TIỂU LUẬN: VÌ SAO HỘI NGHỊ TÁM BCH TRUNG ƯƠNG THÁNG
5/1941 ĐƯỢC COI LÀ HỘI NGHỊ HOÀN CHỈNH CHỦ TRƯƠNG
CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CỦA ĐẢNG
MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
II. NỘI DUNG
1. Hồn cảnh lịch sử
1.1 Tình hình thế giới
1.2 Tình hình trong nước
2. Nội dung Hội nghị Tám BCH Trung ương tháng 5/1941
3. Vì sao Hội nghị Tám được coi là Hội nghị hoàn chỉnh chủ
trương chiến lược của Đảng
4. Ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân
III. KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang
1
1
1
2
4
6
7
8
9
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cách mạng tháng 8 năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại, đi vào lịch sử dân tộc ta
như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, ghi dấu ấn chói lọi vào sử sách Việt Nam.
Sự thành cơng của Cách mạng tháng 8 là sự thành công của đường lối, chiến lược
mà Đảng ta vạch ta trong suốt giai đoạn 1930 - 1945, đặc biệt là những chiến lược,
sách lược mà Đảng ta đề ra tại Hội nghị lần thứ Tám 5/1941.
Hội nghị Tám tháng 5/1941 đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược của Đảng, chứng minh được uy tín và vai trị lãnh đạo của Đảng ta, từ
đó củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và là điều kiện đưa
đến những bước thắng lợi về sau của cách mạng Việt Nam.
II. NỘI DUNG
1. Hoàn cảnh lịch sử của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám
tháng 5/1941
1.1 Tình hình thế giới
Sau thời kì phát triển đỉnh cao của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đến năm
1929, các nước tư bản bước vào thời kì khủng hoảng trầm trọng, đen tối và kéo dài.
Do tác động của cuộc khủng hoảng toàn cầu 1929 – 1933, nếu như các nước Anh,
Pháp, Mỹ lựa chọn thoát khỏi khủng hoảng bằng cách cải tạo lại chế độ kinh tế thì
các nước Đức, Ý, Nhật lại tiến hành phát xít hóa bộ máy chính quyền, chạy đua vũ
trang, tiến hành chiến tranh xâm lược ở nhiều nơi. Từ đó, trên bình diện quốc tế đã
xuất hiện chế độ độc tài phát xít, đe dọa nghiêm trọng đến an ninh, hịa bình tồn
thế giới và nguy cơ nổ ra một cuộc chiến tranh thế giới mới.
Như đã được dự đoán từ trước, tháng 9/1939 phát xít Đức tấn cơng Ba Lan.
Hai ngày sau, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai. Cuộc chiến tranh này lan rộng ra tồn cầu, nhanh chóng làm thay
1
đổi cục diện quốc tế với hai trục đế quốc (Anh – Pháp – Mỹ) và trục phát xít (Đức
– Ý – Nhật) nhằm âm mưu chia lại thị trường thế giới giữa các nước lớn.
Đến tháng 6/1940, Đức tấn cơng Pháp, chính phủ Pháp nhanh chóng đầu
hàng vơ điều kiện. Phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp và đưa chính phủ phản
động Petanh lên cầm quyền, thủ tiêu tồn bộ các chính sách tự do dân chủ ở các
nước thuộc địa Pháp mà Đảng Nhân dân Pháp đã thi hành trước đó.
Ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Nhật cũng thực hiện phát xít hóa bộ
máy chính quyền với tham vọng làm bá chủ khu vực. Phát xít Nhật mở rộng chiến
tranh xâm lược Trung Quốc và bắt đầu tiến sát vào khu vực bên giới Việt – Trung.
Ở Đông Dương, tháng 9/1940, Nhật nhảy vào Đông Dương nhằm mục đích
chia cắt con đường viện trợ của Mỹ cho Trung Quốc trong cuộc chiến tranh Trung
– Nhật thơng qua cửa ngõ ở Đơng Dương làm cho tình hình ở Đơng Dương trở nên
căng thẳng và khó lường.
1.2 Tình hình trong nước
Sau khi chính phủ phản động Pháp lên cầm quyền thì các thế lực phản động
thuộc địa ở Việt Nam đã nổi dậy, thủ tiêu toàn bộ các quyền tự do dân chủ mà nhân
dân ta đã đấu tranh, giành được trong cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939, tun
bố đặt Cộng sản ngồi vịng pháp luật. Thực dân Pháp ra sức vơ vét, bóc lột nhân
dân ta để bù đắp thiệt hại cho mẫu quốc.
Ngày 22/9/1940, phát xít Nhật tiến vào Việt Nam nhằm xây dựng căn cứ
quân sự để chống lại phe Đồng minh trong cuộc chiến tranh thế giới. Các thế lực
thuộc địa Pháp hoảng loạn, buộc phải chấp nhận nhiều yêu sách nhượng bộ cho
phát xít Nhật. Với tình hình này, thực dân Pháp đã cấu kết với Nhật và tăng cường
bóc lột nhân dân ta, thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy”, tăng thêm thuế cũ, đặt
thêm thuê mới, bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, bắt lính... vơ vét cạn kiệt sức
người sức của để phục vụ cho cuộc chiến tranh chính quốc và đáp ứng yêu sách của
2
Nhật. Những chính sách này của Pháp – Nhật làm cho đời sống nhân dân Việt Nam
bị bần cùng hóa, lầm than, cơ cực, chịu cảnh hai tầng áp bức, gọi là “Một cổ hai
trịng”.
Ở Việt Nam nói riêng và cả Đơng Dương nói chung, phát xít Nhật ra sức
tun truyền, lừa bịp về sức mạnh của Nhật để đánh lạc hướng tư tưởng nhân dân
thông qua các thuyết “Đại Đông Á”, “Đồng chủng, Đồng văn”, “Người Nhật giúp
người Việt giành độc lập”, tìm cách hất cẳng Pháp khỏi Đơng Dương để độc chiếm
Đơng Dương. Bên cạnh đó, các đảng phái chính trị thân Nhật cũng ra sức hoạt
động, đàn áp nhân dân ta. Về phía Pháp, chúng cũng thi hành các chính sách hai
mặt: một mặt đàn áp, khủng bố phong trào cách mạng của nhân dân ta, một mặt
khác thì thi hành chính sách lừa bịp dân tộc ta bằng các thuyết “Cần lao – Gia đình
– Tổ quốc”, “Pháp – Việt đề huề”,...
Chính sách vơ vét của đế quốc phát xít Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta tới
bước đường cùng cực. Mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc này trừ
bọn tay sai, đại địa chủ, tư sản mại bản đều phải chịu áp bức và bị ảnh hưởng bởi
chính sách bóc bột của Pháp – Nhật. Do đó, mâu thuẫn trong xã hội trở nên gay gắt,
chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc phát xít Pháp – Nhật và tay sai.
Yêu cầu giải phóng dân tộc trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Trên cơ sở nắm bắt kịp thời diễn biến của tình hình thế giới và trong nước,
Trung ương Đảng đã tiến hành lần lượt các Hội nghị ban chấp hành trung ương 6
(11/1939) và Hội nghị ban chấp hành trung ương 7 (11/1940), quyết định đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và chủ trương chuyển hướng đấu tranh cách
mạng.
Đầu năm 1941, sau 30 năm bơn ba ở nước ngồi, Nguyễn Ái Quốc đã trở về
Việt Nam, trực tiếp chỉ đạo cách mạng và chọn Cao Bằng làm căn cứ địa cách
mạng. Với thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén, tháng 5/1941, Nguyễn Ái
3
Quốc đã triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Tám để vạch ra
đường hướng chỉ đạo cách mạng cho phù hợp với tình hình mới.
2. Nội dung của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ tám tháng
5/1941
Hội nghị trung ương Tám xác định kẻ thù của cách mạng Việt Nam lúc này
là đế quốc phát xít Pháp – Nhật và tay sai, trên cơ sở đó hội nghị đã vạch ra đường
lối chiến lược rõ ràng để chĩa mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù này.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng lúc này là
giải phóng dân tộc, từ đó tiếp tục giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc
đã vạch ra từ Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ sáu (11/1939). Hội nghị
đã giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ độc lập dân tộc và cách mạng ruộng
đất, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và nhấn mạnh đây là nhiệm vụ
“bức thiết nhất". Nghị quyết hội nghị nêu rõ: “Cách mạng Đông Dương hiện tại
không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, giải quyết hai vấn đề phản đế và
điền địa nữa mà chỉ giải quyết một vấn đề cần kíp: Dân tộc giải phóng”1
Hội nghị quyết định tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”, chỉ
thực hiện khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công. Hội nghị chỉ rõ ở Việt
Nam sẽ thành lập chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hội
nghị cũng nhấn mạnh: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc
giải phóng, khơng địi được độc lập tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những
tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận
giai cấp đến vạn năm sau cùng khơng địi được.”2
Hội nghị (5/1941) chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ
từng nước Đông Dương nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết, khơi dậy mạnh mẽ
1
2
Lịch sử cách mạng tháng 8 – 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 38 - 40
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng
4
tinh thần dân tộc, yêu nước nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc những vẫn có
sự liên hệ mật thiết, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa ba dân tộc Đơng Dương. Từ đó,
Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đơng Dương một hình thức mặt trận
riêng. Ở Việt Nam, theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, hội nghị chủ trương thành
lập Mặt trận Việt Minh nhằm đồn kết dân tộc Việt Nam, khơng phân biệt giai cấp,
tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, tức là ai cũng có thể tham gia, góp cơng, góp của, góp
sức vào mặt trận bao gồm mọi người Việt Nam có lòng yêu nước, thương nòi, đấu
tranh chống đế quốc phát xít Pháp, Nhật và tay sai. Theo đó, mặt trận Việt Minh ra
đời và hoạt động theo tôn chỉ: "Liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, các đảng
phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đặng cùng nhau đánh đuổi Nhật,
Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.”
Hội nghị (5/1941) chủ trương khởi nghĩa vũ trang, coi chuẩn bị cho khởi
nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của tồn Đảng tồn dân trong thời kì này. Hội
nghị Trung ương (5-1941) xác định: "Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu
bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang"3. Với tinh thần đó, hội nghị đã quyết định
thành lập các đội tự vệ và các tổ du kích cứu quốc làm lực lượng xung kích trong
phong trào cách mạng ở địa phương, là cơ sở cho việc xây dựng lực lượng vũ trang
và đấu tranh vũ trang, đặt nền tảng để tồn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Trên cơ sở nghiên cứu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac Lenin vào hoàn
cảnh thực tiễn của dân tộc Việt Nam, Hội nghị cũng chỉ rõ một cuộc tổng khởi
nghĩa bùng nổ và thắng lợi phải có đủ điều kiện chủ quan, khách quan và phải nổ ra
đúng thời cơ, từ đó xác định hình thái khởi nghĩa vũ trang của nước ta phải đi từ
khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa: Với chủ trương khởi nghĩa vũ trang, hội
nghị đã nhấn mạnh đến vấn đề phát triển lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị và
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.129
5
xây dựng căn cứ địa cách mạng nhằm mục đích khi thời cơ thuận lợi đến thì "với
lực lượng có sẵn ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa
phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa
to lớn"4. Việc chuẩn bị lực lượng chính trị gắn liền với quá trình xây dựng và phát
triển của Mặt trận Việt Minh. Chương trình của Việt Minh đáp ứng được nguyện
vọng cứu nước của đông đảo quần chúng nên phong trào Việt Minh ngày càng phát
triển mạnh,
Hội nghị đề ra nhiệm vụ xây dựng Đảng, kiện toàn bộ máy lãnh đạo cách
mạng nhằm làm cho Đảng đủ năng lực lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức gồm các đồng chí Trường
Chinh, Hồng Văn Thụ, Hạ Bá Cang, Phùng Chí Kiên, trong đó đồng chí Trường
Chinh làm Tổng Bí thư của Đảng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng gồm các đồng
chí Trường Chinh, Hồng Văn Thụ, Hạ Bá Cang.
3. Vì sao Hội nghị Tám được coi là Hội nghị hoàn chỉnh chủ trương chiến lược
của Đảng
Hội nghị Tám được coi là Hội nghị hoàn chỉnh chủ trương chiến lược của
Đảng, bởi vì Hội nghị này đã hồn chỉnh và bổ sung những nội dung, đường lối,
chiến lược, sách lược chuyển hướng chỉ đạo đấu tranh được vạch ra từ hai hội nghị
trước là hội nghị Sáu (11/1939) và hội nghị Bảy (11/1940) cho phù hợp với sự
chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước. Cụ thể:
Hội nghị Tám đã hoàn chỉnh về việc xác định nhiệm vụ cách mạng: do sự
biến đổi của tình hình trong và ngồi nước, 11/1939 Hội nghị BCH Trung ương đã
họp và quyết định chuyển hướng đấu tranh, ngừng đấu tranh đòi tự do dân chủ và
đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Hội nghị Tám đã tiếp tục giương cao
hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc và nhấn mạnh giải phóng dân tộc lúc này là
4
Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 7, tr 129, 131, 132.
6
nhiệm vụ bức thiết nhất, mọi đường hướng, quyết sách đều phải xoay quanh nhiệm
vụ hàng đầu này.
Hội nghị Tám đã hồn chỉnh về hình thức, phương pháp đấu tranh cách
mạng: Hội nghị 11/1939, 11/1940 chỉ mới xác định hình thức cách mạng là bí mật,
bất hợp pháp mà chưa xác định rõ phương pháp đấu tranh, hình thái phát triển của
cách mạng. Đến hội nghị Tám, nghị quyết nêu rõ cách mạng phải tiến hành cuộc
khởi nghĩa vũ trang bằng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xác định cuộc
khởi nghĩa đi từ khởi nghĩa toàn phần tiến tới tổng khởi nghĩa, nhằm tạo ra sự thay
đổi về lượng để tiến tới sự thay đổi về chất.
Hội nghị Tám đã hoàn chỉnh về lực lượng cách mạng: Thay vì đồn kết cả ba
dân tộc Đơng Dương trong mặt trận đấu tranh chống đế quốc phát xít như chủ
trương tại Hội nghị 11/1939, Hội nghị 11/1940 thì Hội nghị Tám quyết định giải
quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước nhằm thực hiện quyền tự quyết,
tập trung cao độ khả năng cách mạng của mỗi dân tộc vào nhiệm vụ độc lập dân tộc
từng nước.
Hội nghị Tám cũng đã hoàn chỉnh về sự lãnh đạo của Đảng thơng qua việc
kiện tồn ban chấp hành trung ương do đồng chí Trường Chinh làm tổng bí thư, từ
đó nâng cao năng lực lãnh đạo, uy tín và tầm nhìn của Đảng, củng cố niềm tin của
quần chúng vào giai cấp lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng.
Như vậy, Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần 8 (5/1941) đã đánh dấu sự
hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng đã đề ra từ hội nghị Sáu
(11/1939), góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu là giải phóng dân tộc.
4. Ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương của Đảng lần thứ Tám tháng 5/1941 thể
hiện sự linh hoạt, sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định chiến lược, sách lược
7
đấu tranh cách mạng, giải phóng dân tộc. Từ vấn đề trên đã đặt ra cho em – một
sinh viên cần phải:
Biết nắm bắt tình hình để có giải pháp phù hợp: Là một sinh viên, để sau này
ra trường có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường, khơng bị đào thải khỏi xã hội thì
cần phải biết nắm bắt xu thế phát triển của thời đại, biết xã hội cần gì để thay đổi
bản thân cho phù hợp, tạo ra giá trị đáp ứng nhu cầu của thời đại mới như kỹ năng
mềm, khả năng ngoại ngữ,...
Có kế hoạch rõ ràng, bước đi phù hợp: Trong quá trình học tập thì phải xây
dựng được mục tiêu, nhiệm vụ, kế hoạch rõ ràng và thực hiện kế hoạch đó một
cách linh hoạt, sáng tạo để đạt hiệu quả cao.
Xây dựng nội dung của kế hoạch học tập phải có sự chỉn chu, hoàn thiện trên
cơ sở phù hợp với nhu cầu thực tiễn và khả năng của bản thân, tránh trường hợp
vạch ra nhưng lại vượt quá khả năng, không thực hiện được dẫn đến chán nản, bỏ
dỡ giữa chừng.
III. KẾT LUẬN
Hội nghị Ban chấp hành trung ương lần 8 (5/1941) đã đánh dấu sự hoàn
chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng đã đề ra từ hội nghị 11/1939,
góp phần giải quyết mục tiêu hàng đầu là giải phóng dân tộc.
Sự chuyển hướng chỉ đạo này đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt lãnh đạo quần
chúng nhân dân đứng lên đấu tranh đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân
tộc và tự do cho nhân dân. Đồng thời Hội nghị còn thể hiện sự đúng đắn, sáng suốt
của Đảng trong việc nhận định tình hình, xây dựng chủ trương, sách lược đấu tranh
cho phù hợp với thực tiễn lịch sử đặt ra, đặt nền tảng cho thắng lợi của dân tộc ta
trong cuộc cách mạng tháng Tám lịch sử.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
8
1. Lịch sử cách mạng tháng 8 – 1945, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 38
– 40.
2. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc
gia, H.2000, tr.129.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, H. 2000, tập 7,
tr 129, 131, 132.
9