Câu 1: Phân tích vai trị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đối với sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam (ngày 03/02/1930) là một tất yếu khách
quan, bắt nguồn từ thực tiễn cuộc đấu tranh của nhân dân chống sự nô dịch đế
quốc, được soi rọi dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với quy
luật vận động của cách mạng thế giới và sự nghiệp cách mạng nước ta. Đảng ra
đời đã đáp ứng những yêu cầu khách quan, thiết yếu và cấp bách của dân tộc là
độc lập, tự do và phát triển. Đảng thành lập là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó
có vai trị to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người thực hiện sứ mệnh lịch sử
sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam, với những sáng tạo lý luận xuất sắc. Từ
đây, cách mạng Việt Nam có một đảng cách mạng chân chính dẫn đường cho
tồn dân đứng lên đánh đổ ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến đem lại
độc lập cho dân tộc, ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Vai trò của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự ra đời của Đảng ta được thể
hiện:
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn
cho dân tộc ta.
Từ cuối thế kỷ XIX, do sự bất lực của triều đình nhà Nguyễn, Việt Nam
từ một quốc gia độc lập, thống nhất có chủ quyền bị thực dân Pháp xâm lược
và biến thành thuộc địa. Chế độ cai trị độc tài và chuyên chế đã làm cho xã hội
Việt Nam biến đổi toàn diện, mạnh mẽ, với sự lệ thuộc, lạc hậu của xã hội và
sự bần cùng của đại đa số dân cư. Với truyền thống yêu nước và tinh thần quật
cường dân tộc, ngay khi đất nước đối đầu với họa ngoại xâm, khi triều Nguyễn
ngày càng lún sâu vào vũng bùn đầu hàng, từ bỏ chủ quyền quốc gia cho thực
dân Pháp, nhiều phong trào yêu nước đã diễn ra. Mục tiêu chung là bảo vệ,
khôi phục nền độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất quốc gia, chấn
hưng đất nước, tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi
nghĩa Hương Khê, phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế trong hệ tư
tưởng phong kiến cuối thế kỷ XIX, qua các phong trào Đông Du, Đông Kinh
nghĩa thục, Duy Tân theo xu hướng dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX, phong trào
chống thuế ở Trung Kỳ… Tuy nhiên, các phong trào yêu nước đó đều đi đến
thất bại.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thất bại của các phong trào yêu nước,
song nguyên nhân chính là thiếu lực lượng lãnh đạo, chưa có hệ tương tưởng
khoa học dẫn đường, chưa có lý luận và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng
tạo và nhất là chưa có một tổ chức lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự thất bại của các phong trào yêu nước thể hiện
sự khủng hoảng, bế tắc của các phương cách cứu nước truyền thống Việt Nam
trước sự chuyển biến của thời cuộc. Song sự thất bại đó khơng hề vơ ích, nó là
động lực thơi thúc ý chí vươn lên sáng tạo của con người Việt Nam, đồng thời
đặt ra yêu cầu cấp bách phải có một ánh sáng mới soi đường, dẫn dắt.
Trong bối cảnh lịch sử đó, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với lịng u
nước, thương dân sâu sắc, lại sớm được tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của
nhân loại về “tự do, bình đẳng, bắc ái” được truyền đến Việt Nam, với tầm
nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu
nước, cứu đồng bào ở Người. Người nhận thấy những bất cập và bế tắc của
con đường cứu nước của thế hệ cha anh đang tiến hành và yêu cầu bức bách
đối với dân tộc là phải tìm kiếm con đường cách mạng mới và Người đã đảm
đương trọng trách đó.
Trải qua gần 10 năm nghiên cứu, khảo nghiệm, học tập, tìm tịi, hoạt động
khơng ngừng ở nhiều quốc gia, ở hầu khắp các châu lục. Tháng 7/1920, lần
đầu tiên Người đọc: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc
và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo Nhân Đạo (L’Humanite), số ra
ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương lập tức thu hút sự chú ý đặc biệt của Nguyễn
Ái Quốc. Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng đất nước khỏi
ách thực dân, cứu dân cứu nước là theo con đường cách mạng vơ sản, con
đường có mục đích cao cả là giải phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con
người. Sau này Người viết: “Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên.
Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng
đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đày đọa và đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng
ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta!
Từ đó tơi hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”
Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên, nghiên cứu, tổng
kết, tìm ra bản chất của các học thuyết, các cuộc cách mạng trên thế giới, chắt
lọc, vận dụng và phát triển cho phù hợp với dân tộc mình. Năm 1927, trong tác
phẩm Đường Kách mệnh, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ
nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất
là chủ nghĩa Lênin” . Cũng trong tác phẩm đó, Người đã thấy sự cần thiết phải
có Đảng để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đặt vấn đề cách mệnh trước
hết phải có cái gì? Người chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh” và
“Đảng có vững cách mệnh thì mới thành cơng, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt... Đảng
mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn
chỉ nam” .
Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức sâu sắc sự gắn bó mật thiết giữa giải
phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Và Người cũng sớm nhận thức rõ, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa dân
tộc chân chính là một động lực lớn của cách mạng và đã kết hợp tài tình chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin – học thuyết cách mạng tiên tiến
nhất của thời đại. Người nhận thức, chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước mới có thể xây dựng được một
Đảng cách mạng chân chính đảm bảo cho cách mạng phát triển đúng hướng và
đi đến thắng lợi.
Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
nước và chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
Bằng nhiều hoạt động, trong giai đoạn 1921 - 1929, lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng:
Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong
nước. Nguyễn Ái Quốc đã phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu
nước đúng đắn của cách mạng Việt Nam, thể hiện tập trung trong những bài
giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Năm 1927, những bài giảng của người
trong các lớp huấn luyện được in thành sách lấy tên là Đường Kách mệnh. Tác
phẩm chỉ ra vấn đề then chốt có tác dụng lớn khơng chỉ đối với Việt Nam, mà
còn đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa
Phương Đơng. Những vấn đề đó là: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng,
chủ yếu là công nông, vì vậy phải tổ chức quần chúng lại; cách mạng muốn
thành cơng phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo; phải có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng; cách mạng giải phóng dân tộc phải liên hệ chặt chẽ với
cách mạng vô sản thế giới…
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai
cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác - Lênin từng bước chiếm ưu thế trong
đời sống xã hội, làm chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước xích dần đến
lập trường của giai cấp công nhân. Nội dung truyền bá là những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hóa cho phù hợp với trình độ của
các giai tầng trong xã hội. Những bài viết, bài giảng với lời văn giản dị, nội
dung thiết thực đã nhanh chóng được truyền thụ đến quần chúng. Đồng thời,
Người đã vạch trần bản chất xấu xa, tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân
thuộc địa, nhân dân Việt Nam. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người tố
cáo thực dân Pháp đã bắt dân bản xứ phải đóng "thuế máu" cho chính quốc... để
"phơi thây trên chiến trường châu Âu"; "đày đọa" phụ nữ, trẻ em thuộc địa; các
thống sứ, quan lại thực dân "độc ác như một bầy thú dữ" v.v... Tác phẩm đã
"hướng các dân tộc bị áp bức" đi theo con đường cách mạng Tháng Mười Nga,
tiêu diệt "hai cái vòi của con đỉa đế quốc" – một "vịi" bám vào giai cấp vơ sản ở
chính quốc, một "vòi" bám vào nhân dân thuộc địa và đề ra cho dân Việt Nam
con đường cách mạng vô sản theo chủ nghĩa Mác – Lênin.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc đã dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự
ra đời của chính đảng vơ sản của giai cấp cơng nhân Việt Nam. Đó là huấn
luyện, đào tạo cán bộ, từ các lớp huấn luyện do Người tiến hành ở Quảng Châu
(Trung Quốc) để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí. Hội
Việt Nam cách mạng thanh niên đã giúp cho những người Việt Nam yêu nước
xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của Người,
phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Người trong chuẩn bị về mặt tổ
chức cho Đảng ra đời.
Trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong
nước, cùng với phong trào "vô sản hố" đã làm chuyển biến phong trào cơng
nhân, giác ngộ họ và tổ chức họ đấu tranh cách mạng một cách tự giác. Thơng
qua phong trào “vơ sản hố”, lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong
thực tiễn, giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng,
lợi ích của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, thúc đẩy phong trào công
nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của các tổ
chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi và hợp qui luật cho
sự ra đời của Đảng.
Có thể thấy rằng, sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho
việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam vào những ngày đầu năm 1930 là những
đóng góp to lớn, vững chắc và là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam của Nguyễn
Ái Quốc - Người thanh niên yêu nước chân chính, tài ba, lỗi lạc.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan), mặc dù
chưa nhận được chỉ thị của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. Song với sự nhạy bén về chính trị, sự chủ động
cao, thực hiện trọng trách lịch sử đối với dân tộc, với vai trò, trách nhiệm trong
Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất,
thực hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Từ
ngày 06/01/1930 đến ngày 07/02/1930, tại Cửu Long – Hồng Công (Trung
Quốc), Hội nghị hợp nhất đã được tiến hành dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc. Tham dự Hội nghị có các đại biểu của Đơng Dương Cộng sản Đảng (2
đại biểu) và An Nam Cộng sản Đảng (2 đại biểu) và 2 đại biểu hải ngoại (Hồ
Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn). Cịn Đơng Dương Cộng sản Liên đồn đã thành
lập, song chưa có liên hệ, nên chưa được triệu tập đại biểu đến dự (và ngày
24/02/1930, tổ chức này được hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam). Với sự
nhất trí cao, Hội nghị đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và thông
qua Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Điều lệ vắn
tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo. Các văn kiện đã trở thành Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo, đã thể
hiện rõ con đường giải phóng và phát triển của dân tộc Việt Nam là “làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng” (tức cách mạng dân tộc dân
chủ), “thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng” để đi tới xã
hội cộng sản” . Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách
mạng, tức cách mạng dân tộc, dân chủ, trong đó giành hết độc lập dân tộc
được đặt ở vị trí trên hết. Ở Việt Nam, trước hết phải làm “dân tộc cách
mệnh”, tức trước hết phải đánh đổ sự cai trị, nô dịch dân tộc của chủ nghĩa đế
quốc, giành lại quyền bình đẳng dân tộc, tự do cho dân nước mình: “dân tộc
cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền” . Có thể thấy, trong Chánh cương vắn tắt, Hồ Chí
Minh đã thực hiện 3 cuộc giải phóng cách mạng vô sản ở một nước thuộc địa
như nước ta là: giải phóng dân tộc phải tiến hành trước tiên, tạo tiền đề giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Nói một cách khác giải phóng, giành độc
lập dân tộc là bước đi đầu tiên của cuộc cách mạng vô sản ở nước thuộc địa, ở
Việt Nam. Đây là một luận điểm cơ bản, chính yếu trong Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng. Đây cũng là một đóng góp đặc sắc, bổ sung phát triển chủ
nghĩa Mác –Lênin trên phương diện lý luận về các mơ hình vận động, phát
triển của cuộc cách mạng vô sản.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử, có vai trị to lớn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện những nỗ lực hoạt động nhận thức, phát triển lý
luận cách mạng gắn liền với hoạt động thực tiễn không mệt mỏi của Người, đặc
biệt là ở những luận điểm cách mạng độc đáo và sáng tạo, xác lập. Nói cách
khác, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào cơng nhân và phong trào
yêu nước.
Câu 2 :
Nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên 2/1930:
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
Về chính trị: đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn
phong kiến; làm cho nước Việt Nam được hồn tồn độc lập; lập
chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu tồn
bộ sản nghiệp lớn (như cơng nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.)
của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ cơng
nơng binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc
chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế
cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi
hành luật ngày làm tám giờ.
Về văn hoá - xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam
nữ bình quyền, …; phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hoá.
Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được
đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm
thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; làm
cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã)
khỏi ở dưới quyền lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia;
phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, Thanh
niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp; đối với
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt
phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng
trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng
lập hiến v.v.) thì đánh đổ.
Về lãnh đạo cách mạng :Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh
đạo cách mạng Việt Nam .
Về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng
thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới.
Nội dung luận cương chính trị 10/1930 của Đảng.
Tháng 4/1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, Trần Phú
được Quốc tế Cộng sản cử về nước hoạt động. Tháng 7/1930,
Trần Phú được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930, Ban Chấp hành Trung ương
họp lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) do Trần Phú chủ
trì. Hội nghị đã thơng qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ
cần kíp của Đảng; thảo luận Luận cương chánh trị của Đảng,
Điều lệ Đảng và điều lệ các tổ chức quần chúng. Thực hiện chỉ
thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị quyết định đổi tên Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương. Hội nghị
cử Ban chấp hành Trung ương chính thức và cử Trần Phú làm
Tổng Bí thư.
Nội dung của Luận cương
Luận cương chính trị đã phân tích đặc điểm, tình hình xã
hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề cơ bản
của cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương do giai cấp
công nhân lãnh đạo.
Mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ
thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ
phong kiến và tư bản đế quốc.
Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông
Dương: Luận cương chỉ rõ: “Tư sản dân quyền cách mạng là
thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”, sau khi cách mạng tư
sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ
tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Đánh đổ
phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hồn tồn độc
lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khắng khít với nhau,
vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ,
để tiến hành cách mạng thổ địa thắng lợi, và có phá tan được
chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa.
Trong hai nhiệm vụ này, Luận cương xác định: “Vấn đề thổ địa
là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” và là cơ sở để Đảng
giành quyền lãnh đạo dân cày.
Về lực lượng cách mạng: Giai cấp vơ sản vừa là động lực
chính của cách mạng tư sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh
đạo cách mạng. Dân cày là lực lượng đông đảo nhất và là động
lực mạnh của cách mạng. Tư sản thương nghiệp thì đứng về
phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, cịn tư sản cơng
nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng
phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản,
bộ phận thủ cơng nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản
thương gia thì khơng tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức
thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham
gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu. Chỉ có các phần tử lao khổ
ở đơ thị như những người bán hàng rong, thợ thủ cơng nhỏ, trí
thức thất nghiệp thì mới đi theo cách mạng mà thơi.
Về phương pháp cách mạng: Để đạt được mục tiêu cơ
bản của cuộc cách mạng là đánh đổ để quốc và phong kiến,
giành chính quyền về tay cơng nơng thì phải ra sức chuẩn bị
cho quần chúng về con đường “võ trang bạo động”. Võ trang
bạo động để giành chính quyền là một nghệ thuật, “phải tuân
theo khuôn phép nhà binh”.
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ
phận của cách mạng vơ sản thế giới, vì thế giai cấp vơ sản
Đơng Dương phải đồn kết gắn bó với giai cấp vô sản thế giới,
trước hết là vô sản Pháp, và phải mật thiết liên lạc với phong
trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa nhằm
mở rộng và tăng cường lực lượng cho cuộc đấu tranh cách
mạng ở Đơng Dương.
Về vai trị lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản là điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng.
Đảng phải có đường lối chính trị đúng đắn, có kỷ luật tập trung,
liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng là đội tiên phong của
giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư
tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông
Dương, đấu tranh để đạt được mục đích cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản.
So sánh sự giống và khác nhau
*giống nhau:
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (3/2/1930) và luận
cương chính trị (10/1930) có những điểm giống nhau sau:
1)cả 2 văn kiện đều xác định được tích chất của cách mạng
VN(Đơng Dương) là : CM tư sản dân quỳên và cách mạng xã hội
chủ nghĩa , đây là 2 nhiệm vụ cách mạng nối tiếp nhau khơng
có bức tường ngăn cách
2) đều xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam ( Đông
Dương) là độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày
3)Khẳng định lực lượng lãnh đạo cm Việt Nam là đảng cộng
sản , đảng lấy chủ nghĩa Mac-Lenin làm nền tảng mà đội quân
tiên phong là giai cấp công nhân
4)khẳng định cách mạng Việt Nam (Đông Dương) là 1 bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới, giai cấp vơ sản Việt Nam
phải đồn kết với vơ sản thế giới nhất là vơ sản Pháp
5)xác định vai trị và sức mạnh của giai cấp công nhân
Như vậy sở dĩ có sự giơng nhau đó là do cả 2 văn kiện đều thấm
nhuần chủ nghĩa Mac-lenin và cách mạng vô sản chiụ ảnh
hưởng của cách mạng tháng 10 Nga
*Khác nhau:
tuy cvả 2 căn kiện trên có những điểm giơng nhau nhưngvẫn
có nhiều điểm khác nhau cơ bản :Cưong lĩch chính trị xây dựng
đường lỗi của cách mạng Việt Nam còn Luận cương rộng hơn
(Đông Dương) cụ thể :
1)xác định kẻ thù& nhiệm vụ , mục tiêu của cách mạng :
_trong cương lĩnh chính trị xác định kẻ thù, nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam là đánh đổ đế quốc và bọn phong kiến tư sản
,tay sai phản cách mạng (nhiệm vụ dân tộc và dân chủ) . Nhiệm
vụ dân tộc đựôc coi là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ,
nhiệm vụ dân chủ cũng dựa vào vấn đề dân tộc để giải quyết
.Như vậy mục tiêu của cưong lĩnh xác định: làm cho Việt Nam
hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, dân chủ , bình
đẳng,tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân
cày nghèo,thành lập chính phủ cơng nơng binh và tổ chức cho
quan đội cơng nơng,thi hành chính sách tự do dân chủ bình
đẳng cịn trong Luận cương chính trị thì xác định: Đánh đổ
phong kiến đế quốc để làm cho Đơng Dương hồn toàn độc
lập.đua lại ruộng đất cho dân cày,nhiệm vụ dân chủ và dân tộc
được tiến hành cùng 1 lúc có quan hệ khăng khít với nhau.Vịêc
xác định nhiệm vụ như vậy của Luận cương đã đáp ứng những
yêu cầu khácg quan đồng thưòi giải quyết 2 mâu thuẫn cơ bản
trong xã hội VN lúc đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai
cấp đang ngày càng sâu sắc.Tuy nhiên luận cương chưa xác
định được kẻ thù ,nhiệm vụ hàng đầu ở 1 nướcthuộc địa nửa
phong kiến.Như vậy Mục tiêu của luận cương hướng tới giải
quyết đựợc quyền lợi của giai cấp cơng nhân Vn chứ khơng phải
là tồn bộ giai cấp trong xã hội
lực lượng cách mạng :trong Cương lĩnh chính trị xác định lực
lượng cách mạng là giai cấp cơng nhân cà nơng dân nhưng bên
cạnh đó cũng phải liên minh đoàn kết với tiểu tư sản, lợi dụng
hoặc trung lập Phú nông trung tiểu địa chủ ,tư sản dân tộc chưa
ramặt phản cách mạng, Như vậy ngoài việc xác định lực lượng
nòng cốt của cách mạng là giai cấp cơng nhân thì cương lĩnh
cũng phát huy được sức mạnh của cả khối đoàn kết dân tộc,
hướng vào nhiệm vụ hàng đầu là giải phóng dân tộc
cịn trong luận cương thì xác định động lực của cách mạng là
công nhân – nông dân , chưa phát huy được khối đoàn kết
dântộc,phát huy sức mạnh của tư sản,tiểu tư sản,trung tiểu
địachủ
>>>>tóm lại luận cương chính trị đã thể hiện là 1 văn kiện tiếp
thu được những quan điểm chủ yếu của chính cương vắn tắt
.sách lược vắn tắt, điều lệ tóm tắt xác định được nhiệm vụ nịng
cốt của cách mạng.Tuy nhiên luận cương cũng cso những mặt
hạn chế nhất định:sử sụng 1 cách dập khuân máy móc chủ
nghĩa Maclenin vào cách mạng Việt Nam ,còn quá nhấn mạnh
đấu tranh giai cấp,đánh giá khong đúng khả năng cách
mạngcủa tiểu tư sản, tư sản>địa chủ yêu nước,chưa xác định
nhiệm vụ hành đầu của 1 nước thuộc địa nửa phong kiến là giải
phóng dân tộc
cịn cương lĩnh tuy cịn sơ lược vắn tắt nhưng nhưng nó đã vạch
ra phương hương cơ bản của cách mạng nước ta, phát triển từ
cách mạng giải phóng dân tộc >> cách mạng xã hội chủ
nghĩa .Cương lĩnh thể hiện sự vận dụng đúng đắn sáng tạo nhạy
bén chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam ,
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc
tế vô sản ,giữa tư tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản và thực tiễn
cách mạng Việt Nam nó thể hiện sự thấm nhuần giữa quảng đại
giai cấp trong cách mạng./.
hạn chế của luận cương chính trị nói ngắn gọn là :
-\ khơng nhấn mạnh đc nhiệm vụ giải phóng dân tộc mà nặng
về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất
không đề ra đc 1 chiến lược liên minh giữa dân tộc và giai cấp
rộng rãi
chưa đánh giá đúng mức vai trò cách mạng của gc tiểu tư sản ,
phủ nhận mặt tích cực của bộ phận tư sản dân tộc
chưa nhận thấy đc khả năng phân hố và lơi kéo 1 bộ phận địa
chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải phóng dân tộc