Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.21 KB, 26 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA CHÍNH TRỊ LUẬT

TIỂU LUẬN MƠN
LỊCH SỬ ĐẢNG

ĐỀ TÀI
VĂN HỐ CĨ VAI TRÒ NHƯ THẾ NÀO ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HỐ
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI. LIÊN HỆ BẢN THÂN VỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC
VĂN HỐ DÂN TỘC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

GVHD: Nguyễn Thị Tươi
Nhóm thực hiện: Nhóm 6

TP. Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2022


DANH SÁCH NHÓM
STT
1

Họ và Tên
Lê Trần Kim Chi (NT)

2
3
4
5


Vương Nhã Vy
Nguyễn Thị Yến Oanh
Lê Nguyễn Thiên Hương

6

Lê Thị Hải Yến

7

Lê Thị Diễm

8
9

Trần Trúc Giang

Phan Thị Mỹ Linh

Nguyễn Thị Duyên Nhi

MSSV
Nhiệm vụ
2023200030 Phần mở đầu
2.2.1
2007202208 2.1
2007206329 1.2
2007202106 1.3
2023206031 2.2.2
Kết luận

2007202027 1.1.1
1.1.2
2007202053 2.3
2.1
2023200376 1.3
2023206207 2.2.2
2.3

Hoàn thành
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%
100%


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài: ......................................................................................................... 1

2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: ............................................................................. 1


3.

Đối tượng nghiên cứu: .................................................................................................. 2

4.

Phạm vi nghiên cứu: ..................................................................................................... 2

5.

Phương pháp nghiên cứu: ............................................................................................ 2

6.

Ý nghĩa của đề tài: ........................................................................................................ 2

PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................................... 3
1.

QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HỐ: .............................................................. 3
1.1

Khái niệm:............................................................................................................... 3

1.1.1

Văn hố: ............................................................................................................ 3

1.1.2


Nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc: .............................................................. 3

1.2

Đặc trưng của nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc: ......................................... 4

1.3

Vai trị của nền văn hố đối với xã hội: ................................................................ 6

1.3.1

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội: ........................................................ 6

1.3.2

Văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước:................................... 7

1.3.3

Văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước: ............................. 8

2. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HỐ
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI: ............................................................................................. 9
2.1 Đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hoá trong thời kì đổi
mới: 9
2.2 Quan điểm, mục tiêu của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hố trong
thời kì đổi mới:................................................................................................................ 12
2.2.1


Quan điển, mục tiêu của Đảng: ...................................................................... 12

2.2.2

Nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hoá: .................................................. 15

2.3

Liên hệ bản thân về giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc trong giai đoạn hiện nay:
................................................................................................................................ 19

PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................. 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................... 23


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện nay toàn Đảng toàn dân ta đang ra sức phát huy sức mạnh tồn dân tộc đây
mạnh q trình phát triền kinh tế đất nước, xây đựng và bảo vững vệ vững chắc tơ quốc
xã hội chủ nghĩa. Trong q trình này Đảng và nhà nước hết sức chú trọng xây dựng và
phát triên văn hóa, coi đó là nên tảng tỉnh thần là những yêu tố cơ bản đề phát triên xã
hội, để phát triển kinh tế mạnh và bền vững, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì
vẫn tồn tại rất nhiều những hạn chế và những vướng mắc trong việc đổi mới tư duy về
mơt nền văn hóa mới trong mơt xã hội mới hay nói cách khác đây là nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa.
Vấn đề văn hóa và phát triển xây dựng con người hiện nay và con người của thế
kỷ XXI trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đang là những vấn đề thời sự. Hiện
nay trong xã hội xuất hiện những trào lưu văn hóa khơng phù hợp, hay nói cách nhấn
mạnh đó là hiện tượng suy đồi về văn hóa vì vậy việc nhìn nhận lại, tăng vốn hiều biết
về văn hố là một vấn đề cấp thiết vì vậy cần có một cơ sở vững vàng để đi tới mục tiêu

xây dựng một nên văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc coi văn hóa là
động lực và mục tiêu của phát triên xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một
nhiệm vụ lớn của toàn Đảng toàn dân ta. Đặc biệt hơn nữa là vấn đề này được rất nhiều
người quan tâm tới và đặt vấn đề về nó. Chính vì điều này mà nhóm chọn đề tài: “Văn
hố có vai trị như thế nào đối với đời sống xã hội. Phân tích quan điểm của đảng về xây
dựng nền văn hố trong thời kì đổi mới. Liên hệ bản thân về giữ gìn bản sắc văn hố
dân tộc trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích: Nhằm bước đầu đặt ra những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu
một số yếu tố rất cơ bản là cơ sở khách quan bảo đảm cho sự phát triển vững chắc nền
văn hoá ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Nhiệm vụ: Là luận giải một cách khái quát về vai trò của dân tộc đối với xã hội
và quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hố trong thời kì đổi mới, làm căn cứ khoa
học để nhận biết, xây dựng và tiếp cận những yếu tố cụ thể tác động đến sự phát triển
nền văn hoá hiện nay.
1


3. Đối tượng nghiên cứu:
Những cơng trình đã làm rõ lịch sử hình thành, phát triển và đặc điểm của nền
văn hoá Việt Nam. Những vấn những vấn đề về thực hiện những chính sách văn hố của
Đảng nhằm xây dựng, phát triển nền văn hố trong thời kì đổi mới.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Dưới góc độ chính trị xã hội, việc nghiên cứu vấn đề văn chủ yếu là tìm ra những
vấn đề có tính quy luật của q trình xây dựng nền văn hố tromg thời kì đổi mới. Vai
trị của văn hố đối với xã hội và xây dựng nền văn hố trong thời kì đổi mới đều có
những cơ sở khách quan, những yếu tố để đảm bảo cho nó tồn tại, phát triển và vận động
theo những xu hướng nhất định có tính qui luật của nó.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu và thu thập tài liệu

về vai trị của văn hố đối với đời sống xã hội. Nghiên cứu, phân tích đường lối quan
điểm của Đảng về xây dựng văn hố trong thời kì mới.
6. Ý nghĩa của đề tài:
Ý nghĩa lý luận: Đổi mới trong quan điểm lý luận về lịch sử đảng và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, quan điểm lý luận về văn hoá và quan điểm của Đảng
trong xây dựng nền văn hoá trong thời kì đổi mới.
Ý nghĩa thực tiễn: Nâng cao ý thức về xây dựng nền văn hố trong thời kì đổi
mới và vai trị của văn hố đối với xã hội.

2


PHẦN NỘI DUNG
1. QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG VỀ VĂN HOÁ:
1.1 Khái niệm:
1.1.1 Văn hố:
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu
rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm
sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách
con người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp nối quan
điểm về văn hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra yêu cầu đa dạng hóa các
hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà truyền thống…
Nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, được xác lập trên
bốn phương diện cơ bản là: văn hóa lao động gắn với ý thức mình vì mọi người, mọi
người vì mình; văn hóa giao tiếp bình đẳng; văn hóa gia đình hạnh phúc; văn nghệ miêu
tả hiện thực xã hội chủ Nghĩa, nhằm mục tiêu là thoả mãn ngày càng đầy đủ không

những nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu văn hóa của tồn xã hội, là biến mọi giá trị văn
hóa thành tài sản của nhân dân và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo ra
mọi giá trị văn hóa,… từng bước xây dựng đất nước ta thành một xã hội văn hóa cao.
1.1.2 Nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc:
Nền văn hóa thể hiện tinh thần yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lí tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn
diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội
và tự nhiên. Nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường
dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ
quốc; lịng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong
3


lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giải dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc
cịn đậm nét trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Như vậy, bên cạnh bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc
tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ
gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề
thói cũ. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển đất
nước.
1.2 Đặc trưng của nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc:
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
là nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại có sự thống nhất hữu cơ giữa tính tiên
tiến và tính đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa khơng mâu thuẫn
với bản sắc văn hóa dân tộc, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua
lại và quy định lẫn nhau. Nền văn hóa tiên tiến trước hết là nền văn hóa yêu nước và tiến
bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở

của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người,
vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan
hệ hài hoà giữa tự nhiên với cá nhân và cộng đồng, giữa tự nhiên với xã hội.
Nền văn hóa tiến bộ là nền văn hóa thúc đẩy sự phát triển của đất nước dựa trên
tư tưởng cách mạng và khoa học dẫn đường. Đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nền văn hóa tiến bộ cũng là nền văn hóa thể hiện tinh thần nhân văn và
dân chủ sâu sắc. Tính nhân văn thể hiện ở ngay trong mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ xây
dựng nền văn hóa mà Đảng ta đã đề ra. Đây là nền văn hóa hướng tới đấu tranh, giải
phóng cho con người, trước hết là nhân dân lao động khỏi sự áp bức, bóc lột về phương
diện giai cấp, dân tộc và xã hội; phấn đấu để không ngừng nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân; tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng tạo, hưởng thụ nhiều
hơn những thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Tính dân chủ của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân chủ xã hội
chủ nghĩa, gắn liền với chế độ chính trị - xã hội tiến bộ “của dân, do dân và vì dân”. Nền
văn hóa này khai thác động lực dân chủ trong nhân dân, tạo điều kiện để phát huy tiềm
năng sáng tạo của cá nhân và cộng đồng, đề cao trách nhiệm của công dân trước nhân
dân, dân tộc và thời đại. Tính chất dân chủ của nền văn hóa thống nhất với việc đề cao
4


ý thức công dân, đề cao trật tự kỷ cương xã hội và thống nhất giữa quyền lợi, nghĩa vụ
và trách nhiệm của công dân trước pháp luật. Đồng thời phát huy dân chủ phải gắn liền
với việc nâng cao ý thức chính trị, đạo đức xã hội và trình độ dân trí, tạo điều kiện để
nhân dân tham gia xây dựng bộ máy nhà nước, chống lãng phí, tham nhũng, quan liêu
và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội. Phát huy dân chủ phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước, chống tư tưởng tự do vơ chính phủ,
tự do vơ kỷ luật.
Nền văn hóa tiên tiến phản ánh trình độ phát triển cao mang tính hiện đại, cập
nhật với thành tựu văn hóa chung của khu vực và cộng đồng quốc tế. Bên cạnh hệ tư
tưởng tiên tiến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các thành tố khác

của nền văn hóa Việt Nam cũng phải được hiện đại hóa. Cần phải phát triển giáo dục –
đào tạo, khoa học – công nghệ, nâng cao trình độ dân trí, khả năng chiếm lĩnh và sử
dụng những thành tựu của cuộc Cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại để thúc đẩy
quá trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Nền văn hóa mới phải tập trung xây
dựng những phẩm chất mới, xây dựng đạo đức, lối sống của con người Việt Nam hiện
đại ngang tầm với công cuộc đổi mới. Mặt khác, nền văn hóa Việt Nam phải tham gia
cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề đặt ra trong xu thế tồn cầu hóa, khẳng
định bản lĩnh và bản sắc dân tộc trong giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế.
Bản sắc văn hoá dân tộc là những yếu tố độc đáo, đặc sắc của một nền văn hóa,
biểu hiện “đặc tính dân tộc”, “cốt cách dân tộc”, tạo nên sức mạnh cố kết, duy trì và phát
triển đời sống của dân tộc, là bộ “gen” bảo tồn của dân tộc, là các giá trị đặc trưng tiêu
biểu phản ánh diện mạo, truyền thống, bản lĩnh, phẩm chất, tâm hồn, lối sống, cách cảm,
chách nghĩ, khát vọng và biểu tượng riêng của mỗi quốc gia, dân tộc;
Bản sắc văn hóa dân tộc là dấu hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa của dân tộc
này với dân tộc khác, quốc gia này với quốc gia khác. Bản sắc văn hóa dân tộc thể hiện
tập trung trong truyền thống văn hóa dân tộc. Truyền thống văn hóa là các giá trị do lịch
sử truyền lại, được các thế hệ sau kế thừa gìn giữ và phát huy trong thời đại của mình,
tạo nên dịng chảy liên tục của lịch sử văn hóa.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước. “Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,
5


tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; lịng
nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động,
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. Bản sắc văn hóa dân tộc là cơ sở để
liên kết xã hội và liên kết các thế hệ, tạo nên sức mạnh tinh thần của dân tộc. Vì vậy,
bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trở thành yêu cầu khách quan và là mục tiêu
của sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay.

1.3 Vai trị của nền văn hố đối với xã hội:
Về vai trị của văn hóa đối với sự phát triển bền vững, Đảng ta xác định: Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất
nước. Quan điểm này được thể hiện qua mấy nội dung cơ bản sau đây:
1.3.1 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội:
Quan diểm này một lần nữa khẳng định vai trị của văn hóa trong sự nghiệp cách
mạng của Đảng và dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa dân tộc là chăm lo nền
tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì khơng có sự
phát triển kinh tế - xã hội bền vững, Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, một
trong những mục tiêu quan trọng mà Đảng ta nhấn mạnh là: “xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh
thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”[2].
Do vậy, phát triển bền vững phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội cơng bằng,
dân chủ, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế, là sức
mạnh nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển
văn hóa cũng là một mục tiêu quan trọng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Các giá trị văn hóa tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và cả dân tộc. Các giá trị văn hóa được nối tiếp, trao truyền và phát
huy qua các thế hệ người Việt Nam, đó là tất ́u của dịng chảy lịch sử từ quá khứ đến
hiện tại và hướng đến tương lai, tương lai của những giá trị phổ quát Chân - Thiện - Mỹ.
6


Vì vậy, chúng ta làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để các
giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội.
Mặt khác, để phát triển văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc

của xã hội, chúng ta cần phải mở rộng giao lưu quốc tế và khu vực, tiếp thụ có chọn lọc
cái hay, cái tiến bộ trong tinh hoa văn hóa các dân tộc khác để làm giàu thêm cho nền
văn hóa dân tộc, tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, làm cho văn hóa Việt Nam bắt kịp sự phát triển của
văn hóa nhân loại trong thời đại ngày nay và chống lại cái đã trở nên lạc hậu, lỗi thời,
xa lạ với văn hóa.
Đảng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nghĩa là đề cao, coi trọng
nguồn lực văn hóa của sự phát triển bền vững đất nước. Hệ thống di sản văn hóa, các
giá trị văn hóa là “tài sản” vô giá, vô tận cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đó cịn là cơ
sở tinh thần cho sự ổn định xã hội và sự bền vững của chế độ ta.
1.3.2 Văn hóa là mục tiêu của phát triển bền vững đất nước:
Mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng
một xã hội “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” Đây cũng chính là
mục tiêu của văn hóa, nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất của văn hóa. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2020 xác định: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là
vì con người, do con người. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền
với tiến bộ và cơng bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”, ngày nay không
thể phát triển bằng mọi giá, nhất là chạy theo lợi nhuận tối đa, vì lợi ích hôm nay mà
làm tổn hại đến tương lai. C. Mác đã chỉ dẫn “Nếu canh tác được tiến hành một cách tự
phát mà không được hướng dẫn một cách có ý thức….thì sẽ để lại sau nó đất hoang”[3].
Điều đó có nghĩa là, muốn phát triển kinh tế một cách hiệu quả, bền vững, thì khơng thể
thiếu văn hóa, nên văn hóa chính là mục tiêu của sự phát triển, văn hóa cịn có vai trị
đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người và xây dựng xã
hội mới.
Bản chất của văn hóa là sáng tạo, đổi mới để vươn tới các giá trị phổ quát đó là
Chân - Thiện - mỹ, tạo nên tinh thần nhân văn cho con người, đem hạnh phúc đến cho
mỗi người. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta là thực hiện sự nghiệp vì nhân dân - con người. Nói đến văn hóa là mục tiêu của sự
7



phát triển kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là toàn bộ sự phát triển kinh tế - xã hội phải
hướng tới sự phát triển con người, phát triển xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân. Phải đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, là mục tiêu
của sự phát triển.
Từ đổi mới đến nay, Đảng ta nhất quán tạo lập nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó phải là nền kinh tế giải quyết hài hịa các mối quan hệ lợi ích giữa
cá nhân và xã hội, giữa kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, đảm bảo bền vững về môi
trường sinh thoái, tạo cơ sở nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Để đạt được điều đó
phải cần đến văn hóa, sự tham gia của văn hóa vào trong tổ chức và hoạt động của nền
kinh tế vì mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người, đó chính là vai trị của văn
hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa.
Văn hóa với tư cách là đời sống tinh thần xã hội, một mục tiêu đặc biệt quan
trọng, vì nó là nhu cầu phong phú, vơ cùng, vô tận, tinh tế của con người, nhu cầu tinh
thần còn là nhu cầu nhân văn và là cứu cánh của con người, văn hóa ấy vừa đáp ứng nhu
cầu của con người, xã hội tiến bộ, vừa thúc đẩy con người đạt được niềm tin, sự khác
vọng hạnh phúc.
1.3.3 Văn hóa là động lực của sự phát triển bền vững đất nước:
Thực tế cho thấy, khơng ít những quốc gia, dân tộc không giàu về tài nguyên
thiên nhiên, thậm chí cịn nghèo nàn và hạn hẹp nhưng lại giàu về kinh tế, kinh tế phát
triển, xã hội tiến bộ chính là nhờ coi trọng ́u tố văn hóa, con người, thơng qua việc
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mở đường cho sự phát triển.
Như vậy, nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một đất nước thấm sâu trong
văn hóa, con người. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, cái tốt, cái tiến
bộ nhưng không thể tách rời, bỏ qua cội nguồn, phát triển phải vựa trên cội nguồn, cội
nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa. kinh nghiệm qua hơn 30 năm sự nghiệp đổi mới
ở nước ta đã chứng minh rằng, ngay bản thân sự phát triển kinh tế cũng không chỉ do
các nhân tố thuần túy kinh tế tạo ra, mà động lực của sự đổi mới kinh tế đó một phần
quan trọng nằm trong văn hóa.
Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã tác động và làm thay

đổi quan niệm về phát triển kinh tế, phát triển bền vững, phát triển không đơn thuần chỉ
8


dựa vào điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mặt dù yếu tố này phong phú, đa
dạng nhưng đều có hạn và có thể bị khai thác cạn kiệt, mà dần dần chuyển sang yếu tố
quyết định cho sự phát triển chính là trí tuệ, tri thức, thơng tin, là sáng tạo và đổi mới
không ngừng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu
đa dạng của cá nhân và xã hội, đó tức là văn hóa, vai trị của văn hóa trong phát triển,
chỉ có sự tham gia của văn hóa mới đưa đến sự phát triển bền vững.
Ngày nay, nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Tiềm năng
sáng tạo này nằm trong văn hóa, trí tuệ, tâm hồn, đạo đức, nhân cách của mỗi cá nhân
và cộng đồng. Chỉ có nguồn lực này là vơ hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không
bao giờ cạn kiệt, các nguồn lực khác sẽ không được sự dụng có hiệu quả nếu khơng có
những con người đủ trí tuệ và năng lực khai khác chúng, thì các nguồn lực đó dù có
phong phú, đa dạng, thì cũng khơng thể tham gia và phát huy tác dụng vào trong phát
triển.
Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI của Đảng ta, một lần nữa khẳng
định và nhấn mạnh vai trị của văn hóa, con người Việt Nam là sức mạnh nội sinh, đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, để có được nguồn lực nội sinh như vậy cần
phải quan tâm đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sớm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam,
nền giáo dục đó “vừa phản ảnh sâu sắc chiết lý văn hóa, giáo dục Việt Nam, vừa phản
ánh xu thế phát triển của thời đại”. Qua đó tạo ra những con người mới, đạo đức mới
xã hội chủ nghĩa như Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ
giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân
cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ
công dân”[4]. Những tri thức, trí tuệ, tình cảm, đạo đức kết tinh, thấm sâu vào trong mọi
hoạt động của đời sống con người và xã hội càng tăng cao bao nhiêu thì sự phát triển

kinh tế - xã hội càng nhanh chóng và bền vững bấy nhiêu.
2. PHÂN TÍCH QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ
TRONG THỜI KÌ ĐỔI MỚI:
2.1 Đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hố trong thời kì đổi
mới:
9


Ngay từ ngày xây dựng chính quyền, Đảng ta rất quan tâm đến vấn đề xây dựng,
phát triển văn hóa, con người, xem đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
quá trình xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Xây dựng, phát triển văn hóa là hoạt động có chủ đích của các chủ thể văn hóa
tác động vào mơi trường tự nhiên và xã hội làm nảy sinh những giá trị mới của nền văn
hóa theo hướng chân, thiện, mỹ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần dân tộc, khoa học, nhân
văn, dân chủ, tiến bộ. Do vậy, xây dựng, phát triển văn hóa suy cho cùng cũng là vì con
người, vì sự phát triển tồn diện của con người. Còn xây dựng, phát triển con người là
q trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người
phát triển tồn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ. Vì vậy, xây
dựng, phát triển con người là vấn đề trung tâm của xây dựng, phát triển văn hóa.
Nhận thức tầm quan trọng và mối quan hệ gắn kết giữa xây dựng, phát triển văn
hóa, con người nên trong suốt q trình thực hiện đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều
văn kiện định hướng nhiệm vụ xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam.
Năm 1988, Đảng ta đã ban hành Nghị qút Hội nghị lần thứ chín, khóa XI về
xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất
nước, trong đó nhấn mạnh: Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa tiến bộ và nhân văn,
dựa trên hệ tư tưởng khoa học và cách mạng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn
đấu khơng ngừng vì hạnh phúc của con người. Đó là nền văn hóa vừa cập nhất với trình
độ chung của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện sâu sắc bản sắc và bản lĩnh của dân tộc
trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nền văn hóa này vừa đảm bảo được sự thống nhất của

quốc gia – dân tộc, tạo nên sự đoàn kết dân tộc, vừa tơn trọng và phát huy sự đa dạng
văn hóa của 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là nền văn hóa thắm nhuần
sâu sắc các giá trị nhân văn, dân chủ, tiến bộ, có sức lan tỏa và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần, sức mạnh “nội sinh” quan trọng để phát triển
đất nước.
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm, khóa VIII, Đảng ta tiếp
tục ban hành Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 09-6-2014 về xây dựng và phát triển nền văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, bổ sung thêm
quan điểm mới là: sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam phải đáp ứng được
10


yêu cầu phát triển bền vững đất nước;; phải coi văn hóa ngang hàng với kinh tế, phải
quan tâm xây dựng văn hóa trong chính trị và văn hóa trong kinh tế. Tập trung phát triển
cơng nghiệp văn hóa đi đơi với xây dựng, hồn thiện thị trường văn hóa nhằm khai thác
và phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khún khích
xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới; chủ động
hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Bên cạnh phát huy
sức mạnh nội lực trong nước cần thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại,
phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn ghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngồi trong
việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước.
Vấn đề phát triển văn hóa, con người được Đảng ta định hướng rất rõ trong các
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, nhất là từ Đại hội lần thứ XI, XII, XIII của Đảng
về tính định hướng chiến lược lâu dài về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt
Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “tập trung nghiên
cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực
con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới
.Theo đó, phải phát triển con người Việt Nam toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự
trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; phát triển

tồn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của
dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại tạo động lực phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế.... Để thực hiện thành cơng quan điểm phát triển văn hóa, con
người trên, tại Đại hội XIII, Đảng ta yêu cầu phải “đề cao tính tiên phong gương mẫu
trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, đảng viên trong các đơn vị... khuyến
khích, tạo điều kiện để mọi người dân được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong
đời sống kinh tế xã hội.
Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu
sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu
vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
quan trọng của phát triển, coi “con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người
11


với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(2). Đại hội
đề ra mục tiêu cho giai đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển tồn diện về trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam
đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã khẳng định mục tiêu: xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền
tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát
triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh. Văn hóa tiếp tục là vấn đề quan trọng, có tính thời sự và dành
được sự quan tâm sâu sắc.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam
tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển

bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và mục tiêu “Văn hóa
thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan
trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc”(3). Việc thực hiện
nhiệm vụ xây dựng con người có bước chuyển biến quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng
văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng mơi
trường văn hóa với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con
người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động,
sáng tạo, khát vọng vươn lên. Mục tiêu được đề ra là: Xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam phát triển tồn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần
dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, trong đó, “xây dựng con người Việt Nam phát
triển tồn diện” phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển.
2.2 Quan điểm, mục tiêu của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hố trong
thời kì đổi mới:
2.2.1 Quan điển, mục tiêu của Đảng:
Sau khi thống nhất, cùng với việc xây dựng, củng cố chế độ chính trị và xây dựng,
phát triển kinh tế, toàn quốc hướng đến mục tiêu lớn là xây dựng chế độ mới, nền kinh
12


tế mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong suốt 10 năm tiếp
theo, từ năm 1976 đến 1986, Đảng tiếp tục đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa
với nhiệm vụ "xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa” với tính chất dân tộc và làm chủ
tập thể về văn hóa, tạo ra cho mọi quần chúng nhân dân một cuộc sống tinh thần phong
phú, phù hợp với mục đích cao quý của chủ nghĩa xã hội.
Năm 1986 mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng đất nước ở nước ta khi
Đảng qút định tiến hành cơng cuộc Đổi mới tồn diện. Cùng với sự đổi mới trong tư
duy kinh tế và chính trị, Đảng ta đã có những đổi mới quan trọng trong tư duy về văn
hóa từ việc xác định vị trí, vai trị cũng như trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát
triển văn hóa cách mạng, tiếp nhận các giá trị văn hóa của dân tộc và thời đại. Gắn chặt
nội dung và tinh thần của sự nghiệp đổi mới "Đổi mới là văn hóa, văn hóa là đổi mới"

(Thủ tướng Phạm Văn Đồng), Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI năm 1986 của Đảng
đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, đề cao vai trị của văn hố trong đổi mới
tư duy, thống nhất về tư tưởng, dứt bỏ cơ chế cũ khơng cịn phù hợp, thiết lập cơ chế
mới; khẳng định đồng thời vừa xây dựng kinh tế, vừa phải coi trọng các vấn đề văn hố,
tạo ra mơi trường văn hố thích hợp cho sự phát triển. Tiếp theo đó, Đảng đã xác
định: "Văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình
độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo
ra những giá trị văn hóa, những cơng trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này sang
đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người".
Có thể nói đây là một bước ngoặt trong nhận thức của Đảng về đổi mới văn hóa
trong sự nghiệp đổi mới tồn diện đất nước khi làm rõ, phê phán quan niệm khá phổ
biến trước đây coi văn hóa là hoạt động phi sản xuất, có tính tiêu dùng, hoặc chỉ là
phương tiện giản đơn nhằm tuyên truyền cho chính trị. Điều này cho thấy văn hóa cách
mạng ở Việt Nam đã có được thành tựu lớn lao khi ngày càng đặt vấn đề văn hóa, con
người vào vị trí trung tâm trong các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cũng
trong thời gian này, trên thế giới, tư duy của nhân loại về văn hóa cũng đã có những
nhận thức mới, thể hiện trong quan điểm của UNESCO về "Thập kỷ phát triển văn
hóa" (1987-1996), trong đó, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục và
đào tạo, khoa học và công nghệ và một số lĩnh vực khác.

13


Kế thừa tinh thần này, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định văn hóa cùng với
giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển
kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội. Chính vì thế, trong những năm đầu đổi mới, khi nền kinh tế Việt
Nam có sự bứt phá và đạt được kết quả ngoạn mục, đời sống vật chất của người dân
được cải thiện, mọi người thi đua lao động sản xuất và làm giàu nhanh chóng thì việc
định vị văn hóa ngày càng rõ ràng hơn và được đặt đúng vị trí là một trong những trụ

cột của phát triển.
Đảng ta đưa ra 5 quan điểm về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển
bền vững đất nước; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.
Quan điểm này được khẳng định trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nhằm khắc
phục tình trạng coi nhẹ ́u tố văn hóa so với kinh tế, chính trị, hạn chế được hiện tượng
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hai là, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống
nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng dân tộc, nhân
văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện mơ hình hài hịa giữa đặc trưng “tiên
tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất với tính chất của nền văn hóa thống nhất trong đa
dạng.
Ba là, phát triển văn hóa vì sự hồn thiện nhân cách con người và xây dựng con
người để phát triển văn hóa. Đây là quan điểm xác định nhiệm vụ cơ bản, cốt lõi, trọng
tâm của việc xây dựng nền văn hóa đó là xây dựng, hồn thiện nhân cách con người bởi
lẽ. Đồng thời, quan điểm này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, vì nếu khơng xác
định rõ mục tiêu hướng mọi hoạt động văn hóa vào hồn thiện con người thì dẫn đến
nguy cơ xa rời bản chất đích thực của văn hóa, là tha hóa con người. Con người là chủ
thể sáng tạo nên giá trị văn hóa, là sản phẩm của mơi trường văn hóa do mình tạo ra nên
nhân cách con người có ý nghĩa quyết định đối với việc tạo nên chất lượng văn hóa. Vì
thế, xây dựng nhân cách con người đứng vững trước những khó khăn, thách thức của

14


kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, dám xả thân vì sự nghiệp chung là vấn đề hệ
trọng của văn hóa Việt Nam hiện nay.
Bốn là, xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia

đình, cộng đồng; phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu
tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của
xây dựng mơi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan
hệ giữa kinh tế và văn hóa.
Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trị quan
trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng ́u có vai trị to lớn, là nguồn
lực và động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững của đất nước.
Nhìn một cách tổng quát, 5 quan điểm trên đã phản ánh tư tưởng chỉ đạo vừa cơ
bản, lâu dài, vừa cụ thể, cấp bách của Đảng ta nhằm định hướng cho q trình xây dựng,
phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Các quan điểm này đã phản ánh một bước phát
triển mới về tư duy lý luận văn hóa của Đảng. Nhận thức tồn diện và sâu sắc hơn những
vấn đề lý luận thể hiện tập trung ở các quan điểm này sẽ giúp cho hoạt động thực tiễn
của chúng ta đạt hiệu quả tốt hơn.
2.2.2 Nhiệm vụ xây dựng, phát triển nền văn hoá:
Xuất phát từ 5 quan điểm trên, Đảng ta đã đưa ra 6 nhiệm vụ rất cơ bản và bao
quát một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực và các hoạt động văn hóa liên quan đến
văn hóa, con người Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế, 6 nhiệm vụ đó là:
1. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện cả về đạo đức, tâm hồn,
thể chất đến trí tuệ, năng lực.
2. Xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh.
3. Xây dựng văn hóa trong chính trị và trong kinh tế.
4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa.
5. Phát triển cơng nghiệp văn hóa đi đơi với xây dựng, hồn thiện thị trường văn
hóa.
6. Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
15



Để thực hiện tốt 5 quan điểm, 6 nhiệm vụ trên, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp sau:
Một là, tuyên truyền, quán triệt, tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Đại hội
XIII của Đảng về định hướng phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phức tạp
trong tình hình mới. Đó là: “Phát triển con người tồn diện và xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở
thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư
cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã
hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin,
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con
người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất
nước”.
Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa
cả về mặt nhận thức và cách thức. Về nhận thức, các cấp ủy, tổ chức đảng xác định xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ
đổi mới. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, hệ thống
chính trị và tồn xã hội về vị trí, vai trị của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa, con
người Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên nêu cao vai trò gương mẫu và động viên, tổ
chức cho Nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người. Về cách thức, đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng hài hịa, vừa bảo đảm để văn hóa phát
triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ
cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc
phục tình trạng bng lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa thơng qua việc
thực hiện tốt yêu cầu của Nghị quyết 33-NQ/TW. Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò quản lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Để nâng cao năng lực, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước về văn hóa,
Nghị quyết số 33-NQ/TW nhấn mạnh các yêu cầu sau: Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ
thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa bằng cách xây dựng và hồn
thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, nghệ thuật, quyền tác giả và các

quyền khác phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Đẩy mạnh quá trình
16


chuyển đổi cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp văn hóa, các
hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo quy
định của pháp luật. Tăng cường cơng tác thanh tra văn hóa, gắn với trách nhiệm cá nhân
và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Chủ động đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy
thối về tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh
vực văn hóa. Ngồi ra, tích cực tiếp thu và ứng dụng hiệu quả những thành tựu khoa học
- công nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cơng tác quản lý nhà nước
về văn hóa, khơng ngừng đổi mới và nâng cao trình độ quản lý.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác văn hóa nói riêng và người Việt
Nam nói chung phát triển cả về đạo đức, phẩm chất, trình độ, năng lực. Xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực văn hóa đóng vai trị quan trọng, là động lực của sự phát triển đất
nước nói chung, phát triển văn hóa nói riêng. Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI yêu
cầu phải xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa. Quan tâm xây dựng các
trường văn hóa, nghệ thuật, tạo sự chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy môn đào
tạo. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện
đại và hội nhập quốc tế. Có chính sách phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh
cán bộ lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức.
Năm là, tăng cường các nguồn lực cho văn hóa về đầu tư của Nhà nước, về xã
hội hóa, về quản lý, về thiết chế văn hóa, về nghiên cứu lý luận và đầu tư các nguồn lực
phát triển con người tồn diện. Để phát triển văn hóa, con người, Nhà nước cầu đầu tư
mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người ngang với đầu tư cho phát triển kinh
tế. Bởi lẽ, chung quy mọi sự phát triển đều do con người, vì con người. Nếu giá trị văn
hóa bị biến đổi theo chiều hướng tiêu cực, con người bị suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Vì thế, Nhà nước cần
đầu tư cả về tài lực, vật lực và có kiểm tra, kiểm sốt chặt chẽ để thực hiện mục tiêu xây
dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam hiện nay. Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh xã

hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư, tài trợ trong xã hội. Xây dựng cơ chế, chính sách
ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu
vực tư nhân đầu tư, nhất là những vùng khó khăn. Xây dựng các cơng trình văn hóa
trọng điểm. Tăng cường đầu tư để đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để
nâng cao khả năng dự báo và định hướng phát triển văn hóa, con người.
17


Tuy nhiên, sau 10 năm đồng hành cũng sự nghiệp đổi mới, trên tổng thể thì những
thành tựu trong phát triển văn hóa khơng bắt kịp sự tăng trưởng kinh tế. Sự tấn công
thầm lặng nhưng hết sức dữ dội từ mặt trái của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến những
diễn biến phức tạp trong sự phát triển của văn hóa. Trước tình hình ấy, Đại hội VIII của
Đảng năm 1996 đã nhận ra vai trị, vị trí quan trọng của văn hóa - nền tảng tinh thần của
xã hội, từ đó đặt ra vấn đề “hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội mới phù hợp với
truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại”. Với quan điểm chỉ đạo này, lần
đầu tiên Đảng đề ra nhiệm vụ xây dựng văn hóa gắn liền với hệ giá trị và chuẩn mực xã
hội mới nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đáp ứng công cuộc đổi mới.
Nhưng phải đến hai năm sau, trong Hội nghị Trung ương 5 khóa III (tháng 7 năm 1998),
Đảng ban hành Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc” thì hệ thống lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới của Đảng mới cơ
bản được hồn thiện, trong đó các vấn đề văn hóa được xem xét một cách cụ thể, có hệ
thống.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII ra đời đã tạo ra một bước ngoặt
toàn diện trong tư duy lý luận của Đảng về văn hóa và vai trị của văn hóa, thể hiện tầm
nhìn chiến lược về văn hóa, phù hợp yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và xu thế phát
triển của đất nước. Với Nghị quyết này, văn hóa đã đặc biệt khẳng định được vị trí quan
trọng trong chiến lược phát triển của đất nước, được nhìn nhận là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì thế,
trong chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa, tinh thần này được quán triệt sâu sắc, cả
về phương diện lý luận và đặc biệt trong hoạt động thực tiễn, trở thành một nội dung lớn

trong hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền, đồn thể các cấp. Trong những năm tiếp
theo, việc “tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội,
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” trở thành một nhiệm
vụ quan trọng của văn hóa cách mạng và được tuyên truyền, triển khai thực hiện sâu
rộng.
Chính nhờ những chỉ đạo đúng đắn, sát sao nhằm phát triển văn hóa, giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa nhân
loại, hồn thiện hệ thống giá trị văn hóa Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện
18


đại hóa, hội nhập quốc tế…, văn hóa Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức to
lớn. Nhìn chung, văn hóa đã bước đầu khẳng định vị trí là nguồn lực để phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần vào thành cơng của sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”. Với những thành tựu đạt được, có thể nói Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII là văn kiện mang tính cương lĩnh của Đảng về văn hóa
trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế, đánh dấu một thành tựu quan trọng trong xây dựng, tuyên truyền và phát triển
văn hóa cách mạng trong tiến trình cách mạng dân tộc.
2.3 Liên hệ bản thân về giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong giai đoạn hiện
nay:
Chúng ta cần lên án, phê phán những hành vi làm mai một bản sắc dân tộc, và có
thái độ đấu tranh mạnh mẽ để bài trừ và tẩy chay những hoạt động văn hóa khơng lành
mạnh đang lan truyền với tốc độ chóng mặt trong xã hội hiện nay. Như vậy, thế hệ trẻ
là tầng lớp có vai trị, ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc. Mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh, sinh viên chúng ta phải tìm hiểu những bản sắc
văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu.
Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học
sinh, sinh viên nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc. Học sinh, sinh viên cần phải

đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu. Tích cực trau dồi hiểu
biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà.
Chúng ta cần phải trang bị cho mình tình yêu nước, tự hào về dân tộc, có như vậy
thì mới giữ được những nét đặc trưng của dân tộc mình. Quan trọng hơn, các bạn trẻ cần
xây dựng bản lĩnh văn hóa, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm văn hóa
khơng lành mạnh. Với trách nhiệm của mình, bản thân em là sinh viên em cần phải tiếp
tục đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống trong sinh viên và coi
đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần thường xuyên thực hiện tốt. chúng ta cần phải
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thường xuyên tổ chức các sự kiện liên quan đến bản
sắc văn hóa dân tộc và cần phải trang bị cho mình tình yêu nước, tự hào về dân tộc, có
như vậy thì mới giữ được những nét đặc trưng của dân tộc mình.
Bên cạnh đó, những tri thức đúng đắn về văn hóa đất nước cũng là điều vô cùng
cần thiết. Phải hiểu đúng thì mới bảo vệ được nó, phải hiểu đúng thì mới khơng làm nó
19


mất đi, mai một dần theo thời gian. Bản thân mình ngồi việc được giáo dục, cũng phải
tự ý thức về việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, để đất nước chúng ta sau này có phát
triển như Nhật Bản, Hàn Quốc thì cũng giống họ vẫn giữ được nét đẹp truyền thống văn
hóa dân tộc. Học sinh cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng
đầu và tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước
nhà. Như vậy, thế hệ trẻ là tầng lớp có vai trị, ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc. Là những học sinh được sinh ra và lớn lên trong cái nôi
của bản sắc dân tộc, chúng ta cần nỗ lực, cố gắng trong học tập, lao động để trở thành
những cơng dân tốt, góp phần xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.

20


PHẦN KẾT LUẬN

Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển
biến tích cực, đạt kết quả quan trọng: Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận
thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa
của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được
phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Văn hóa đã góp phần
quan trọng nâng cao dân trí, dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao tính năng động sáng
tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới
của con người Việt Nam. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam với các đặc trưng
dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Quan điểm này thể hiện mơ hình hài hịa giữa
đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc”, thống nhất với tính chất của nền văn hóa
thống nhất trong đa dạng.
Xây dựng đồng bộ mơi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trị của gia đình,
cộng đồng; phát triển hài hịa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn
hóa và con người trong phát triển kinh tế. Quan điểm này xác định trọng tâm của xây
dựng mơi trường văn hóa là xây dựng gia đình, cộng đồng và giải quyết mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hóa. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của tồn dân do
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai
trị quan trọng. Quan điểm này đã khẳng định các chủ thể trọng ́u có vai trị to lớn, là
nguồn lực và động lực để xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Nhưng bên cạnh đó việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị qút của Đảng cịn chậm,
thiếu đồng bộ. Cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi
bị xem nhẹ, thậm chí bng lỏng. Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và cịn
dàn trải”. Đối với việc xây dựng con người Việt Nam, nhiều ý kiến thống nhất rằng
nguyên nhân quan trọng là do hệ thống giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu. “Xét cho
đến cùng, những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của con người Việt Nam nói chung đều
là do những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân
lực này mà ra”. Con người là kết quả q trình xã hội hóa thơng qua giáo dục từ gia
đình, nhà trường và xã hội, mà như ta biết, những gì được học trong q trình đó sẽ là

21


nền tảng để tạo nên con người văn hóa. Và, với tư cách là chủ thể sáng tạo văn hóa, mỗi
cá nhân trong cộng đồng sẽ góp phần tạo nên văn hóa của cộng đồng. Có thể nói, nền
văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển như thế nào là do mỗi con người với tư
cách là con người văn hóa được hình thành thơng qua giáo dục quyết định.
Đảng ta nên tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực
văn hóa. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Xây dựng đội ngũ
cán bộ làm cơng tác văn hóa. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa. cần xây dựng
mơi trường kinh tế lành mạnh, đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao
cho mọi tầng lớp dân cư, quy hoạch tổng thể giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
gắn với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và hoàn thiện các thể chế về hoạt
động văn hóa tăng cường phát triển các nguồn lực cho hoạt động giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc.

22


×