng 50% so với năm
2020, song đây cũng chỉ đạt mức tương đương với 50% của năm 2019. Tuy nhiên, hiệp hội
này cũng cảnh báo những biến thể mới của virus SARSCoV-2 với tốc độ lây nhiễm nhanh
hơn có thể "phủ bóng đen" lên triển vọng hồi phục trong năm 2021.
3.2. Tác động của dịch Covid 19 đến ngành vận tải hàng không tại Việt Nam
Khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát trên toàn cầu, các biện pháp cách ly, giãn cách xã hội
được áp dụng cùng với việc đóng cửa biên giới của các quốc gia, thì hàng khơng là một
trong những ngành nghề chịu thiệt hại nặng nề nhất đối với hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Hàng khơng Việt cũng khơng nằm ngồi vịng xốy đó khi con số thiệt hại được dự
báo ngày càng tăng thêm, cịn các doanh nghiệp hàng khơng thì rơi vào tình cảnh cạn kiệt
nguồn lực...
Những con số thống kê cho thấy, ở thời điểm cuối tháng 1/2020, khi dịch bệnh Covid-19
mới bùng phát ở Trung Quốc được khoảng 1 tháng, thị trường vận tải hàng khơng trên tồn
cầu bắt đầu có những dấu hiệu sụt giảm. Lúc này, tại Việt Nam các con số dự báo thiệt hại
của ngành hàng không dừng ở con số khoảng
10.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, tính đến cuối tháng 2, các hãng hàng khơng Việt đã cắt giảm
toàn bộ chuyến bay đến Trung Quốc, cắt giảm 34% số chuyến bay đến Đài Loan (Trung
8
Quốc), 9,2% số chuyến bay đến HongKong (Trung Quốc)… Thời điểm này, Cục Hàng
không Việt Nam đã đưa ra con số dự báo thiệt hại của các hãng hàng không khoảng 25.000
tỷ đồng. Và tính đến những ngày đầu tháng 4, khi lượng khách đi máy bay sụt giảm mạnh
so với thời điểm trước khi có dịch Covid-19, thì con số thiệt hại dự báo của ngành hàng
không đã tăng lên với khoảng 65.000 tỷ đồng. Điều đó cho thấy sức tàn phá khủng khiếp
của dịch Covid-19 đối với ngành hàng khơng.
Có thể thấy, ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với ngành hàng không Việt thể hiện rõ nhất
khi dịch bệnh ngày càng có những diễn biến phức tạp trên thế giới. Để đảm bảo cơng tác
phịng chống dịch, từ ngày 30/3 các hãng hàng không được yêu cầu chỉ khai thác 01
chuyến/ngày trên tuyến Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh; Hà Nội - Đà Nẵng/Phú Quốc và đường
bay TP. Hồ Chí Minh - Đà Nẵng/Phú Quốc. Điều này có nghĩa 18 sân bay cịn lại (bao
gồm cả Vân Đồn) của Việt Nam coi như “đóng cửa”. Cùng với đó, trái với cảnh đơng đúc,
nhộn nhịp trước đây, tại cả hai sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất, hàng loạt tàu bay của các
hãng nằm la liệt trên sân đỗ, thậm chí phải tận dụng mọi vị trí có thể để xếp tàu bay, cả
trong khu vực xưởng sửa chữa hay cả trên đường băng. Chính vì dừng bay nên gánh nặng
chi phí chi trả hàng ngày, hàng giờ đè nặng các hãng hàng không. Một số hãng phải chi trả
cả hàng nghìn tỷ đồng để trả tiền thuê máy bay, bảo trì bảo dưỡng, đậu đỗ, duy trì bộ máy,
trả lương nhân viên…
3.2.1 Hãng hàng khơng Vietnam Airlines
Vietnam Airlines là hãng hàng không đang chiếm 90% thị phần vận tải hàng hoá quốc tế
và 60% thị phần nội địa. Năm 2020 có thể coi Vietnam Airlines là hãng hàng không Việt
chịu tác động tiêu cực nhất của COVID-19. Năm 2020, chuỗi cung ứng toàn cầu đứt gãy vì
đại dịch đã khiến sản lượng hàng hố vận tải của hãng này sụt giảm khoảng 40% so với
năm trước. Ngay sau khi tạm dừng chở khách quốc tế đến Việt Nam, hãng đã lập tức lên
phương án tháo ghế hành khách, chuyển đổi đội tàu bay chở khách sang chở hàng, giúp bù
đắp đáng kể vào doanh thu vận tải.
Ơng Hồ Quang Tuấn, Trưởng ban Tiếp thị hàng hố, Vietnam Airlines, cho biết: "Năm
2020 chúng tôi đã vận chuyển được gần 200.000 tấn hàng hoá với doanh thu trên 5.000 tỷ
đồng. Bên cạnh việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của hang, chúng tơi cũng góp
phần vào việc duy trì hoạt động xuất khẩu và cơng ăn việc làm tại các khu công nghiệp,
khu chế xuất và tham gia vận chuyển hàng nghìn tấn vật tư, trang thiết bị y tế phục vụ
phòng chống dịch".
3.2.2 Hãng hàng không Vietjet
Là hãng hàng không tư nhân được cho là có nền tảng tài chính mạnh, nhưng chỉ trong 9
tháng năm 2020, dịch COVID-19 đã khiến Vietjet lỗ khoảng 2.400 tỷ đồng. Theo bà Hồ
Ngọc Yến Phương, Phó Tổng giám đốc Vietjet cho biết, trước đại dịch, tăng trưởng hàng
năm của Vietjet đạt bình quân trên 30% đến năm 2019. Vietjet đã phục vụ 100 triệu hành
9
khách, đóng góp thuế, phí, lệ phí xấp xỉ 9.000 tỷ đồng trong năm 2019.
Kết thúc quý 2/2020, trong bối cảnh đại dịch, hãng hàng không Vietjet ghi nhận mức
doanh thu dịch vụ vận tải hàng không đạt 1.970 tỷ đồng, giảm 54%, và mức lỗ hàng không
1.122 tỷ đồng. Sáu tháng đầu năm, Vietjet lỗ trong hoạt động hàng khơng 2.111 tỷ đồng
được ghi nhận là rất tích cực trong bối cảnh ngành hàng không thế giới chịu mức thiệt hại
kỷ lục hơn 84 tỷ USD.
3.2.3. Hãng hàng không Bamboo Airlines
Không chỉ Vietnam Airlines, nhiều hãng hàng không khác cũng đang phải đối mặt với
những thách thức tương tự. Với Bamboo Airways, tính đến hết tháng 5 vừa qua, thiệt hại
của hãng lên đến 4.455 tỷ đồng so với kế hoạch khai thác dự kiến. Các đường bay quốc tế
của hãng phải tạm dừng. Với đường bay nội địa, do nhu cầu giảm mạnh nên hãng này phải
giảm quy mơ đội máy bay khai thác cịn khoảng 1/3. Hoạt động vận tải hàng hóa cũng bị
ảnh hưởng 50% cả về sản lượng và doanh số.
4. Giải pháp trong hoạt động quản trị của các doanh nghiệp vận tải hàng không khi
đối mặt với hậu quả của đại dịch Covid 19
4.1. Giải pháp của các doanh nghiệp vận tải hàng khơng trên thế giới
Tuy nhiên, nếu nhìn theo hướng tích cực, khó khăn nào cũng kèm cơ hội. Chính từ thách
thức, rất nhiều hãng hàng khơng đã tìm được hướng đi mới, trụ vững, đồng thời khơng ít
doanh nghiệp mới nổi lên và kiếm bộn tiền.
Theo báo cáo từ tổ chức The Airline Analyst, chỉ khoảng 50 trong số 220 hãng
(được khảo sát) có đủ khả năng “sống sót” sau dịch bệnh.
Theo đó, ngồi trợ cấp của Chính phủ, một số hãng có thể trụ lại là nhờ khả năng linh hoạt,
biết cách tái thiết hoạt động, tập trung vào những xu hướng cấp bách trong dịch bệnh như
các biện pháp tích cực vệ sinh, diệt khuẩn; áp dụng cơng nghệ “không chạm” để hạn chế
nguy cơ virus lây lan.
Một số hãng thay đổi trải nghiệm đi lại cho hành khách khi ứng dụng công nghệ tự động,
quét thân nhiệt, diệt khuẩn bằng tia UV, sinh trắc học, những công nghệ cho phép khách tự
thực hiện dịch vụ mà không cần phải giao tiếp hay động chạm quá nhiều.
Ngay từ đầu tháng 3 - thời điểm ngành hàng không bắt đầu hứng chịu cú giáng của dịch
Covid-19, Giám đốc GermFalco đã cung cấp miễn phí thiết bị diệt khuẩn tự động bằng tia
UV trên máy bay cùng một loại thiết bị khác tương tự cho các sân bay, góp phần hỗ trợ
ngành hàng khơng Mỹ trong thời gian khó khăn. Để có thể tồn tại, các hãng bay cịn phải
10
tìm ra những phương thức kinh doanh mới như mơ hình vận chuyển “điểm tới điểm”
khơng qua sân bay. Trước đây, dịch vụ này thường chỉ dành cho giới siêu giàu nhưng nay
lại tiếp cận được cả các đại gia tầm trung. Cách này giúp hành khách có thể di chuyển
khoảng cách xa nhanh và tiện hơn mà không lo bị lây nhiễm chéo từ hành khách tại sân
bay. Japan Airlines là ví dụ khác cho sự linh hoạt, sáng tạo của các hãng hàng khơng. Sau
khi nghiên cứu tình hình hồi phục của ngành hàng khơng khu vực, hãng nhận thấy ngành
vận tải du lịch sẽ trở lại sớm hơn ngành vận tải phục vụ công việc. Japan Airlines đã lên kế
hoạch thiết lập một hệ thống hãng bay giá rẻ để khai thác thị trường vận tải du lịch. Trong
đó, hãng kết hợp nhãn hiệu Jetstar (mà Japan Airlines đang vận hành cùng Qantas Airlines)
với Spring Airlines của Trung Quốc và hãng Zipair (thuộc sở hữu của Japan Airlines).
Bên cạnh đó, cơng ty của Nhật cịn nhanh chóng tìm hướng kinh doanh mới, thúc đẩy lợi
nhuận từ những ngành kinh doanh phi hàng không như vận tải hàng hóa bằng máy bay
khơng người lái (drone), bù đắp thua lỗ trong ngành chở khách. Japan Airlines đã kết hợp
với Công ty Matternet (Mỹ) cho ra mắt một doanh nghiệp vận tải drone trong khu vực đô
thị tại Nhật.
Cánh cửa năm 2021 đã mở ra và câu hỏi, liệu ngành hàng khơng có khởi sắc hay khơng là
điều khơng ai dám chắc chắn. Nhưng một điều chắc chắn là ngành hàng không sẽ thay đổi
theo hướng hiện đại, tự động và sạch sẽ hơn; ngành vận tải hàng hóa được tập trung nhiều
hơn; những phương thức di chuyển mới như taxi bay có cơ hội phát triển rộng...
4.2. Các doanh nghiệp vận tải hàng không Việt Nam tự chủ trương thực hiện thay đổi
trong hoạt động quản trị để đối mặt với đại dịch Covid 19
Trước những diễn biến phức tạp và kéo dài của dịch COVID-19, Vietnam Airlines triển
khai 5 giải pháp ứng phó gồm: Cắt giảm, tiết kiệm chi phí (khoảng 5.035 tỷ đồng); Đàm
phán với đối tác về giãn, hỗn các khoản thanh tốn (đến thời điểm 31/8/2020 đã
giãn/hỗn tiến độ thanh tốn 3.678 tỷ đồng; Giảm chi phí lao động, tiền lương (năm 2020
sử dụng 66-68% lao động, tổng chi phí lao động giảm 3.500 tỷ đồng); Vay ngắn hạn, bù
đắp thiếu hụt nguồn lực; Cơ cấu lại nợ vay. Triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ
về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho Vietnam Airlines do ảnh hưởng của dịch COVID19, Hội đồng quản trị Tổng công ty đã ban hành Nghị quyết về lộ trình triển khai các cơng
việc và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, cá nhân. Theo đó, Vietnam Airlines đã
thực hiện chỉ đạo của Văn phịng Chính phủ và Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp hoàn thiện báo cáo để báo cáo Bộ Chính trị.
11
Trong khi chờ những giải pháp hỗ trợ từ Chính phủ, ngay từ tháng 3, sau khi phải cắt, giảm
các đường bay Vietnam Airlines đã chuyển hướng đẩy mạnh vận tải hàng hóa. Theo đó,
hãng đã tăng cường khai thác các chuyến bay chuyên chở hàng hóa trong nước và quốc tế
để hạn chế tàu bay “nằm sân”, cũng như tăng doanh thu để giảm thua lỗ tại mảng vận
chuyển hành khách. Đồng thời, hãng đang tiếp tục nghiên cứu đẩy mạnh lĩnh vực vận
chuyển hàng hóa nhằm duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo giao thương trong
nước và quốc tế từ nay đến cuối năm.
Vietnam Airlines cho biết, đã xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh 2021 - 2025, trong
đó, đánh giá, dự báo và xây dựng các kịch bản về thị trường hàng không trong những năm
tới; đề ra các chỉ tiêu định hướng để đạt được các mục tiêu tổng quát đặt ra, các kế hoạch
về mạng bay, đội bay, sản lượng khai thác, tài chính, tái cơ cấu doanh nghiệp, đầu tư và
phát triển nguồn nhân lực. Vietnam Airlines cũng đề ra các giải pháp về thương mại dịch
vụ, khai thác kỹ thuật, công nghệ thông tin và chuyển đổi số, các giải pháp quản trị rủi ro
do các yếu tố bất ổn của môi trường kinh doanh; các giải pháp để phục hồi hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tiềm lực tài chính sau khủng hoảng do dịch COVID-19. Cịn theo bà Hồ
Ngọc Yến Phương, Phó Tổng giám đốc Hãng hàng khơng Vietjet Air, trước đại dịch
COVID-19, “Vietjet Air đã triển khai hàng loạt các giải pháp quyết liệt như: mở rộng dịch
vụ kinh doanh vận chuyển hàng hóa, phát triển các dịch vụ phụ trợ, thẻ bay Power Pass, tự
phục vụ mặt đất tại cảng hàng không Nội Bài, đồng thời Vietjet đã tích cực triển khai các
chương trình tiết kiệm chi phí, giảm chi phí trên mỗi đơn vị giờ khai thác từ 35 – 45% nhờ
tối ưu hóa hoạt động khai thác. Với tình hình khó khăn hiện nay, ước tính Vietjet Air thiếu
hụt 7.000 –
10.000 tỷ đồng để hỗ trợ hoạt động kinh doanh”, bà Hồ Ngọc Yến Phương thông tin.
Từ thực trạng hiện nay và dự báo tình hình năm 2021, Hiệp hội Doanh nghiệp hàng khơng
Việt Nam đề xuất các chính sách và giải pháp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp hàng khơng
vượt qua những khó khăn, thách thức do dịch bệnh COVID19 gây ra trong năm 2021 như mở rộng chương trình hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp
hàng không.
Đồng thời Vietjet kiến nghị xem xét giảm thuế bảo vệ môi trường xuống mức 1.000đồng/lít
và kéo dài thời gian áp dụng chính sách giảm thuế bảo vệ mơi trường đến hết năm 2021.
Cịn đại diện Bamboo Airways, ơng Nguyễn Khắc Hải, Phó tổng giám đốc Bamboo
Airways đề nghị được vay dài hạn 5.000 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi dưới hình thức tái cấp
vốn lãi suất 0% và 5.000 tỷ đồng vay dài hạn khác từ các ngân hàng thương mại với lãi
12
suất được hỗ trợ…
Xét trên khía cạnh tầm nhìn quốc gia, ông Thiên cho rằng các hãng hàng không
Việt cần phải được hỗ trợ của nhà nước. Bởi Chính phủ tài trợ hàng khơng cũng chính là
tài trợ cho tương lai.
“Hàng khơng thế giới đứng dậy thì ta phải đứng dậy ngay lập tức đồng thời đi kèm với dự
báo được tương lai của ngành hàng không trong bối cảnh hiện tại”, ơng Thiên nói.
Các chun gia cho rằng, để cứu hàng khơng, ngồi việc Chính phủ cần “bơm máu”, “trợ
thở” thì phương án phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ là một trong các giải pháp đầu tiên
được phần lớn các hãng hàng không trên thế giới áp dụng. Việc này khơng chỉ bổ sung
dịng tiền thiếu hụt mà cịn giúp nâng cao năng lực tài chính cho hãng, đảm bảo đủ tiền vốn
để duy trì hoạt động và tạo nguồn đầu tư phát triển giai đoạn hậu Covid-19.
13
TỔNG KẾT
Vận tải nói chung và vận tải hàng khơng nói riêng có vai trị rất quan trọng đối với nền
quốc dân của mỗi quốc gia, cũng như đối với nền kinh tế thế giới, đặc biệt góp phần thúc
đẩy tiến trình bn bán quốc tế, du lịch quốc tế và hội nhập giữa các quốc gia và vùng lãnh
thổ.
Vận tải hàng khơng là một điển hình về mối quan hệ kinh tế quốc tế, có khả năng kết nối
nhiều cùng trong một quốc gia và nhiều quốc gia, những khu vực trên thế giới, phục vụ
cho các hoạt động kinh tế như nhu cầu đi lại, du lịch, xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngồi.
Mở đường hàng khơng cũng có nghĩa là mở rộng hợp tác về kinh tế, quan hệ chính trị và
giao lưu văn hố xã hội, tạo ra hệ thống giao thông đối ngoại bước đầu đảm bảo được nhu
cầu giao lưu kinh tế giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới, từng bước
hội nhập với mạng lưới giao thông khu vực và trên thế giới.
Chính vì vậy, đại dịch Covid 19 là một tác nhân bên ngồi có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt
động vận tải hàng không. Năm 2021 được dự báo sẽ vẫn là một năm đầy khó khăn đối với
ngành hàng không, khi thị trường nội địa đã lấp đầy, bay quốc tế chưa được khôi phục, thị
trường bị thu hẹp cũng khiến cạnh tranh gay gắt hơn.
Để có thể khắc phục những hậu quả do dịch để lại, các doanh nghiệp vận tải hàng khơng
cần có những thay đổi nhất định, linh hoạt, phù hợp trong hoạt động quản trị của mình. Vì
vậy, nếu nhìn theo hướng tích cực, khó khăn nào cũng kèm cơ hội. Chính từ thách thức, rất
nhiều hãng hàng khơng đã tìm được hướng đi mới, trụ vững, đồng thời khơng ít doanh
nghiệp mới nổi lên và kiếm được kha khá tiền.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp – NXB. Đại học Kinh tế quốc dân.
2. />3. />4. />5. />
14
diem-va-muc-dich-20190809183422302.htm
6. />7. />8. />