1
KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÁC
ĐỊNH ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC VÀ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO
CHIẾN LƯỢC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG 1939 - 1945
Thời kỳ 1939-1945, có vị trí đặc biệt trong tiến trình cách mạng nước ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng;đánh dấu sự phát triển trong nhận thức và tư duy
lý luận của Đảng về xác định nhiệm vụ chiến lược và chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng,phù hợp với tình hình thực tiễn- được thể hiện qua ba
nghị quyết:Nghị quyết Trung ương 6(11/1939), Nghị quyết Trung ương
7(11/1940) và Nghị quyết Trung ương 8(5/1941).
Cùng với những diễn biến mau lẹ của tình hình trong nước và thế giới
đòi hỏi Đảng phải có một quyết sách lớn, bằng một sự chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược phù hợp, nhận thức đúng tính cấp thiết của nhiệm vụ giải phóng
dân tộc. Trên cơ sở đó mà giải quyết những vấn đề như đối tượng cách mạng,
lực lượng cách mạng, phương pháp tổ chức cách mạng trong giai đoạn hiện
tại để thực hiện mục tiêu trước mắt là đấu tranh giành độc lập tự do cho dân
tộc. Vì “Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải
phóng”1.
Chủ trương chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ chống đế giải phóng dân
tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” chỉ tịch thu ruộng
đất của đế quốc và những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc. Chủ trương đó
được thông qua ở ba Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 6, 7& 8.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 họp từ ngày 06 đến ngày 08
tháng 11 - 1939 tại Bà Điểm, Hóc Môn, Gia Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ
chủ trì. Hội nghị đã đánh giá tình hình biến đổi trong nước và thế giới, tác động
của chiến tranh. Chiến tranh đã làm đảo lộn trật tự của thế giới cũ làm cho thế giới
rơi vào cuộc khủng hoảng toàn diện, ngày càng trầm trọng hơn. Song cuộc chiến
1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 756
2
tranh này sẽ làm suy yếu nền thống trị của chủ nghĩa đế quốc, do đó nó sẽ tạo điều
kiện cho nhân dân các dân tộc bị áp bức vùng dậy đấu tranh “Một thế giới quang
minh rực rỡ sẽ thay thế cho cái thế giới tối tăm, mục nát này”2.
Về tình hình Đông Dương, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho rằng,
tình hình thế giới biến động sẽ, tác động sâu sắc toàn diện đến mọi mặt đời
sống của Đông Dương. Đông Dương bị lôi kéo vào cuộc chiến tranh thảm
khốc, đời sống nhân dân ngày càng lâm vào bần cùng, đói khổ. Trong xã hội,
các giai cấp, tầng lớp có sự biến đổi phân hoá sâu sắc, người dân Đông
Dương bị “áp bức như trâu ngựa và đẽo rút xương tuỷ” 1 làm cho mâu thuẫn
giữa các dân tộc Đông Dương và đế quốc phong kiến Việt gian tay sai ngày
càng gay gắt và sâu sắc hơn. Hội nghị đi sâu phân tích vấn đề dân tộc ở Đông
Dương lúc này, chỉ rõ: Tư tưởng xuyên suốt giải quyết bảo đảm thống nhất
giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, trong tình hình hiện thời vấn đề dân
tộc đang nổi lên gay gắt.
Qua sự phân tích đánh giá tình hình, Hội nghị khẳng định: Con đường
sinh tồn của các dân tộc Đông Dương chỉ có thể là con đường đánh đổ đế
quốc Pháp, chống mọi ách ngoại xâm, một nhận thức rõ ràng: “Đế quốc Pháp
còn, dân chúng Đông Dương chết. Đế quốc Pháp chết, dân chúng Đông
Dương còn”2.
Tình hình Đông Dương đã thay đổi, lúc này mục tiêu đấu tranh của nhân
dân Đông Dương phải hướng vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chứ không thể
dừng lại ở mục tiêu đòi dân sinh dân chủ. Trong tình hình mới Hội nghị chủ
trương đặt nhiệm vụ chống đế quốc, việt gian tay sai giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, tạm gác khẩu hiệu “ Chính
quyền Xô Viết”, mà chủ trương thành lập chính quyền có sự tham gia của mọi
tầng lớp dân chúng trong phong trào giải phóng dân tộc. Mối quan hệ giữa
2
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 6, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 516
Sđd, Tập 6, tr. 534.
1,2
3
chống đế quốc và chống phong kiến, Hội nghị chỉ rõ: Về chiến lược, cách
mạng phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mạng tư sản dân
quyền, cách mạng phản đế, phản phong có quan hệ mật thiết với nhau, không
thể tách rời. Nhưng “cái nguyên tắc chính ấy” trong tình hình thay đổi hiện
thời: “nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực hiện được nhiệm
vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”1
Như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6(11/1939), Đảng
đã kế thừa tư tưởng chỉ đạo chiến lược mà Cương lĩnh đầu tiên đã hình thành:
phân hoá giai cấp địa chủ, phong kiến tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc
để chĩa mũi nhọn vào kẻ thù nguy hiểm nhất là đế quốc và Việt gian tay sai;
và nâng lên thành một chủ trương lớn tập trung vào mục tiêu chiến lược hàng
đầu: Độc lập tự do cho dân tộc.
Để tập hợp lực lượng cách mạng, Hội nghị quyết định thành lập: “Mặt
trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương” thay cho “Mặt trận dân chủ”
không còn phù hợp, nhằm tập hợp mọi người Việt Nam “có ít nhiều tinh thần
chống đế quốc”. Mục đích của mặt trận là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn Việt
gian tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương.
Từ việc xác định nhiệm vụ hàng đầu, mục tiêu trước mắt, Đảng đi vào
giải quyết các vấn đề cơ bản liên quan: Lực lượng cách mạng, phương pháp
cách mạng, chiến thuật tuyên truyền vận động, đặc biệt là yêu cầu xây dựng
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu, xác định đúng đắn vấn đề chủ yếu là tập trung mũi nhọn cuộc đấu tranh
vào đối tượng chủ yếu là thực dân Pháp và Việt gian tay sai, chuẩn bị những
điều kiện trực tiếp tiến tới giành chính quyền.
1
Sđd, Tập 6, tr. 538.
4
Tháng 6 - 1940, nước Pháp bị Đức chiếm đóng, phát xít Nhật nhân cơ hội
đó xâm lược Đông Dương. Pháp nhanh chóng đầu hàng Nhật nhưng nhân dân
kiên quyết nổi dậy chống cả Pháp và Nhật. Các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9/
1940), khởi nghĩa Nam Kỳ (11/1940) và cuộc binh biến Đô Lương (1/1941) nổ
ra. Các cuộc khởi nghĩa đó đã báo hiệu một thời kỳ mới của đất nước, thời kỳ
bắt đầu đấu tranh vũ trang ở Đông Dương. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 họp từ ngày 06 đến 09 tháng 11 - 1940
tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh do đồng chí Trường Chinh chủ trì.Hội
nghị khẳng định: “Mặc dầu lúc này khẩu hiệu cách mạng phản đế - cách mạng
giải phóng dân tộc cao hơn và thiết dụng hơn song nếu không làm được cách
mạng thổ địa thì cách mạng phản đế khó thành công. Tình thế hiện tại không
thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân quyền Đông
Dương”1.
Hội nghị cũng khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, xác định
kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát xít Pháp và Nhật. Hội nghị quyết
định duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn làm đơn vị tập
trung đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Những chủ trương đúng đắn của Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 6 về giải quyết mối quan hệ chống đế quốc và chống phong kiến được
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khẳng định lại và
bổ sung, phát triển và được trình bày rõ ràng hơn, sâu sắc hơn trong Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 họp từ ngày 10
đến ngày 19 tháng 5/1941, tại Pác Bó, Hà Quảng, Cao Bằng do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc chủ trì.
1
Sđd, Tập 7, tr. 68.
5
Hội nghị đã phân tích nguồn gốc, đặc điểm, tính chất của chiến tranh thế
giới thứ hai và dự đoán: “chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”2
Về tình hình Đông Dương, Hội nghị nhận định: nhân dân Đông Dương
cũng chịu những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai và
chính sách thống trị phát xít của Nhật - Pháp. Nên thái độ chính trị của nhân
dân Đông Dương đã thay đổi khá lớn, giai cấp công nhân và nông dân nghèo
nàn, khốn khổ nặng nề, hơn lúc nào hết càng hăng hái chống đế quốc, tay sai.
Hội nghị nêu rõ: “Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh
dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống
được...Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ
thù của cả dân tộc Đông Dương”1. Nguyện vọng của nhân dân Đông Dương
lúc này là đánh Pháp, đuổi Nhật giành lại quyền độc lập cho xứ sở, đây không
còn là nhiệm vụ riêng của bất cứ một giai cấp nào. Cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại là một cuộc cách mạng “dân tộc giải phóng”.
Hội nghị nhấn mạnh: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp
phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc
lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn
chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm
cũng không đòi lại được”2
Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, coi đó là nhiệm chính cốt
của cách mạng Đông Dương trong giai đoạn trước mắt, xác định lại tính chất
của cách mạng Đông Dương là cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện chủ
trương tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay
Sđd, Tập 7, tr. 100.
Sđd, Tập 7, tr. 112
2
Sđd, Tập 7, tr. 113.
2
1
6
bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày
nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô giảm tức nhưng như
thế không phải là bỏ cách mạng điền địa. Lúc này tạm gác nhiệm vụ ruộng đất
vì chưa cần thiết với toàn thể nhân dân, cũng không sợ làm giảm ý chí đấu
tranh của nông dân, lực lượng chiếm 90% dân số. Hội nghị giải thích: “Ngay
bây giờ nếu ta nêu khẩu hiệu đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày,
như thế chẳng những ta bỏ mất một lực lượng đồng minh, một lực lượng hậu
thuẫn trong cuộc cách mạng đánh đuổi Pháp - Nhật mà còn đẩy lực lượng ấy
về phe địch làm thành hậu bị quân cho phe địch nữa” 1. Nhưng cũng không lo
sợ nông dân sẽ giảm hăng hái, giảm bớt sức chiến đấu “vì trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc họ cũng được hưởng nhiều quyền lợi to tát” 2. Ruộng
đất là nguyện vọng ngàn đời của nông dân, nhưng lúc này, vấn đề ruộng đất
chỉ có thể nêu lên như một phương hướng chung. Chưa có thể đáp ứng ngay
được mục tiêu người cày có ruộng, nghĩa là chưa đánh địa chủ, phong kiến
ngay được, nhưng Đảng ta chỉ rõ cách mạng sẽ thực hiện bằng được mục tiêu
đó.
Như vậy, những chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong thời kỳ
này được thông qua ở ba Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, 7,
8, chứng tỏ Đảng đã nhận thức sâu sắc tính chất thuộc địa nửa phong kiến
của Việt Nam, trong thời điểm lịch sử có tính chất quyết định cần phải biết
tập trung mũi nhọn đánh đổ kẻ thù nguy hiểm nhất của dân tộc, của giai
cấp là bọn đế quốc và tay sai của chúng giành cho được độc lập tự do. Đây
là một chủ trương hết sức khôn khéo và sáng suốt của Đảng, nhằm tập
trung được hết thảy mọi lực lượng, tạo ra sức mạnh to lớn để giải quyết
nhiệm vụ chủ yếu, đồng thời cũng qua đó mà củng cố khối liên minh công
nông vững chắc thêm.
Chính từ chủ trương giải quyết đúng đắn mối quan hệ chống đế quốc
chống phong kiến của Đảng, thời kỳ này là nguyên nhân cơ bản nhất dẫn tới
1, 2
Sđd, Tập 7, tr. 120
7
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, là kinh nghiệm để Đảng ta
tiếp tục giải quyết mối quan hệ chống đế quốc và chống phong kiến trong
cuộc kháng chiến chống Pháp sau này.
Chiến tranh với những sự tàn khốc và những đau thương, đã thức tỉnh, lay
động quần chúng đứng dậy. Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm chuyển biến sâu
sắc tình hình chính trị, kinh tế - xã hội thế giới, đã thúc đẩy làm xuất hiện tình thế
cách mạng ở một loạt nước trên thế giới, nhất là các nước thuộc địa. Đó là tình thế
mà: “dân các nước tư bản đòi giải phóng. Dân tộc các thuộc địa đòi độc lập”3- và
nhận định : “Cách mạng giải phóng dân tộc Đông Dương sẽ thắng!”4.
Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình
Đông Dương và Việt Nam, từ khi tham gia vào cuộc chiến tranh Chính phủ
Pháp đã thi hành chính sách cai trị hết sức phản động không chỉ ở trong nước
mà ở tất cả các thuộc địa của Pháp. Người gánh chịu nặng nề nhất bởi chính
sách cai trị thời chiến là nhân dân lao động thuộc địa. Đặc biệt sau khi Pháp
đầu hàng phát xít Đức; Chính phủ tay sai Pê- tanh đã thực thi chế độ cai trị
phát xít, ngay tại nước Pháp các tổ chức dân chủ tiến bộ, Đảng Cộng sản bị
giải tán, những chiến sĩ cộng sản, những người yêu nước, dân chủ tiến bộ bị
bắt giam. Ở thuộc địa, thực dân Pháp ra sức “phát xít hoá” một cách điên
cuồng và phản động hơn. Ở Đông Dương chính sách phát xít hoá cũng được
thể hiện khi Nhật nhảy vào chiếm đóng Đông Dương. Nhật muốn lợi dụng cơ
hội Pháp bại trận để xâm lược Đông Dương vơ vét nguồn tài nguyên dồi dào
cung cấp cho chiến tranh, lấy đây là bàn đạp đánh các nước Đông Nam Á.
Nhật chiếm được Đông Dương, nhưng chưa loại bỏ Pháp ngay mà tìm cách
thoả hiệp tạm thời cấu kết với Pháp để cai trị và khai thác Đông Dương một
cách có hiệu quả nhất phục vụ cho chiến tranh.
3, 4
4
Sđd, Tập 6, tr. 516.
8
Tại Việt Nam, thực dân- phát xít Pháp - Nhật và bọn tay sai Vệt gian thi
hành chính sách cai trị thời chiến làm cho mọi hoạt động của đời sống chính
trị, kinh tế - xã hội bị đảo lộn.
Về chính trị, Pháp - Nhật điên cuồng đàn áp, khủng bố Đảng Cộng sản
Đông Dương, những người yêu nước, tiến bộ. Các cuộc lùng sục do mật thám
chỉ điểm đánh vào tổ chức Đảng từ cơ sở đến Trung ương diễn ra thường xuyên.
Nhiều cán bộ, cơ sở cách mạng bị đánh phá, chúng xây dựng nhiều nhà tù, trại
giam trên cả nước: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ để giam cầm những người cộng
sản và quần chúng giác ngộ. Các tờ báo tiến bộ bị tịch thu và bị đóng cửa. Các tổ
chức quần chúng, đoàn thể cách mạng bị giải tán. Mọi quyền lợi dân sinh dân
chủ giành được trong cao trào dân chủ 1936 - 1939 bị thủ tiêu.
Về kinh tế, phát xít Pháp - Nhật thi hành chính sách kinh tế thời chiến
với cơ chế chỉ huy độc quyền. Chúng giành độc quyền về ngoại thương, sử
dụng đồng tiền mất giá để thu mua vàng bạc, của cải, đồng thời tăng cường
bóc lột vơ vét sung công tài sản, lương thực, công cụ sản xuất của nhân dân
và các hội, ban hành công trái, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay. Chính sách
“dóc xương lột da” làm cho kinh tế Việt Nam vốn nghèo nàn, lạc hậu lại càng
suy thoái hơn. Do đó đời sống nhân dân hết sức khó khăn cực khổ, nạn đói
hoành hành khắp nơi. Nền kinh tế Đông Dương bị sa sút nghiêm trọng, nông
nghiệp suy sụp, công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp tiêu điều. Như vậy:
“chính sách kinh tế chiến tranh của đế quốc Pháp lại sẽ gây nên những ảnh
hưởng khốc liệt làm cho cuộc khủng hoảng hết sức nặng nề và xô nền kinh tế
Đông Dương vào cảnh tiêu tàn, đổ nát” 1
Về quân sự, chúng tăng cường bắt lính để sung vào đội quân chiếm đóng
và đưa đi làm bia đỡ đạn ở các chiến trường Châu Âu và Châu Phi. Bắt hàng
vạn người đi phu để xây dựng các công trình quân sự phục vụ chiến tranh.
1
Sđd, Tập 6, tr. 521.
9
Nhiều nhà thương, trường học biến thành trại lính: “Nhà thương, trường học
chẳng những không mở thêm, mà lại còn đuổi người đau và một số nhà
trường phải nhường chỗ cho binh lính đóng”2
Khắp nơi bao trùm bầu không khí, quân sự ngột ngạt, chúng đã biến
Việt Nam thành “xã hội trại lính”, phục vụ tích cực cho chiến tranh mà
chúng theo đuổi.
Cách mạng Tháng Tám năm1945 là một trong những trang sử vẻ vang
chói lọi nhất trong lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc ta, đập tan ách thống
trị của Đế quốc thực dân gần một trăm năm, lật đổ chế độ phong kiến hàng
ngàn năm; đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự do;
đưa nhân dân ta từ địa vị nô lệ lên làm chủ đất nước...Thắng lợi đó là kết quả
tổng hợp của nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan. Nhưng trước hết đó là
kết quả tất yếu của sự lãnh đạo tài giỏi của Đảng Cộng sản Việt nam với một
đường lối, chủ trương đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo.
Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong thời kỳ
1939- 1945 với nội dung cốt lõi là tư tưởng “nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất”, là thể hiện sự nhận thức và giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là
chống đế quốc và chống phong kiến.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến của Đảng ta trong thời kỳ 1939- 1945 là chủ trương hoàn
toàn đúng đắn vừa mang tính cách mạng, khoa học vừa thể hiện năng lực sáng
tạo của Đảng. Đó là thể hiện sự nhất quán với tư tưởng về việc giải quyết mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng; sự kế thừa phát triển tư tưởng của Luận cương tháng
2
Sđd, Tập 6, tr. 519.
10
10/1930; là kết quả của sự tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn phong trào cách
mạng Việt Nam thời kỳ 1930 - 1931 và thời kỳ 1936 - 1939; sự trung thành
và vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn tình hình
cách mạng thế giới và Việt Nam thời kỳ 1939 -1945.
Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay khi mới ra đời (3/2/1930) trong Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam và mối quan hệ chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ ấy. Tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng ở Việt Nam phải đồng thời tiến
hành hai nhiệm vụ là “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”,
nhằm mục tiêu “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” và đem lại
“ruộng đất cho dân cày nghèo”. Tư tưởng đánh cả đế quốc và phong kiến thể
hiện Đảng ta đã nắm chắc thực tiễn, đặc trưng cơ bản của xã hội Việt Nam
thuộc địa nửa phong kiến, với sự cấu kết chặt chẽ giữa hai kẻ thù đế quốc và
phong kiến nhằm đàn áp bóc lột nhân dân ta. Hai nhiệm vụ chiến lược đó
của cách mạng Việt Nam tiếp tục được khẳng định trong thời kỳ 1939 1945 cùng với việc xác định lúc này phải đề cao nhiệm vụ đánh đế quốc,
phải đặt nhiệm vụ đánh đế quốc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu. Đó là sự nhận thức đúng tư tưởng của Cương lĩnh đầu tiên của
Đảng trong tình hình mới.
Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và
chống phong kiến thời kỳ 1939 - 1945 cũng thể hiện sự kế thừa và bước phát
triển mới tư tưởng trong Luận cương chính trị tháng 10/1930 của Đảng. Do
nhiều nguyên nhân, Luận cương chính trị tháng 10/1930 còn quá nhấn mạnh vấn
đề giai cấp, chưa đánh giá đúng mức vị trí của vấn đề dân tộc và giải phóng dân
tộc, nên chưa có chủ trương phù hợp để tập hợp đông đảo các giai tầng trong xã
hội, đoàn kết xung quanh hai giai cấp công nhân và nông dân tạo sức mạnh tổng
hợp cho cách mạng. Do vậy, chủ trương “nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc,
11
đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng đầu” trong thời kỳ này là sự tiếp nối tư
tưởng về hai nhiệm vụ chiến lược trong Cương lĩnh đầu tiên và khắc phục mặt
hạn chế trong Luận cương chính trị về vấn đề xác định mục tiêu và nhiệm vụ chủ
yếu, kẻ thù chủ yếu; vấn đề giải phóng dân tộc và đoàn kết các lực lượng.
Chủ trương giải quyết đúng mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến trong thời kỳ 1939 - 1945 của Đảng cũng là kết
quả của sự tổng kết kinh nghiệm của thực tiễn phong trào cách mạng Việt
Nam thời kỳ 1930 - 1931 và1936 - 1939.
Ngay sau khi thành lập (3/2/1930), nhờ có chủ trương đúng, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta đồng thời đánh cả đế quốc và phong kiến nhằm mục tiêu
giành quyền dân chủ, tự do cho nhân dân lao động. Thực tiễn, Đảng đã phát
động được một phong trào cách mạng rộng lớn khắp cả nước mà đỉnh cao là
Xô viết Nghệ Tĩnh. Cao trào đã xứng đáng là cuộc Tổng diễn tập lần thứ nhất
của Đảng chuẩn bị cho cách mạng Tháng Tám.
Thời kỳ 1936 - 1939, khi tình hình cách mạng có diễn biến mới, với
sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới đặt ra
cùng với chính sách vơ vét bóc lột của đế quốc thực dân trong nước;
Đảng đã xác định đúng chủ trương, nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
là “chống phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hoà
bình”.Nhờ chủ trương đúng và mục tiêu nhiệm vụ sát hợp, cùng sự chỉ
đạo linh hoạt, Đảng ta đã phát động được một phong trào đấu tranh đòi
dân sinh, dân chủ, cơm áo, hoà bình, một cách mạnh mẽ, hiếm có ở một
xứ thuộc địa từ trước đến nay; tạo ra trận địa vững chắc và lực lượng
chính trị hùng hậu, thực sự là cuộc Tổng diễn tập lần thứ hai chuẩn bị
cho cách mạng Tháng Tám.
Qua thực tiễn kinh nghiệm, tổng kết từ hai phong trào cách mạng
1930- 1931 và 1936 - 1939 đã giúp cho Đảng ta nhận thức đúng về vấn
12
đề dân tộc, là vấn đề có ý nghĩa bao trùm và gắn bó chặt chẽ với vấn đề
giai cấp. Đánh giá đúng vị trí vấn đề dân tộc, xác định đúng mục tiêu,
đáp ứng đúng nguyện vọng của toàn thể nhân dân, của dân tộc là yêu cầu
quan trọng hàng đầu để tập hợp lực lượng đông đảo tạo sức mạnh tổng
hợp to lớn cho cách mạng.
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc tay sai,
giải phóng dân tộc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là chủ trương hoàn toàn
đúng với thực tiễn tình hình cách mạng thế giới và nước ta trong thời kỳ 19391945.
Trước nguy cơ tồn vong của dân tộc, trước đòi hỏi bức thiết của nhân
dân, đặt ra cho cách mạng Việt Nam lúc này hơn bao giờ hết phải thực hiện
nhiệm vụ cấp bách, trước mắt là đánh đuổi đế quốc, giành lại độc lập cho dân
tộc: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không có con đường
nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại
xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập. Đế
quốc Pháp còn, dân chúng Đông Dương chết. Đế quốc Pháp chết, dân
chúng Đông Dương còn”1. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất
nước là nhiệm vụ thiêng liêng của Đảng và cách mạng Đông Dương,phù
hợp với nguyện vọng chung của tất cả nhân dân. Bởi vì,thực chất nhiệm vụ
giải phóng dân tộc thời kỳ này là trực tiếp giải quyết một phần vấn đề giai
cấp và lợi ích giai cấp, trong giai đoạn hiện nay ai cũng biết rằng: Nếu
không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp
trâu ngựa muôn đời, mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết
được.
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục vụ cho nhiệm vụ
1
Sđd, Tập 6, tr. 536
13
chống đế quốc. Giải thích vấn đề quan hệ giữa hai nhiệm vụ này, Đảng ta đã chỉ
rõ: “Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản
dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không giải quyết được
cách mệnh phản đế. Trái lại, không giải quyết được cách mệnh phản đế thì
không giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy không bao
giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào để thực
hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện nay tình
hình có đổi mới....Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân
tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng
phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”2.
Để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, để tập hợp đông đảo nhất mọi
lực lượng chống đế quốc, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương ( đến Hội nghị Trung ương 8, tháng 5/1941 đổi là
Mặt trận Việt Minh) nhằm “Liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương dưới
nền thống trị của Đế quốc Pháp, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử
phản đế muốn giải phóng do dân tộc”3
Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng
đầu, Đảng chỉ đạo tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ giai cấp phong kiến” chia ruộng đất
cho dân cày. Song Đảng vẫn khẳng định tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn
không đổi “tính chất của cách mạng Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân
quyền”, là “cuộc cách mạng gồm có hai tính chất: phản đế và thổ địa ấy gọi là cách
mạng tư sản dân quyền”. Xác định đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng đầu song
không có nghĩa Đảng bỏ không làm nhiệm vụ điền địa, “không phải giai cấp vô sản
Đông Dương bỏ mất nhiệm vụ điền địa đi đâu, cũng không phải đi lùi lại một bước,
mà chỉ bước một bước ngắn hơn để có sức mà bước một bước dài hơn” 1. Vì quyền
Sđd, Tập 6, tr. 538 - 539
Sđd, Tập 6, tr. 555.
1
Sđd, Tập 6, tr. 542.
2
3
14
lợi của bộ phận, của giai cấp trong lúc này phải đặt dưới quyền lợi của toàn thể dân
tộc, quyền lợi của nông dân và thợ thuyền phải đặt dưới quyền lợi giải phóng dân
tộc của toàn thể nhân dân. Về cách mạng điền địa (chống phong kiến) trong lúc này
Đảng chủ trương chỉ làm một bước, chỉ đánh một bộ phận phong kiến địa chủ phản
động nhất đi theo đế quốc chống lại quyền lợi dân tộc, chống lại nguyện vọng giải
phóng của toàn thể nhân dân.
Để thực hiện một bước nhiệm vụ điền địa, Đảng ta đã xác định khẩu hiệu
đấu tranh lúc này là: “chống bọn ăn cướp đất...chống địa tô cao, chống vay nặng
lời...”2. Chính sách ruộng đất của Đảng lúc này là “tịch kỳ và quốc hữu hoá
ruộng đất của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất của bọn
phản bội, bọn cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nông dân
cày cấy”3. Chính sách điền địa và khẩu hiệu đấu tranh của Đảng vừa thực hiện
làm trung lập phân hoá kẻ thù, lôi kéo bộ phận lớn địa chủ phong kiến có tinh
thần dân tộc đi theo cách mạng, làm cô lập đế quốc thực dân và tay sai phản
động. Vừa cổ vũ động viên, bồi dưỡng tinh thần cách mạng của đông đảo nông
dân hăng hái cùng giai cấp công nhân làm nòng cốt phong trào chống đế quốc
giải phóng dân tộc. Chính sách điền địa của Đảng đã góp phần tập trung lực
lượng, nhằm đánh đúng kẻ thù chính của cách mạng. Vì theo Đảng ta: “Trong
lúc này kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc chủ nghĩa Pháp,
Nhật. Kẻ thù phụ là phong kiến bản xứ”. Lực lượng cách mạng là đông đảo quần
chúng nhân dân, trong đó “chủ lực cách mạng là giai cấp vô sản; sức dự trữ trực
tiếp của cách mạng là: Trung bần nông...và địa chủ phản đế”1.
Như vậy, chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
đánh đế quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng là hoàn toàn đúng
với thực tiễn kẻ thù của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đúng yêu cầu giải
Sđd, Tập 6, tr. 534.
Sđd, Tập 7, tr. 76.
1
Sđd, Tập 7, tr. 76.
2
3
15
quyết mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu nhất của xã hội Việt Nam:giữa toàn thể dân
tộc Việt Nam với đế quốc tay sai; phù hợp với nguyện vọng bức thiết của
đông đảo quần chúng nhân dân.
Thực hiện sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt nhiệm vụ chống đế
quốc tay sai,giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu cách mạng
ruộng đất; được thể hiện qua ba Hội nghị Trung ương 6,7 & 8(1939-1941).
Đảng đã chỉ đạo thực hiện đúng đắn và giành thắng lợi:
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (05/1941) khẳng định: nhiệm
vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Hội nghị xác định:
hình thái khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần, tiến lên tổng
khởi nghĩa và kết luận: Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân; xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền;
đặc biệt Hội nghị nhấn mạnh: muốn giành chính quyền, thì một điều quan
trọng là phải đoàn kết toàn dân, toàn dân tham gia Mặt trận Việt Minh.
Cuối tháng 10/1941, Mặt trận Việt Minh công bố Tuyên ngôn, Chương
trình và Điều lệ. Từ cuối năm 1941 đến 1942 các hội: Công nhân cứu quốc,
Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc...đã được thành
lập nhiều nơi trên cả nước. Để chỉ đạo tiến tới chuẩn bị khởi nghĩa, cuối tháng
2/1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La, Đông Anh, Phúc
Yên. Hội nghị chủ trương mở rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc thống nhất, tranh
thủ hết thảy mọi lực lượng, huy động mọi khả năng để chống phát xít Nhật Pháp. Chủ trương này của Đảng thể hiện tư tưởng tập trung phát huy sức
mạnh tổng hợp, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết; tranh thủ mọi lực
lượng có thể tranh thủ, hướng vào mục tiêu tối cao trước mắt là: giành độc lập
dân tộc!
Trên cơ sở cao trào cách mạng quần chúng phát triển, từ hai căn cứ địa
trung tâm là Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai, nhiều căn cứ địa liên hoàn đã
16
hình thành nối liền Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Hà Giang,
Bắc Giang, Vĩnh Yên. Nhiều đội du kích ra đời ở khắp các địa phương.
Đầu năm 1945, mâu thuẫn của hai kẻ thù Pháp - Nhật trở nên đỉnh điểm
ví như: “cái nhọt bọc ắt sẽ phải vỡ mủ”. Tối 09/03/1945 phát xít Nhật đảo
chính Pháp, thực dân Pháp đầu hàng hèn nhát. Ngay sau đó ngày 12/03/1945,
Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời ra chỉ thị lịch sử: “Nhật - Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta”. Đảng chủ trương phát động Cao trào kháng
Nhật cứu nước mạnh mẽ, làm tiền đề chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Thông qua Mặt trậnViệt Minh, Đảng tổ chức tuyên truyền, tổ chức bãi
công chính trị, tổ chức các đội tự vệ, thành lập Uỷ ban Nhân dân cách mạng ở
những vùng quân du kích hoạt động. Đặc biệt khi xảy ra nạn đói, Đảng đã kịp
thời đề ra khẩu hiệu: “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói” - Đáp ứng đúng
nguyện vọng của nhân dân, đã huy động được sức mạnh chính trị tinh thần và
kinh tế đời sống, thực sự là khẩu hiệu phát huy được sức mạnh vô địch của
quần chúng nhân dân, trở thành động lực to lớn của cao trào kháng Nhật cứu
nước, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.
Ngay trong những ngày tiền khởi nghĩa, có địa phương tuy chưa chính
thức giành được chính quyền về tay nhân dân, nhưng để động viên quần
chúng tham gia cách mạng; Mặt trận Việt Minh đã bước đầu thực hiện chính
sách ruộng đất đối với nông dân ở những nơi có điều kiện như: Khu giải
phóng Việt Bắc; Việt Minh đã tịch thu ruộng đất bọn đế quốc tay sai chia cho
nông dân không có ruộng. Chủ trương giảm một phần địa tô mà địa chủ
thường bắt nông dân nộp trước đây được thực hiện ở nhiều nơi,đã góp phần
động viên hiệu quả các tầng lớp nhân dân.
Cao trào kháng Nhật cứu nước, phát triển lên đỉnh cao khi phát xít Nhật
đầu hàng quân Đồng Minh. Từ ngày 13 đến 18/08/1945 Hội nghị toàn quốc
của Đảng họp ở Tân Trào; Hội nghị nhận định: điều kiện khởi nghĩa đã chín
17
muồi. Đảng chủ trương đã phát động Tổng khởi nghĩa trước khi quân Đồng
Minh kéo vào Đông Dương - Đây là sự thể hiện tinh thần nhạy bén, linh hoạt,
sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc chuẩn bị thời cơ, nắm
bắt thời cơ, chớp thời cơ trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng. Đêm
13/08/1945 Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc phát lệnh: Tổng khởi nghĩa. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, hơn hai mươi triệu nhân dân, đã nhất tề đứng lên giành
chính quyền thắng lợi trong cả nước, chỉ với thời gian trong vòng hơn hai
tuần lễ-Đây là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để, ít tổn thất; thực sự mẫu
mực hiếm có trong cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.
Ngày 02/09/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước công nông đầu
tiên ở Đông Nam Á. Đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng nước
ta. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám có nhiều nguyên nhân nhưng trong
đó trước hết và trực tiếp là chủ trương kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế
quốc và chống phong kiến; nêu cao nhiệm vụ chống đế quốc tay sai giải
phóng dân tộc lên hàng đầu trong thời kỳ 1939 - 1945 của Đảng.
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong thời kỳ 1939 - 1945 của Đảng
không chỉ đúng với thực tiễn tình hình cách mạng thế giới, thực tiễn Việt
Nam mà đó cũng là thể hiện sự trung thành và vận dụng sáng tạo lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Trước hết, ta thấy chủ trương của Đảng phù hợp với lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin về sứ mệnh của giai cấp vô sản, giai cấp vô sản có sứ mệnh lật
đổ giai cấp tư sản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới. Giai
cấp vô sản phải tự giải phóng mình đồng thời giải phóng toàn thể nhân dân
lao động khỏi áp bức bóc lột và muốn vậy trước hết giái cấp vô sản ở mỗi
18
nước phải giải phóng được cho nhân dân lao động, giải phóng được dân tộc
mình; “phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc”. Bởi vậy, khi tình thế cách
mạng xuất hiện, giai cấp vô sản Việt Nam phải có chủ trương đúng nhằm mục
tiêu trước mắt là giải phóng đất nước, giành độc lập cho dân tộc.
Mặt khác, theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin: chính quyền là vấn đề
cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong lịch sử đấu tranh giai cấp, các giai cấp
kế tiếp nhau giành lấy chính quyền “toà lâu đài đồ sộ của kẻ chiến thắng”.
Bởi vậy, khi thời cơ đến, giai cấp vô sản Việt Nam không có cách nào khác
để tiếp tục đảm đương sứ mệnh của mình đối với dân tộc Việt Nam là phải
nắm thời cơ, tập hợp đông đảo lực lượng toàn dân tộc xung quanh mình tạo
sức mạnh tổng hợp -sức mạnh bạo lực của quần chúng cách mạng, giành
chính quyền về tay nhân dân, làm cơ sở nền tảng cho việc xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp.
Chủ trương đặt nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu,
đánh phong kiến phục vụ cho nhiệm vụ đánh đế quốc của Đảng thời kỳ này
cũng đúng với quy luật thắng từng bước của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ
trương của Đảng thể hiện sự kiên định thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng tư sản dân quyền, song thực tiễn đòi hỏi phải tập trung thực hiện
nhiệm vụ đánh đế quốc, giải phóng dân tộc, còn nhiệm vụ chống phong kiến
làm từng bước nhằm phục vụ nhiệm vụ chống đế quốc và làm cơ sở thực hiện
triệt để nhiệm vụ giải phóng nhân dân lao động ở giai đoạn sau:
Tóm lại: Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
đánh đế quốc lên hàng đầu trong thời kỳ 1939 - 1945 của Đảng thể hiện tính
cách mạng, khoa học cao vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng Việt Nam
lúc này, vừa là sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn các cao trào cách mạng dưới
sự lãnh đạo của Đảng, vừa thể hiện sự trung thành và khả năng vận dụng sáng
19
tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng mỗi thời kỳ của
Đảng ta.
Trên cơ sở chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng với nội
dung cốt lõi “đặt nhiệm vụ đánh đế quốc lên hàng đầu”, Đảng đã từng bước
chỉ đạo toàn dân thực hiện thắng lợi chủ trương đường lối đã xác định. Bằng
sự chỉ đạo linh hoạt sáng tạo, từ việc xác định nhiệm vụ chống đế quốc là
nhiệm vụ hàng đầu song Đảng không chỉ dừng lại ở việc chống đế quốc
chung chung, mà kẻ thù đế quốc lại được Đảng chỉ rõ tính chất nguy hiểm của
từng tên đế quốc trong từng giai đoạn. Nếu năm 1939 Đảng xác định kẻ thù
chính là đế quốc Pháp thì đến 9/1940 khi Nhật nhảy vào Đông Dương, Đảng
ta đã chỉ rõ kẻ thù cần chống là Pháp - Nhật. Nhật vào, với âm mưu độc
chiếm Đông Dương từng bước tước quyền đối với Pháp, thì Đảng lại xác định
kẻ thù là Nhật - Pháp. Khi Nhật thực hiện đảo chính hất cẳng Pháp (9/3/1945)
thì Đảng đã nhanh chóng chỉ rõ kẻ thù trực tiếp duy nhất cần tập trung đánh
đổ là phát xít Nhật. Phải nhanh chóng phát động toàn dân đứng lên giành
chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Nhờ chủ trương đúng đắn, nhờ sự chỉ đạo linh hoạt, tài giỏi của Đảng,
cách mạng Tháng 8/1945 đã nhanh chóng thành công. Đây là một kết quả tất
yếu, một thành quả vĩ đại của toàn Đảng toàn dân tộc đã bền bỉ đấu tranh,
không ngại hy sinh gian khổ. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám là thực
tiễn hùng hồn nhất chứng minh tính đúng đắn sáng tạo của đường lối cách
mạng của Đảng nói chung và chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
thời kỳ 1939 - 1945 nói riêng.
Chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ đánh đế
quốc là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu không chỉ có ý nghĩa to lớn quyết định
thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, mà nó còn có ý nghĩa quan
trọng, là kinh nghiệm quý báu làm cơ sở xác định đường lối chủ trương của
20
Đảng trong giai đoạn tiếp theo. Là luận cứ khoa học cho Đại hội lần thứ II của
Đảng (02/1951) bổ xung, phát triển và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân
tộc,dân chủ nhân dân. Trên cơ sở kiên định mục tiêu nắm bắt tình hình để
phát triển đường lối phù hợp từng giai đoạn; coi trọng mục tiêu chiến lược,
đấu tranh với mọi biểu hiện đi chệch hướng mục tiêu cách mạng, song trong
từng thời kỳ cách mạng phải có biện pháp chỉ đạo linh hoạt sáng suốt phù hợp
từng hoàn cảnh mỗi thời kỳ. Bài học quý về giải quyết mối quan hệ giữa hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng thời kỳ 1939 - 1945 được Đảng ta tiếp
tục phát triển trong kháng chiến chống Pháp với việc giải quyết đúng mối
quan hệ giữa hai nhiệm vụ đánh đế quốc và phong kiến, tập trung cho yêu cầu
chống Pháp xâm lược, đồng thời Đảng vẫn tiến hành từng bước nhiệm vụ
điền địa như chủ trương giảm tô, giảm tức, thực hiện cải cách ruộng đất trong
kháng chiến (1953) thắng lợi, tạo sức cổ vũ hết sức mạnh mẽ cho kháng chiến
chống Pháp thắng lợi. Trong thời kỳ 1954 - 1975, mối quan hệ đó được phát
triển biểu hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai
miền: Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Miền Nam tiếp tục
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo sức mạnh tổng hợp cả trong nước và
thế giới, sức mạnh dân tộc và thời đại để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.
Ngày nay, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới hoà bình xây
dựng đất nước. Chúng ta càng cần kiên trì khẳng định con đường chủ nghĩa
xã hội mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, phải giải quyết đúng mối quan hệ chặt
chẽ giữa hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, với tinh thần: trong khi
không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, phải đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng và bảo vệ đất nước phải biết
lựa chọn đúng những khâu trọng tâm đột phá, lựa chọn hình thức, bước đi và
cách làm phù hợp nhằm mục tiêu ổn định và phát triển đất nước bền vững vì
21
sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kiên
quyết đấu tranh chống lại mọi quan điểm tư tưởng muốn phủ nhận vai trò của
Đảng, phủ nhận thành quả và công lao vĩ đại của Đảng trong cách mạng
Tháng Tám, phủ nhận chủ trương đúng và sự chỉ đạo sắc bén của Đảng trong
thời kỳ 1939 - 1945 cũng như mọi sự xuyên tạc đường lối của Đảng trong giai
đoạn hiện nay. Nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối đổi mới đúng đắn, sáng
tạo của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.