CƠ SỞ VĂN HÓA CÁC VÙNG MIỀN
Giảng viên: Tạ Lan Khanh
ĐỀ TÀI:
1. VÙNG TÂY BẮC VIỆT NAM
LỊCH SỬ
Vùng Tây Bắc hình thành cách đây khoản 500 triệu năm. Thuở ấy cư dân Tây Bắc
vẫn là một bộ phận của nền văn minh đồng thau Đông Sơn với trống đồng và công
cụ bằng đồng. Lúc đầu vùng này chỉ là biển và chỉ có một số đỉnh ở dãy Hồng
Liên Sơn và dãy Sông Mã là nổi trên mặt biển. Sau bao nhiêu lần biển liên tục rút
ra xa và lấn vào suốt hàng trăm triệu năm thì trong quá trình đó có sự lún mạnh tạo
thành các phần đá phiến đá vôi. Thời cuối đại cổ sinh (cách đây khoảng 300 triệu
năm) thì dãy Hồng Liên Sơn và dãy Sông Mã đã được năng lên cao.
Cách đây khoảng 150 triệu năm chu trình tạo núi Indochina làm cho hai bờ địa
máng từ từ tiến lại gần nhau, khiến cho trầm tích trong địa máng uốn lên thành nếp
uốn khổng lồ, đồng thời làm cho tầng đá vơi có tuổi cổ hơn lại trồi lên tầng đá
phiến, tạo thành cao ngun với ngày nay. Trong q trình tạo núi, cịn có sự xâm
nhập của Macma. Kết quả là vùng Tây Bắc được năng lên với một biên độ đến
1000m và cuối cùng hình thành vùng Tây Bắc cho đến ngày nay.
VỊ TRÍ ĐỊA LÍ:
Tây Bắc là một vùng miền núi phía Tây của miền bắc VN, là một trong ba tiểu
vùng của Bắc Bộ Việt Nam bao gồm các tỉnh như : Mường Lay, Lai Châu, Lào
Cai, Điện Biên, Sơn La, Yên Bái và có chung đường biên giới với Lào và Trung
Quốc (có những khó khăn và thuận lợi nhất định : thuận lợi giúp chúng ta giao lưu
văn hóa, văn nghệ, trao đổi mua bán giữa nước bạn và ta; khó khăn phải ln
khẳng trương cảnh giác bảo vệ, lãnh thổ chủ quyền của quốc gia). Vùng Tây Bắc
được giới hạn ở phía đơng là dãy Hồng Liên Sơn và phía Tây là dịng sơng Mã.
Thực chất, Vị trí địa lí của vùng Tây Bắc vẫn chưa được nhất trí, có ý kiến cho
rằng đây là vùng nằm ở hữu ngạn sơng Hồng (phía nam), nhưng có một số ý kiến
cho rằng đây là vùng phía nam của dãy núi Hồng Liên Sơn.
Địa hình Tây Bắc có núi cao hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi chạy theo
hướng Tây Bắc-đơng nam trong đó có dẫy Hoàng Liên Sơn dài 180km, rộng 30km,
được người Thái nơi đây gọi là “sừng trời” (Khau Phạ), đây chính là bức tường
thành phía đơng và vùng Tây Bắc. Bên cạnh đó, ở Tây Bắc cịn có một số ngọn núi
cao như Phanxiphang 3143m, Yam Phinh 3096m, Pu Luông 2983m
Vùng Tây Bắc có hai con sơng lớn là sơng Đà (người thái gọi là Nặm Tẻ) và sông
Thao (tức sông Hồng), thượng nguồn của sông Mã cũng nằm trên vùng đất Tây
Bắc, phía tây của tỉnh Sơn La. Các con sơng này không chỉ là cơ sở cho sự định cư
của các dân tộc nơi đây cũng như vùng nông nghiệp trong vùng mà còn là nguồn
cảm hứng cho cho những tác phẩm truyện, câu hát, truyền thuyết của các dân tộc
nơi đây như Thái, Mường,….vùng Tây Bắc có các dãy cao nguyên đá voi từ phong
thổ đến thanh hóa chia nhỏ thành các cao nguyên như Tà Phình, Mộc Châu, Nà
sản,…mặc khác do địa hình chia cắt bởi các dãy núi, các long sơng, khe suối, tạo
nên các thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên,…
khí hậu vùng Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hổ thì có khí
hậu ơn đới nên vùng Tây Bắc có khí hậu vơ cùng độc đáo chẳng hạn vào giũa mùa
đông, ở thung lũng Mường La, người ta mặc áo tay ngắn còn ở Mọc Châu người ta
lại mặc áo ấm nhưng cũng không tránh khỏi cái lạnh. Do vậy mà thiên nhiên Tây
Bắc rất đa dạng tạo nên các nét đẹp văn hóa của các dân tộc của vùng Tây Bắc
ĐẶC ĐIỂM DÂN CƯ
Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc hiện nay gồm 6 tỉnh với diện tích trên 5,645
triệu ha với 4.713.048 dân , bình quân khoảng 88 người/km2
Mường là dân tộc có dân số lớn nhất vùng (Mộc châu,thái ngun, Điện Biên, Sơn
la, n Bái). Ngồi ra, cịn khoảng 20 dân tộc khác như Mông, Dao, Tày, Kinh,
Nùng,...
Tây Bắc là vùng có sự phân bố dân cư theo độ cao rất rõ rệt:
Vùng rẻo cao (đỉnh núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Mông Dao, Tạng Miến,với phương thức lao động sản xuất chủ yếu là phát nương làm rẫy,
phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên;
Vùng rẻo giữa (sườn núi) là nơi cư trú của các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Mơn
- Khmer, phương thức lao động sản xuất chính là trồng lúa cạn, chăn nuôi gia súc
và một số nghề thủ cơng;
Cịn ở vùng thung lũng, chân núi là nơi sinh sống của các dân tộc thuộc nhóm ngơn
ngữ Việt - Mường, Thái - Kadai, điều kiện tự nhiên thuận lợi hơn để phát triển
nông nghiệp và các ngành nghề khác.
Địa hình Tây Bắc chủ yếu là đồi núi, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt,
thường xun xảy ra thiên tai (lũ ống, lũ quét, sạt lở đất đá, cháy rừng…), do vậy
nông nghiệp không phải là thế mạnh, nhưng nó lại góp phần quan trọng cho việc
hình thành những nét văn hóa truyền thống của khu vực.
Sự khác biệt về điều kiện sinh sống và phương thức lao động sản xuất cũng
gây ra sự khác biệt văn hóa rất lớn mặc dù văn hóa chủ thể và đặc trưng là văn hóa
dân tộc Mường.
VĂN HĨA SẢN XUẤT
Văn hóa nơng nghiệp có thể được xem là một yếu tố làm nên nét độc đáo của vùng
Tây Bắc
- Văn hóa nơng nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói
gọn trong 4 từ văn vần “Mương – Phai – Lái – Lịn”
• “Phai”: Lợi dụng độ dốc của dòng chảy, người ta lấy đá ngăn suối làm dốc lên
cao
• “Mương”: Phía trên “phai” xẻ một đường chảy lên dẫn vào cánh đồng
• “Lái”: Từ “mương” xẻ những rãnh chảy vào ruộng
• “Lịn”: Cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà, bằng các cây
tre đục rỗng mấu, nối tiếp nhau, có khi dài hàng cây số.
- Nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng (do chủ động tưới tiêu nên người Thái
nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng, gặt lúa xong là tháo nước bắt cá, cá nuôi
trong ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa
Do đó, món dâng cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xơi và cá nướng. Món cá
biểu hiện cho lòng hiếu khách:
“Đi ăn cá, về nhà uống rượu
Ở thì ngủ đệm, đắp chăn ấm”
Nương rẫy là một bộ phận bổ sung không thể thiếu. Với nương, đồng bào có lúa,
rau quả như bầu bí, rau cải, đậu, vừng, ớt,…Bông và tràm cũng được trồng trên
nương
Ruộng bậc thang cũng là yếu tố làm nên vẻ đẹp của vùng núi Tây Bắc. như Tạp chí
Mỹ Travel & Leisure đã so sánh những thửa ruộng tại SaPa như là “Những bậc
thang dẫn lên trời” (Ladder to the sky)
VĂN HĨA ẨM THỰC
Đó là tồn bộ mơi trường văn hóa dinh dưỡng của con người như cách trang trí và
cách thức ăn uống, nghi thức và nghi lễ, thực phẩm như biểu tượng của sự tinh
khiết hoặc đặc sản của một khu vực.
Do sự ảnh hưởng của những điều kiện về địa lý, tự nhiên, lịch sử và đặc biệt là sự
hòa hợp của nhiều dân tộc trong văn hóa đã khiến cho ẩm thực Tây Bắc đa dạng,
phong phú và nhiều nét đặc trưng riêng không nơi nào có được
Đặc điểm chung nhất mà chúng ta có thể thấy trong thức ăn của các dân tộc vùng
Tây Bắc đó là tất cả món ăn đều được chế biến từ các nguyên liệu hoàn toàn tự
nhiên như gạo nếp, gạo tẻ; các loại thịt như thịt trâu, thịt bị, cá, gà và một ngun
liệu đặc biệt khơng nơi nào có là hoa ban.
Hoa ban là một đặc trưng trong văn hóa ẩm thực của các dân tộc Tây Bắc. Hoa ban
có rất nhiều loại nhưng nhiều nhất vẫn là ban trắng. Hoa ban có vị hơi chát, hơi
ngọt và bùi chứa nhiều vitamin, chất sơ và một số chất có ích cho cơ thể. Vì vậy,
người dân nơi đây đã sử dụng hoa, lá non và hạt ban để chế biến các món ăn hằng
ngày trong gia đình.
Tây Bắc là nơi có rất nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, mỗi dân tộc đều có
những món ăn truyền thống riêng, mang đậm sắc thái dân tộc mình. Người
H’Mơng có món mèn mén, người Tày nổi tiếng với thắng cố, người Thái được biết
đến nhiều qua các món nướng như: cá, gà, thịt lợn...
Mắc khén – đệ nhất gia vị vùng núi Tây Bắc. Mắc khén là một trong những loại gia
vị độc đáo mà núi rừng ban tặng cho người dân nơi đây. Đa phần các món ăn đặc
trưng ở đây đều khơng thể thiểu sự góp mặt của mắc khén. Khiến ai một lần
thưởng thức qua đều khơng thể nào qn được.
Ngồi mắc khén, hạt dổi cũng là một gia vị đặc trưng của Tây Bắc. Người ta
thường dùng hạt dổi để tẩm ướp các món nướng như gà, thịt, sườn... Ngồi ra,
chúng cịn được giã nhỏ với muối, chanh, ớt thứ nước chấm thanh thanh chua chua
dùng để chấm thịt gà, thịt luộc thì khơng một thứ nước chấm nào có thể sánh được.
Hay đơn giản nhất chấm xôi trắng với muối rang hạt dổi cũng đã đủ thơm ngon.
Nhắc đến Tây Bắc thì khơng thể khơng nhắc đến đỉnh núi Phanxipang – nóc nhà
Đơng Dương. Ở đây nổi tiếng với món cơm lam SaPa, một món ăn phổ biến và rất
được u thích bởi hương vị của gạo nếp Tây Bắc, nước suối và hương thơm nhẹ
nhàng của tre. Đây là món ăn đơn giản nhưng cách chế biến độc đáo đã mang đến
ấn tượng khó phai với những ai đã từng thưởng thức.
Ở vùng núi Tây Bắc vào ngày Tết hoặc các ngày lễ lớn, xơi ngũ sắc là món ăn
khơng thể thiếu. Xôi ngũ sắc gồm màu trắng, vàng, đỏ, xanh lá, tím và hồng. Tất cả
đều được chế biến từ những nguyên liệu tự nhiên của cây lá vùng núi. Người dân
vùng cao tin rằng, vào các ngày trọng đại, ăn món xơi này sẽ mang lại may mắn và
hạnh phúc cho cả năm.
Ẩm thực Tây Bắc là thiên đường món ăn trong đó phải kể đến thịt trâu gác bếp.
Đây là món ăn đặc trưng của dân tộc thiểu số. Thịt trâu gác bếp có vị ngọt đậm đà
hịa với các gia vị khác tạo nên sức hấp dẫn cho đặc sản vùng cao. Ngoài thịt trâu,
người dân cũng có thể dùng thịt bị hoặc thịt lợn để chế biến món thịt gác bếp này.
Trên đây là những nét đặc trưng tiêu biểu của ẩm thực Tây Bắc, có thể thấy Ẩm
thực của vùng Tây Bắc vô cùng phong phú và đặc sắc, là nơi hội tụ của các dân tộc
thiểu số mang nét đặc trưng riêng của văn hóa núi rừng nơi đây.
VĂN HĨA CƯ TRÚ:
Trước hết xin bắt đầu từ văn hóa “đời thường”. Mỗi dân tộc khác nhau thường xây
dựng nhà ở với lối kiến trúc khác nhau nên tạo nên một Tây Bắc rất riêng biệt.
Cịn với người Dao họ lại tạo nên những cơng trình nửa trệt, nửa sàn phong phú.
Những thiết kế ba gian, chắp thép lại với nhau bằng những nguyên liệu rời rạc.
Người Mông thường xây dựng nhà trệt không gác. Nhà ở gồm ba gian với kết cấu
chắc chắn được làm bằng gỗ, gian chính được người dân sử dụng làm bàn thờ tổ
tiên, gian ngoài dành cho nam sinh hoạt, gian trong dùng cho việc bếp núc.
Dù xây dựng theo lối kiến trúc nào đi chăng nữa, mỗi kiến trúc đều thể hiện rõ
ràng văn hóa Tây Bắc. Hẳn là những nét phác họa ở đây cũng chỉ là gợi mở về một
vùng văn hóa đa dạng và độc đáo.
LÀNG XÃ
Về phương diện VHXH hay cụ thể hơn là VH làng xã, Có thể thấy, nét đặc trưng
khi nhắc về Tây Bắc không chỉ là sự độc đáo đến từ những ngơi nhà sàn mà cịn là
những bản làng mang những nét đẹp truyền thống của các dân tộc đang sinh sống
tại đây.
Chúng ta có thể hiểu Bản làng là xóm làng ở vùng dân tộc thiểu số hoặc ở vùng
hẻo lánh miền Bắc Việt Nam. Và Người đứng đầu ở các bản làng thường được gọi
là “già làng, trưởng bản” tuy vậy, họ cũng có những điểm khác biệt như sau
Già làng Trưởng bản (thôn)
Người đại diện cho một dòng họ của một tộc người nào đó được mọi người tự
nguyện tin, theo. Hay nói cách khác già làng là được dân làng bầu vào chức vụ này
do có uy tín với cộng đồng
Người đứng ra giải quyết theo luật tục về các vấn đề, các tranh chấp nhờ vào tiếng
nói có trọng lượng.Là người do nhân dân trong thôn, bản trực tiếp bầu ra
Có nhiệm vụ quản lý về mặt chính quyền trong thôn (bản); tổ chức, vận động nhân
dân chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước trực tiếp chăm lo cuộc sống vật chất và
tinh thần của nhân dân trong thôn (bản)
Nhờ vào sự quản lý của các già làng, trưởng bản mà những bản làng ở vùng
Tây Bắc vẫn còn giữ được những nét truyền thống như Bản Tả Phìn của đồng bào
người Dao và H’Mơng; Lao Chải – Tả Van của người H’Mông và Giáy hay là Bản
Ý Linh Hồ của người Dao… Tiêu biểu là bản Giang Mỗ và Bản Cát Cát.
Bản Cát Cát của dân tộc H’Mong, nằm ngay dưới chân dãy Hoàng Liên Sơn.
Những ngôi nhà của người Mông ở bản Cát Cát dựa lưng vào sườn núi, mỗi ngôi
nhà chỉ cách nhau vài mét. Ngồi nơi ở cịn có nơi sản xuất: họ trồng lúa trên
ruộng bậc thang, trồng ngô trên núi theo phương pháp canh tác thủ công, sản lượng
thấp. Phần lớn nhà cửa đều đơn giản, chỉ có một cái bàn, cái giường và bếp lửa nấu
nướng. Kiến trúc nhà cửa người Mơng bản Cát Cát vẫn cịn nhiều nét cổ.
Hay chúng ta cịn có thể biết đến bản Giang Mỗ. Đây là nơi sinh sống của
người Mường, cả bản có tất thảy 117 ngơi nhà sàn với 460 nhân khẩu. Cuộc sống
của người dân nơi đây gắn với trồng trọt và chăn ni. Ngồi ra, kiến trúc độc đáo
của những ngôi nhà “rùa” là nét đặc trưng riêng có nhất tại nơi đây. Nhà sàn của
người Mường thường được xây dựng ở nơi có địa thế cao, từ đó có thể đón luồng
gió mát lành tự nhiên của đất trời.
ĐI LẠI
Địa hình vùng Tây Bắc có thể tạo ra nhưng nét đặc trưng về văn hóa từ nhà ở đến
các bản làng. Nhưng cũng và vấn đề khó khăn khiến mạng lưới giao thơng của Tây
Bắc chưa phát triển, nhiều nơi vẫn chưa có tuyến đường đi đến trung tâm
Chủ yếu di chuyển bằng sức người hoặc phương tiện thơ sơ trên đường sơng nước.
Tây Bắc có tuyến đường sắt dài 700km đường hàng khơng chỉ có hai sân bay
nhưng vẫn còn hạn hẹp và chưa phát triển, một trong hai bị đóng cửa. Những định
hướng về đầu tư giao thông vận tải và cơ sở hạ tầng là nhiệm vụ được quan tâm
hàng đầu ở Tây Bắc.
NGƠN NGỮ
Tây Bắc hiện có khoảng hơn 30 dân tộc anh em cùng chung sống tức tương đương
hơn 30 ngôn ngữ khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là ngôn ngữ dân tộc Kinh do
tiếng Việt là ngơn ngữ mang tính quốc gia nên người dân vùng này giao tiếp với
nhau chủ yếu bằng tiếng Việt.
Tây Bắc là vùng có sự phân bố dân cư theo độ cao rất rõ rệt vùng đỉnh núi là nơi
cư trú của dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Mơng, Dao. Vùng sườn núi là nơi cư trú
của thuộc nhóm ngơn ngữ dân tộc Môn- Khmer, vùng thung lũng, chân núi là nơi
sinh sống của các dân tộc thuộc nhóm ngơn ngữ Việt Mường, Thái-Kday.
Văn hóa Thái đã tạo ra một sức hút một sức lan tỏa mạnh mẽ ở khu vực này. Đa
phần người Lào và người Khơ-Mú đều nghe, nói được tiếng Thái bên cạnh việc di
trì tiếng Lào, tiếng Khơ-Mú, tiếng Việt chủ yếu sử dụng trong trường học và hành
chính.
Việc giáo dục ngơn ngữ văn hố trong gia đình, người dân tộc thiểu số khơng được
thực hiện ở Việt Nam nói chung và Tây Bắc nói riêng.
Các dân tộc người thiểu số có nhu cầu sử dụng tiếng Việt là chính đáng, phục vụ
mục tiêu phát triển cịn tiếng mẹ có giá trị như là một cơng cụ duy trì bản sắc của
một dân tộc, đảm bảo tính đa dạng của văn hoá quốc gia, dân tộc.
VĂN HĨA TRANG PHỤC
+ Nét chung:
Đều có gam màu nóng: rất nhiều màu đỏ xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng
rơm, rồi da cam, tím và nếu có xanh thì là xanh da trời tươi
Họa tiết, bố cục phối màu đều rất phong phú
+ Nét riêng biệt của từng dân tộc:
Những nét chung của cả vùng không làm mất đi tính riêng của văn hóa từng dân
tộc.
Dân tộc Thái:
-Trang phục nữ Thái thể hiện rõ nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Gồm: áo ngắn (xửa
cỏm), áo dài (xửa chái và xửa luổng), váy (xỉn), thắt lưng (xải cỏm), khăn (piêu),
nón (cúp), xà cạp (pepăn khạ), các loại hoa tai, vòng cổ
-Hàng khuy bạc hay kim loại đã làm cho xửa cỏm (áo ngắn) thành chiếc áo đặc
trưng của bộ nữa phục Thái
- Nói về trang phục nữ Thái không thể thiếu khăn piêu. Chiếc khăn piêu được các
cơ gái Thái thêu thùa rất cầu kì, nó thể hiện sự khéo léo của mỗi cô gái
-So với nữ thì nam phục Thái đơn giản hơn, ít chứa đựng sắc thái tộc người và
cũng biến đổi nhanh hơn. Trang phục nam giới gồm: áo, quần, thắt lưng và các loại
khăn.
Dân tộc Dao:
- So với các dân tộc khác thì dân tộc Dao được coi là còn giữ được nhiều nét bản
sắc của mình với chất liệu bằng vải bơng nhuộm chàm, màu xanh, đỏ, đen, tím
than hoặc để trắng
- Tộc người Dao đỏ đội khăn đỏ, đeo những bông hoa đỏ trước ngực; Dao quần
chẹt mặc quần ống hẹp bó sát vào chân; Dao quần trắng nổi bật là yếm rất to che
kín cả ngực và bụng, ngày cưới cô dâu mặc quần trắng; Dao làn tuyển mặc áo dài,
đội mũ nhỏ...
- Một bộ trang phục hoàn chỉnh của người Dao gồm: Áo, yếm, xà cạp, cùng đồ
trang sức vàng bạc, khăn vấn đầu...
- Duy nhất trong cộng đồng người Dao chỉ có người Dao Tiền là mặc váy (váy của
người Dao Tiền phía bắc dài hơn váy của người Dao Tiền phía nam). Áo của người
Dao Tiền gồm hai thân trước, nẹp và một xỏ tà. Thường trên đó họ dùng họa tiết
hình gấu, chó
- Vào dịp lễ hội, người phụ nữ Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong cho mái tóc
nuột nà, uốn lượn.
PHONG TỤC TẬP QUÁN
Phong tục tập quán là những hành vi ứng xử, thói quen sinh hoạt và cách
sống lâu ngày đã ăn sâu vào đời sống xã hội hay toàn bộ hoạt động sống của con
người hình thành trong tiến trình lịch sử, có tính ổn định, được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, được cộng đồng thừa nhận và tuân theo một cách tự giác.
TẾT
Cùng là đón Tết cổ truyền, nhưng ở vùng Tây Bắc lại có nhiều phong tục đón Tết
khác nhau của các dân tộc khác nhau.
Tục hát thi với gà trống của người Pu Péo
Đây là một phong tục người dân tộc Pu Péo ở tỉnh Hà Giang. Trong đêm giao thừa,
người Pu Péo sẽ thức để canh chừng chú gà trống nhà mình. Khi chú gà vỗ cánh
chuẩn bị cất tiếng gáy, họ sẽ đốt một quả pháo ném vào chuồng để khiến những
chú gà trong chuồng thi nhau nhảy lên và gáy vang và khi đó người Pu Péo cũng
hát ca theo. Theo quan điểm của họ, tiếng gà gáy là dấu hiệu để đánh thức mặt trời,
khởi đầu một ngày mới tốt lành. Do đó, ai hát to, hát khoẻ làm át được tiếng gáy
thiêng liêng đó thì năm mới ắt sẽ gặp nhiều điều may mắn, hạnh phúc.
Tục thờ bát nước lã của người Pà Thẻn
Trên bàn thờ tổ tiên của người Pà Thẻn ở Hà Giang ln có một bát nước lã.
- Tượng trưng cho biển
- Chứa đựng hồn tổ tiên và các thành viên trong gia đình.
- Khơng bao giờ được cạn vì nếu để cạn thì gia đình sẽ có người ốm đau, bệnh tật
hoặc gặp điều không may.
Bát nước này phải là nước sạch được lấy từ đầu nguồn của con suối trong nhất,
sạch nhất của bản và phải được đậy kín cả năm và chủ nhà người Pà Thẻn không
bao giờ được phép để nước trong bát cạn đi.
Theo đó, vào đêm 30 Tết, các gia đình ở Pà Thẻn sẽ đóng cửa cài then, bịt kín mọi
lỗ thơng khí trong nhà rồi nấu một nồi cháo gà để cả nhà cùng quây quần ăn tết. Ăn
cháo xong, chủ nhà mới lấy bát nước lã để quanh năm trên ban thờ xuống để cọ
rửa, thay nước mới. Công việc này phải được thực hiện kín đáo là vì người Pà
Thẻn tin rằng nếu người ngồi à nhìn thấy bát nước linh thiêng đang được lau chùi
hay thay nước mới thì gia đình sẽ gặp nhiều xui xẻo trong năm mới.
HÔN NHÂN.
Tục kéo vợ của người Dao đỏ
Thường vào mùa xuân là lúc những chàng trai người Dao đỏ đi kéo vợ. Tuy
nhiên khơng phải cứ thích ai thì mặc nhiên được kéo về nhà mà thường các đơi trai
gái đã tìm hiểu, phải lòng nhau. Tục kéo vợ cũng chỉ là một hình thức để cho mọi
người quanh bản biết, là cái cớ để người con gái chính thức bước chân về nhà
chồng.
Theo phong tục, khi được kéo, cô gái càng tỏ ra chống đối quyết liệt thì sau này
gia đình sẽ con cái đầy nhà, vợ chồng thuận hòa hạnh phúc. Sau khi bị kéo về nhà
chàng trai, cô gái được giữ ở lại trong nhà 3 ngày và vẫn sinh hoạt bình thường,
được cha mẹ chàng trai xem như con cái trong nhà. Hết thời hạn cô gái sẽ thông
báo cho bố mẹ đến làm thủ tục cưới.
Tục "ngủ thăm" của người Mường
Ngủ thăm là một tục lệ lâu đời của các dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc như
Thái, Dao, Mương, Mông... Tuy nhiên, ngày nay, tập tục ngủ thăm này đã bị mai
một và nhiều nơi khơng cịn tồn tại. Nhưng với người dân tộc Mường ở bản Mọc,
xã Đồng Nghê (Hịa Bình), tục cạy cửa ngủ thăm vẫn còn được lưu giữ.
Tục lệ này bắt đầu ở nhữung chàng trai, cô gái đủ 14 tuổi. Khi đêm xuống, các
chàng trai chưa vợ có thể cạy cửa nhà các thiếu nữ mới lớn để chui vào tán tỉnh.
Họ chỉ được trò chuyện, tâm sự ở tư thế chung chăn, chung gối mà không được
chạm vào người nhau. Người Mường xưa cho rằng, tình cảm khơng chỉ là chuyện
riêng tư của đơi trai gái mà cịn là mối quan tâm chung của thổ thần (thần đất, quán
xuyến công việc của mỗi nhà), tổ tiên và gia đình. Do đó người con trai (từ 15 tuổi
trở lên) phải cạy cửa vào tận giường tâm tình cùng người con gái trước sự chứng
kiến của ba bề, bốn bên.
Hành động cạy cửa cũng chính là dịp để thử tài khéo léo, giỏi giang của chàng trai.
Việc “vào tận nhà, xà tận giường” đối tượng cũng chính là dịp để người con trai
tìm hiểu gia cảnh của người con gái mà mình có thể lấy làm vợ... Sau vài đêm đêm
tìm hiểu như thế, cơ gái sẽ có quyền quyết định cho chàng trai “ngủ thật” hay
không. Sau vài đêm ngủ thăm tìm hiểu, nếu cơ gái đồng ý, chàng trai sẽ mang bạc
trắng, lợn béo sang nhà cô gái thưa chuyện
TANG LỄ
Theo tục lệ người Mông (Hà Giang), đám ma phải tổ chức linh đình, mổ bị mời
dân bản đến ăn. Nhà nào có tiền mở tiệc đãi cả bản sẽ được tổ chức đám ma “tươi”,
cịn khơng có thì sẽ gia hạn khoảng 3 tháng sau phải mổ bị khao cả bản coi như trả
nợ và đó là đám ma “khơ” Nếu đến ngày đó mà gia đình chưa có điều kiện thì sẽ
phải hứa lại, nếu khơng làm sẽ bị ma quấy rối không cho làm ăn, làm mặc tốt đẹp.
Theo phong tục của người Mông tại Mèo Vạc, Hà Giang, lễ Ma khô là tục lệ tiễn
linh hồn người chết về quê cha đất tổ của người Mơng. Vì u q, thương tiếc
người thân đã mất, cộng với tâm lý sùng bái tín ngưỡng, tơn trọng phong tục của tổ
tiên để lại, người Mông từ bao đời nay vẫn quan niệm khi gia đình có người chết,
làm đám ma càng lâu, mổ càng nhiều lợn dê bị, người chết sẽ có thêm nhiều của
cải để khi về thế giới bên kia sẽ có cuộc sống sung túc, no đủ hơn, có nhiều bị để
làm nương, khơng phải chịu cảnh nghèo đói cơ hàn như khi cịn sống.
LỄ HỘI.
Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ thống
những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh,
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ
chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật của
cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Lễ hội hoa ban
Lễ hội Hoa Ban là lễ hội của người Thái ở Tây Bắc, được tổ chức vào tháng 2 âm
lịch hằng năm- khi hoa ban nở rộ trắng xóa ở cả vùng Tây Bắc. Lễ hội nhằm thể
hiện tấm lịng tơn trọng, nhớ ơn của nhân dân nhằm mục đích tưởng nhớ các công
lao lớn lao của các vị nhân thần tiền bối và cầu mong cho quốc thái, dân an, bản
mường no ẩm, mưa thuận gió hịa quanh năm, mùa màng bội thu, gia đình hạnh
phúc...
Đối với đồng bào Thái, Lễ hội Hoa Ban cịn thể hiện nét văn hóa tâm linh trong đời
sống gắn với truyền thuyết về nàng Ban hay “sự tích hoa ban trắng”. Chuyện kể
rằng: Xưa kia xứ Mường Trời có người con gái tên Ban xinh đẹp, nết na và rất mực
thủy chung trong tình yêu đôi lứa. Sau khi trải qua nhiều trắc trở, sóng gió, nàng đã
chết trên sườn đồi và hóa thành cây hoa ban trắng tỏa hương thơm ngọt ngào, dịu
nhẹ… vậy nên hoa Ban cũng là biểu trưng nhằm tôn vinh, minh chứng cho tình
yêu bất diệt, thể hiện ước vọng ngàn đời của cộng đồng các dân tộc về hạnh phúc,
vượt qua mọi lễ giáo, rào cản, định kiến xã hội và những khó khăn của cuộc sống..
Ngày nay, Lễ hội Hoa Ban được nâng tầm lên thành sự kiện văn hóa, du lịch. Nó
khơng chỉ là ngày hội của riêng dân tộc Thái mà đã trở thành ngày hội của cộng
đồng các dân tộc. là sản phẩm du lịch hấp dẫn với nhiều hoạt động văn hóa, thể
thao phong phú, đa dạng và thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân và khách
du lịch. Lễ hội Hoa Ban càng có ý nghĩa khi khai mạc đúng vào ngày 13/3, thời
khắc mà cách đây 68 năm, 13/03/1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã nổ phát
súng đầu tiên mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, làm nên chiến thắng “lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu”.
Hội xuân hát giao duyên của người dao đỏ tả phìn
Mỗi độ xuân về, bà con dân tộc Dao Đỏ lại tưng bừng mở hội hát giao duyên
truyền thống. Đây là một trong những lễ hội dân gian độc đáo nhất của đồng bào
các dân tộc ít người ở huyện Sa Pa và cả tỉnh Lào Cai Từ xa xưa, người dân tộc
Dao đỏ sinh sống ở Sa Pa đã có phong tục hát giao duyên giữa nam và nữ chưa có
gia đình để tìm bạn trăm năm, hát giữa người làng này với người bản kia để kết
bạn mới. Đầu xn năm mới hát giao dun cịn có ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió
hịa, mùa màng bội thu, gia đình mạnh khỏe, hạnh phúc. Đây cũng là dịp để những
người bạn lâu ngày gặp lại nhau giãi bày tình cảm riêng tư qua lời ca, điệu múa. Ở
đây, mọi người được hịa mình trong khơng khí tưng bừng của các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thể thao mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc như: Màn tái hiện Tết
nhảy, lễ rước dâu của người Dao đỏ với nghi lễ theo phong tục truyền thống và
tham gia vào các trị chơi dân gian như: Thi bắn nó, leo núi cắm cờ, bịt mắt bắt dê,
kéo co, đi cầu khỉ, ném cịn...
TÍN NGƯỠNG
VỀ THẦN NƯỚC
Lễ hội cầu mưa của người Khơ Mú
• Vì họ dựng bản làng trên các đồi núi xa sông suối, đời sống của người Khơ Mú
dựa chủ yếu vào nương rẫy. Họ chỉ có 1 vụ gieo trồng và phụ thuộc vào vụ đó. Đời
sống phụ thuộc vào tự nhiên của họ cũng giống như cây lúa, cây ngô phụ thuộc vào
mùa mưa năm ấy mưa thuận, gió hịa, hay hạn hán, lũ lụt nên tâm lý sùng bái và sợ
hãi trước sức mạnh của đấng vơ hình, đã tạo nên hình tượng thần mưa trong tín
ngưỡng dân gian của các cộng đồng Khơ Mú. Đây là lý do vì sao họ tổ chức lễ hội
cầu mưa trước mùa tra hạt hàng năm và cũng là một nghi lễ nông nghiệp, đặc trưng
tiêu biểu trong đời sống kinh tế cũng như văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc
Khơ Mú.
• Người thực hiện: thầy cúng: Lễ vật được thầy cúng tự tay bàN trên bàn thờ, gồm
có gà, hai bộ quần áo phụ nữ, vòng tay vòng cổ… quả bầu đựng nước, đặc biệt
phải có 4 bơng lúa để xin cho mùa màng tốt tươi. Cạnh bàn thờ bao giờ cũng có
cây chuối đủ cả gốc và ngọn.
Lễ hội Kin Pang Then của người Thái trắng
• Lễ hội Then Kin Pang mang đậm nét văn hóa dân gian truyền của dân tộc Thái
trắng diễn ra khi cơn mưa đầu hạ về, lúa trên đồng đang trổ bông.
• Người dân nô nức đi lễ hội với mong muốn cầu Then (cầu trời) cho mưa thuận
gió hịa, mùa màng bội thu, người người ấm no, nhà nhà hạnh phúc, bản làng yên
vui.
• Phần lễ được tổ chức tại nhà Then (nhà văn hóa cộng đồng), người đủ tiêu chuẩn
được dân bản bầu ra, mặc trang phục của Then, hát diễn xướng, truyền đạt mong
muốn của người dân đến các đấng thần linh tối cao trên trời, cầu cho mọi người
yên vui, sức khỏe phi thường, bản mường ấm no….
• Trước bàn thờ Then là mâm đồ lễ, gồm: đồng bạc trắng, khăn xịe, lá trầu khơng,
trứng gà sống, gạo, bát tô sứ, hương, chùm chuông tượng trưng cho chng ngựa,
hoa trung qn, cây nến nhỏ, đĩa, chén, gói gạo, gói muối, rượu, bát nước, điếu cày,
đĩa trầu, cuộn vải dệt trắng lớn
VỀ TỔ TIÊN
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người H’Mông
Trong thế giới tâm linh của người H’Mơng, thờ cúng tổ tiêN có một ý nghĩa hết
sức quan trọng, khơng chỉ thể hiện niềm tin, mà cịn là những hoạt động tín ngưỡng
tơn giáo thiêng liêng. Tín ngưỡng này có vai trị to lớn để người H’Mơng nhớ đến
cội nguồn và văn hóa dân tộc. Người H’Mơng quan niệm rằng, tổ tiên là những
người đã chết trong 3 đời trở lại (cha, ông, cụ). Người H’Mông bao giờ cũng phải
làm 3 chiếc bánh dày tượng trưng cho 3 thế hệ những người đã khuất (ông bà, bố
mẹ và những người bằng vai đã qua đời). Nếu không có 3 chiếc bánh dày đó, ơng
bà tổ tiên sẽ không về vui Tết cùng con cháu.
Theo các cụ già người H’Mơng cho biết, trong truyền thống người H’Mơng khơng
có bàn thờ, chỗ cắm hương là ống tre gài lên tường và khi cúng thì kê một cái bàn
ở phía dưới và đặt đồ cúng lên. Lễ vật cúng tổ tiên là con gà trống có lơng cổ màu
đỏ. Theo quan niệm của người H’mông, lông của gà trống được dán trên bàn thờ tổ
tiên với ý nghĩa như sự hiện diện của linh hồn gà trống để giữ cửa cho gia đình,
bảo vệ cả gia đình 12 tháng trong năm.
Đối với người H’Mông, nơi đặt bàn thờ rất linh thiêng, chỉ có chủ gia đình mới
được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, và chỉ có đàn ơng mới được đến gần bàn thờ
TÔN GIÁO
Tuy nhiên, trước khi có sự truyền bá tơn giáo vào vùng này thì tín ngưỡng truyền
thống các dân tộc Tây Bắc tồn tại tương đối bền vững trong suốt hơn 1 thiên niên
kỷ là do đặc điểm sơn xuyên hiểm trở, sự khép kín tương đối của văn hóa bản
mường, ý thức cố kết cộng đồng, dòng tộc, tiếp biến văn hóa trong khơng gian
tương đối tĩnh. Và trong trường lịch sử của xã hội Tây Bắc thời trung đại, khi đạo
Phật ln ngự trị, có thời kỳ trở thành quốc giáo của Đại Việt và mặc dù giáp với
Lào và phía Nam Trung Quốc cũng như khu vực đồng bằng trung du Bắc bộ nơi
đạo Phật phát triển nhưng người Thái và người Mông vẫn không theo tôn giáo này.
Hiện nay, ở khu vực Tây Bắc có sự hiện diện của các tôn giáo lớn, như: Phật
giáo, Công giáo, Tin lành và khoảng 20 hiện tượng tôn giáo mới. Sự du nhập và
phát triển của các tôn giáo, đặc biệt là đạo Tin lành vào vùng đồng bào dân tộc
thiểu số đã kéo theo nhiều biến đổi trong quan hệ dân tộc, tôn giáo ở khu vực này.
Nhưng nổi bật hiện tại chính là Cơng giáo và Tin lành.
Yếu tố cơ bản để nhận diện các cộng đồng dân tộc - tôn giáo hiện nay là
niềm tin tôn giáo và thực hành tôn giáo trong các cộng đồng có cùng đức tin. Cơng
giáo ở Lào Cai n bái chủ yếu là của cộng đồng người Mông, nhưng hiện tại với
hơn 36 000 tín đồ cho thấy nơi đây đã hình thành một liên kết chặt chẽ, thống nhất
điều hành các sinh hoạt theo cơ cấu giáo phận – giáo hạt – giáo sứ - giáo họ.
Đạo Tin lành du nhập và phát triển vào khu vực này từ những năm 80 của
TK XX, cũng đã hình thành một thiết chế tôn giáo tộc người, hiện đang nằm trong
cộng đồng người Mông – Dao. Các tổ chức Tin lành khơng có sự liên kết chặt chẽ
với nhau, khơng có sự quản lý thống nhất nên hiện nay, khoảng hơn 150 nghìn
người Mơng và người Dao theo đạo ở khu vực quy tụ với nhau trong các sinh hoạt
của những điểm, nhóm Tin lành và chịu sự quản lý theo từng hệ phái.
Những năm gần đây Phật giáo cũng đang nỗ lực khơi phục lại sự hiện diện
của mình trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở khu vực Tây Bắc nhưng kết quả
vẫn còn khá khiêm tốn. Mặc dù, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành lập được tổ
chức giáo hội địa phương (Ban trị sự Phật giáo) ở cả 6 tỉnh của khu vực Tây Bắc
và ở một số tỉnh đã xây dựng được những ngôi chùa khá to, đẹp, nhưng sức hút của
Phật giáo đối với đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế.
NGHỆ THUẬT
Lĩnh vực văn hóa thể hiện cái nhìn thẩm mỹ của nhân dân Tây Bắc có nhiều nét
độc đáo và trở thành một trong những dấu hiệu làm nên đặc trưng văn hóa vùng
nơi đây
Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa chuyên nghiệp, bác học chưa xuất hiện
nhưng tác phẩm của họ vẫn lưu truyền chủ yếu bằng phương thức truyền miệng
Mỗi dân tộc trong vùng đều có một kho sáng tác với vốn ngơn từ giàu có và đủ thể
loại từ tục ngữ, thành ngữ, đồng dao, giao duyên, cho đến lời khấn, lời bùa chú, các
áng văn trong lễ tang, trong lễ hội, các bài văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể
trong đám cưới, các thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười v.v...
Người Thái có cả truyện thơ lịch sử, kể lại quá trình thiên di của họ vào Tây Bắc
như bản sử ca Dõi theo bước đường chinh chiến của ông cha (Táy pú Xớc) hay
Lịch sử bản mường (Quán tố mướng)
Do đã tách ra từ mấy thế kỉ và sống giữa những cộng đồng tộc người khác, nên
người Mường Tây Bắc còn có những áng văn hiếm thấy ở các vùng Mường như
"Vườn hoa - Núi cói"
Các truyền thuyết của từng dân tộc, một mặt là để khẳng định nguồn gốc của họ
với những nhóm đồng tộc cư trú ở các vùng văn hóa khác ;mặt khác lại gắn bó với
vùng đất và trình diễn lịch sử của họ trên mỗi miền đất nơi họ sinh sống, và góp
phần làm nên dấu hiệu đặc trưng của vùng văn hóa Tây Bắc
Có một sở thích âm nhạc chung cho hầu hết các dân tộc Tây Bắc, một sở thích
khơng thấy hoặc ít thấy ở các vùng khác. Đó là hệ nhạc cụ hơi có lưỡi gà bằng tre,
bằng đồng hay bằng bạc: Pí pặp, khèn bè Thái, sáo và khèn H'mơng. Ngồi ra, mỗi
dân tộc đều có bản sắc riêng như cây Tính Tẩu Thái, Ống ôi Mường, Hưn mạy
(đao đao) Khơmú, đàn trịn và đàn ba dây Hà Nhì . . .
Có thể nói xem nghệ thuật múa dân tộc là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc:
• Người Khơmú thì có điệu múa Vêr gng
• dân tộc Dao có điệu múa chng
• Người Mường thì nổi tiếng là về múa sạp
Nghệ thuật “xoè“ “ Múa Xòe” ( đây đưọc xem là tinh hoa dân tộc)hay còn được
gọi với cái tên khác là “Xe khăm khen” là một đặc sản nghệ thuật múa Thái và trở
thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc. Theo như người Thái quan niệm "Khơng xịe
khơng tốt lúa; Khơng xịe thóc cạn bồ; Khơng xịe hoa sẽ tàn héo;Khơng xịe trai
gái khơng thành đơi”. Vì thế nên điệu múa xoè là biểu tượng tượng trưng cho tình
yêu của dân tộc Thái, từ tình yêu cuộc sống lao động cần cù đến tình u đơi lứa,
người Thái thường tổ chức múa xòe trong hội xuân, hội mùa và hội cưới.Người
Thái có Xịe vịng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với sự tham gia đông đảo
của già, trẻ, gái trai trong làng. điệu múa làm cho mọi người xích lại gần nhau hơn
trong tiếng chiêng trống rộn ràng. Ngồi ra cịn có Xịe điệu của người Thái trắng
ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên đến Lai Châu, Phong Thổ.
Tương truyền có đến 32 điệu xịe do các cơ thanh nữ múa trong tiếng tính tang dịu
dàng của hai chàng trai. X vịng sơi nổi bao nhiêu thì xịe điệu nhẹ nhàng, tinh tế
bấy nhiêu.
- Người H’mông nổi tiếng về các điệu múa khèn, đá châm hùng dũng của nam giới
Múa khèn (Tang quây) của đồng bào dân tộc Mông ở tỉnh Bắc Kạn thuộc loại hình
nghệ thuật trình diễn dân gian, đã có từ lâu đời và được lưu truyền qua nhiều thế
hệ. Đối với người Mông, khi múa khèn không thể thiếu được loại nhạc cụ do chính
họ làm ra, đó là khèn Mơng. Với cây khèn độc đáo này, người chơi có thể thổi hơi
ra, có thể hít hơi vào. Khèn cũng là đạo cụ múa có cấu tạo phù hợp với dáng khum
người và các thế quay, nhảy. Nghệ nhân múa khèn với những bước nhún, bước
đảo, bước quay hoặc vừa ôm khèn, vừa lăn mình trên đất tạo nên vũ đạo rất đẹp.
Tiếng khèn dường như đã trở thành một phương thức để người Mông chuyển tải,
thổ lộ những tâm tư nguyện vọng của mình. Động tác múa khèn rất đa dạng, phong
phú với những động tác cơ bản là khom lưng, quay hất gót tại chỗ và quay hất gót
di động trên vịng quay lớn rồi thu hẹp dần theo hình xoắn ốc…, với tốc độ càng
nhanh càng điêu luyện. Đối với các bài khèn vui chơi thì động tác nhảy, múa mãnh
liệt, phóng khống và khó hơn, tiếng vỗ phải kêu, mà tiếng khèn vẫn không dứ.
tiếng khèn d ường như là biểu tượng cho sức mạnh, nghị lưc của nguời mông để
chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt hiểm trở nơi núi rừng Tây Bắc. Tiếng
khèn ngấm vào máu thịt, như là phần hồn của người Mông. Đối với đồng bào dân
tộc Mông, trong những dịp lễ hội, Tết đến xuân về không thể thiếu tiếng khèn,
cùng với những trò chơi dân gian. Đây được coi như là linh hồn của người Mông
gửi gắm và thể hiện tiếng lịng của mình với bạn bè, với cộng đồng, với thiên
nhiên, núi rừng và thể hiện giá trị văn hóa, làm nên bản sắc độc đáo riêng của
người Mông. Các bài biểu diễn múa khèn bao giờ cũng có nội dung vui nhộn,
mang ý nghĩa chúc tụng và mời bạn bè cùng tụ họp, vui chơi. Tiếng khèn làm quên
đi những khó khăn, vất vả sau một năm chăm chỉ lao động mệt nhọc, góp phần gắn
kết tình bạn, tình u, tình làng xóm với nhau.
2. VÙNG VIỆT BẮC
1.Lịch sử, địa lý, địa hình , đặc điểm dân cư
a)Lịch sử:
Từ thời các vua Hùng liên minh giữa người Âu Việt – tổ tiên của người Tày với
những cư dân Lạc Việt tổ tiên của người Việt.
Thời tự chủ, cư dân Việt Bắc có vai trị rất quan trọng trong những cuộc kháng
chiến chống quân xâm lược như Tống, Nguyên- Mông, Thanh.
Đặc biệt Việt Bắc trở thành khu căn cứ địa vững chắc cho các cuộc cách mạng
trong những năm kháng chiến chống Mỹ, pháp
Do đos khi nhắc đến VB, người ta thường nói đến quê hương cách mạng, là chiến
khu, là nơi ghi dấu bao chiến công của nhân dân ta qua nhiều năm dựng nước và
giữ nước.
b)Địa lý
Khu Việt Bắc nằm ở vị trí có vĩ độ cao nhất cả nước. Phía bắc là các dãy n cao
biên giới, phí đơng là chân núi sườn tây của cánh cung sơng Gâm, phía nam là dãy
núi thấp bắc Tam Đảo, phía tây là đứt gãy sông Hồng-ranh giới của miền TB &
BTB.
-TỌA ĐỘ ĐỊA LÝ: vùng Việt Bắc này nằm ở những vĩ độ cao nhất, trong các vĩ
tuyến từ 21 độ đến 23 độ vĩ bắc.
cĐịa hình
Chủ yếu là núi trung bình và núi cao, cao nguyên. Nổi bật với các khối núi và dãy
núi cao biên giới phía bắc và thấp dần về phía nam phù hợp với sơng ngịi. - Khu
vực cao trên 1000m là gồm sơn nguyên Bắc Hà, núi vòm sông Chảy, dãy Pu Tha
Ca, núi Phia Biooc. o Trong đó khối granit dạng vịm ở thượng nguồn sơng Chảy là
một khối nâng hung vĩ có độ cao và chia cắt lớn, địa hình hiểm trở. Ngồi các đỉnh
núi trên 2000m, cịn có các bậc địa hình là các bề mặt san bằng cổ ở độ cao 500600, 700-900, 1100-1300, 1800-2000m. - Các cao nguyên đá vôi ở cực bắc bao
gồm các dãy núi đá vôi Quảng Bạ, Đồng Văn, Mèo Vạc…là các cao nguyên với
địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn, thiếu nước.. - Ở trung tâm khu là cánh cung
sông Gâm và nối tiếp là các đỉnh núi cao từ 1500-2000m như Phia Booc, Phia Ya. Tiếp nối với khu vực núi cao là vùng đồi núi thấp.
TỒN VÙNG CĨ 5 HỆ THỐNG SƠNG CHÍNH: Sơng Thao, sông Lô, hệ thống
các sông Cầu, sông Thương, Lục Nam; hệ thống các sông này chảy vào Tây Giang
và các sông ở miền duyên hải
d) Đặc điểm dân cư
-Việt Bắc nói tới địa bàn của sáu tỉnh “Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang”.
Tuy nhiên, ranh giới vùng văn hóa Việt Bắc sẽ rộng hơn địa bàn này. Nó bao
gồm thêm cả phần đồi núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và tỉnh
Quảng Ninh.
CƯ DÂN: Chủ yếu ở vùng Việt Bắc sống là Tày và Nùng
- Ngồi ra cịn có một số dân tộc ít người sống là Dao, H’ mơng, Lơ Lơ, Sán Chay
KHÍ HẬU VÙNG VIỆT BẮC: Đây là vùng có mơi trường tự nhiên với dấu hiệu
chuyển tiếp từ tự nhiên nhiệt đới sang cận nhiệt đới. Do nằm ở vị trí địa đầu đất
nước về phía Đơng Bắc nên Việt Bắc là vùng đón nhận đầu tiên gió mùa đơng bắc
và chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất, cịn về mùa hè vùng Việt Bắc nắng nóng oi bức.
2. Văn hóa vật chất
- Ẩm thực:
+ Việc chế biến món ăn của cư dân Tày – Nùng, một mặt có những sáng tạo, một
mặt tiếp thu kĩ thuật chế biến của các tộc lân cận như Hoa, Việt v.v….
+ Bữa ăn của cư dân Việt Bắc, mang tính bình đẳng, nhân ái. Tất cả các thành viên
trong nhà ăn chung một mâm, khách đến nhà rất được ưu ái, nể trọng.
- Sản xuất:
+hoạt động trồng trọt: chủ yếu là cây lương thực( lúa, ngô, khoai...) và một số loại
cây ăn quả. do địa hình đồi núi nên ruộng bật thang được xem là nét độc đáo trong
hoạt động sản xuất của việt bắc.
+ hoạt động chăn nuôi: nuôi gia súc lớn: trâu bò....; gia cầm: gà vịt....
=> do địa hình chủ yếu là đồi núi nên cuộc sống của người dân là tự cung tự cấp ,
gắn liền với thiên nhiên.
+ người dân còn dệt vải thổ cẩm để phục vụ nhu cầu của người dân trong vùng và
buôn bán.
+ hoạt động buôn bán: với cấu trúc địa hình đặc biệt nên cũng có những hình thức
bn bán đặc biệt, mỗi tháng sẽ có các cuộc hợp chợ được gọi là chợ phiên sẽ được
tổ chức vào những ngày cố định để người mua và người bán cùng đến 1 lúc mà
trao đổi mua bán...
- Cư trú:
+ Nhà sàn thường được làm tựa lưng vào đồi núi và mặt hướng ra khơng gian
thống đãng, tránh núi non sơng ngịi, vì người dân quan niệm rằng khi hướng núi
sông hướng vào nhà sẽ mang tai hoạ, việc không mai đến cho gia chủ.
+ Người Tày – Nùng có hai loại nhà chính : nhà sàn và nhà đất. Nhà sàn là dạng
nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn bốn mái. Nêú là nhà sàn bốn
mái, hai mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn hai mái chính. Cửa có thể mở ở mặt
trước hoặc đầu hồi, cầu thang lên xuống bằng tre, gỗ, nhưng số bực bao giờ cũng
lẻ, không dùng bậc chẵn. Nhà đất là loại nhà xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng
cũng có rất nhiều thay đổi so với ngôi nhà sàn về quy mô, kết cấu, bố cục bên
trong, nhà đất có điều đặc biệt là mùa nóng thì mát, mùa lạnh lại ấm tạo cảm giác
ấm áp trong gia đình . Ở một số vùng cịn có loại nhà nửa sàn nửa đất, đây là một
loại nhà đặc biệt, vừa mang tính chất nhà đất vừa mang tính chất nhà sàn.
+ Nhà sàn: Dạng nhà phổ biến, gồm 2 loại là: Sàn 2 mái và sàn 4 mái. Nếu là nhà
sàn 4 mái thì 2 mái đầu hồi bao giờ cũng thấp hơn 2 mái chính.
- Thời gian:
- Đi lại: do địa hình chủ yếu là đồi núi nên người dân duy chuyển chủ yếu bằng
đường bộ và có những chiếc xe chun leo núi,
***Thêm vơ khi nói:
*hiện tại là hai dân tộc, nhưng người Tày và người Nùng lại có những nét gần gũi,
sự gần gũi giữa họ là tương đối. Trong quan hệ với văn hóa Hán, người Nùng chịu
nhiều ảnh hưởng của Hán tộc nhiều hơn người Tày, người Tày chịu ảnh hưởng của
văn hóa Việt nhiều hơn. Về phương diện tổ chức xã hội, cư dân Tày – Nùng chủ
yếu sống trong các bản ven đường, cạnh sông suối hay thung lũng. Bản là đơn vị
cơ sở nhỏ nhất. Các gia đình trong bản và các thành viên hợp lại thành một cộng
đồng dân cư và có tổ chức
+ Đơn vị xã hội nhỏ nhất của người Tày – Nùng là gia đình, lại là gia đình phụ hệ,
chủ gia đình vẫn thường là người cha hay người chồng, làm chủ toàn bộ tài sản và
quyết định mọi cơng việc trong nhà, ngồi làng. Do vậy, ý thức trọng nam khinh nữ
khá đậm trong cộng đồng, sự phân biệt đối xử còn thấy rõ trong việc phân chia mặt
bằng sinh hoạt trong nhà. Nhà ngồi bao giờ cũng dành riêng cho đàn ơng. Trừ các
bà già, phụ nữ không bao giờ được ở nhà ngồi.
3.Văn hóa tinh thần:
Phong tục tập qn:
Phong tục, tập quán được xem là lĩnh vực rộng lớn nhất của văn hóa. Ở đâu có con
người ở đó có phong tục, tập quán. Phong tục, tập quán tạo nét khác biệt, độc đáo
trong các nền văn hóa của các dân tộc khác nhau, của các di sản văn hóa, các
nguồn tài nguyên du lịch văn hóa và của các sản phẩm du lịch văn hóa của các
quốc gia khác
nhau. Có rất nhiều quan niệm khác nhau về phong tục, tập qn. Chúng ta có thể
lựa
chọn cho mình những quan niệm phù hợp để nhận thức đối tượng.
Theo từ điển tiếng việt giải thích rằng “Phong tục là thói quen đã ăn sâu vào đời
sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo”; “Tập quán là thói quen đã
thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày, được mọi
người công nhận và làm theo.”
Phong tục, tập qn ln mang tính lịch sử, tính dân tộc, tính vùng miền và tính
giai cấp. Thời đại nào thì phong tục, tập quán ấy. Khơng có phong tục, tập qn
chung
cho mọi thời đại. Đây là thước đo văn hóa mang tính lịch sử. Chuẩn mực văn hóa
được
thể hiện rõ trong phong tục, tập quán được thấy trên tất cả các mặt của đời sống
con
người. Chỉ xét riêng văn hóa ăn, mặc, ở... con người trong các thời đại khác nhau
là
hoàn toàn khác nhau. Dân tộc nào thì phong tục, tập qn ấy. Đó là sự khác biệt
giữa
các văn hóa dân tộc, bởi mỗi dân tộc có điều kiện sống riêng, có đặc điểm chủng
tộc
riêng, nên thái độ ứng xử văn hóa rất khác nhau.
Hay nói cách khác, điều kiện tự nhiên
đã chi phối mạnh mẽ những thói quen văn hóa của con người, cho nên chúng ta
thấy
phong tục, tập quán của người miền xuôi khác với miền núi hay miền biển, người
vùng
nhiệt đới khác với người ở xứ ôn đới, hàn đới...
* Một số phong tục tập quán tiêu biểu của đồng bào các dân tộc Lạng Sơn
Lạng Sơn, với 7 dân tộc cùng sinh sống đan xen ( trong đó đồng bào Tày, Nùng
và Dao là những cư dân chiếm số đông), trải qua hàng nghìn năm lịch sử, qua
nhiều thế
hệ, họ đã cùng vun đắp nên nhiều giá trị văn hóa tốt đẹp, trong đó phải kể đến các
phong tục, tập quán như:
- Tập quán sinh đẻ và nuôi dạy con cái
- Tập quán đặt tên con, tập quán cấp sắc
- Tục lệ cưới xin; ma chay
- Tục mừng sinh nhật
- Tục lệ vào nhà mới
- Tục lệ kết bạn tồng; nhận họ, kết thân, nhận con nuôi
- Tục hát giao duyên
- Tập quán tổ chức bữa ăn, tổ chức gia đình, dịng họ
- Tập qn ứng xử trong dịng họ và ngồi xã hội…
Tín ngưỡng tơn giáo:
Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân Việt Bắc có những nét cơ bản giống với các
khu vực khác. Về tín ngưỡng tơn giáo, tín ngưỡng dân gian của cư dân Tày – Nùng
hướng niềm tin của con người tới thần bản mệnh, trời – đất, tổ tiên. Các thần linh
của họ rất đa dạng, có khác là nhiều thần như thần núi, thần sơng, thần đất. Ngồi
ra lại có các vua, có Giàng Then, ý thức cộng đồng được củng cố thông qua việc
thờ thần bản mệnh của mường hay của bản. ý thức về gia đình, dịng họ được, củng
cố thơng qua việc thờ phụng tổ tiên. Mỗi gia đình có một bàn thờ tổ tiên đặt ở vị trí
trạng trọng nhất trong nhà. Ngồi ra, trong nhà họ cịn thờ vua bếp. Diện mạo tơn
giáo Việt bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn giáo như Khổng giáo, Phật
giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh của người dân ở Việt Bắc,
chùa thờ Phật ít hơn dưới đồng bằng, nhưng cũng có những chùa đáng lưu ý, như
chùa Hang, chùa úc Kỳ ở Bắc Thái, chùa Diên Khánh, chùa Vinh Quang, chùa Nhị
Thanh, chùa Tam Thanh ở Lạng Sơn. Tam giáo được cư dân Tày tiếp thu gần giống
với người Việt, nhưng ở mức độ thấp, trong sự kết hợp với các tín ngưỡng vật linh
vốn có từ lâu đời trong dân gian.
Lễ hội:
Lễ hội của cư dân Tày – Nùng rất phong phú. Ngày hội của toàn cộng đồng là hội
Lồng tồng (hội xuống đồng), diễn ra gồm hai phần : Lễ và hội. Nghi lễ chính là
rước thần đình và thần nơng ra nơi mở hội ở ngồi đồng. Một bữa ăn được tổ chức
ngay tại đây. Phần hội căn bản là các trò chơi như đánh quay, đánh yến, tung còn,
ảo thuật… Như vậy, về bản chất, hội lồng tồng là một sinh hoạt văn hóa. Nói đến
sinh hoạt văn hóa của cư dân vùng Việt Bắc, khơng thể khơng nói đến sinh hoạt hội
chợ ở đây là nơi để trao đổi hàng hóa, nhưng lại cũng là nơi để nam nữ thanh niên
trao duyên, tỏ tình. Người ta đã từng nói đến một loại sinh hoạt văn hóa hội chợ ở
vùng này, và có thể coi như một sinh hoạt vãn hóa đặc thù của vùng Việt Bắc. Tộc
người chủ thể : Tày-Nùng với lịch sử và văn hóa của họ tạo ra nét đặc thù này.
Nghệ thuật :
Hát Then - đàn tính là hình thức nghệ thuật tín ngưỡng được các dân tộc Tày Nùng trong tình u u thích . Hát Then - đàn tính ngồi nghệ thuật diễn xướng
đặc sắc cịn là loại hìn dân ca tín ngưỡng gắn với tâm linh của đồng bào dân tộc
Tày Nùng . » ngoài yếu tố tâm linh , hát Then cịn có ý nghĩa vui chơi khi tết đến
xuân về , giãi bày nỗi lòng , thể hiện tình yêu trai gái gợi ca quê hương bản làng ...
-Ngôn ngữ :
Về chữ viết, vùng Việt Bắc với người Tày – Nùng, chữ viết trải qua các giai đoạn :
giai đoạn cổ đại khơng có chữ viết, giai đoạn cận đại có chữ Nơm, giai đoạn hiện
đại, vừa có chữ Nơm, vừa có chữ Latinh. Năm 1960, Đảng và Nhà nước ta đã giúp
người Tày – Nùng xây dựng hệ thống chữ viết theo lối chữ Quốc ngữ, bằng chữ cái
Latinh. Cũng chính vì vậy, nét đáng chú ý là cư dân Tày – Nùng ở Việt Bắc đã có
những nhà văn viết văn bằng chữ viết dân tộc. Đáng kể là các tác giả như Hoàng
Đức Hậu, Nơng Quốc Chấn, Bàn Tài Đồn v.v…
4. Văn hóa xã hội
Văn hóa làng xã: Làng xã là nơi sinh hoạt, sinh sống của những người nông dân, từ
thời xa xưa thì nơi ghi dấu bao chiến cơng anh hùng của qn dân ta, có truyền
thống đồn kết và đấu tranh chống giặc ngoại xâm rất mạnh mẽ. Có rất nhiều sinh
hoạt văn hóa tập thể của làng xã Việt Bắc, đặc biệt là các sinh hoạt hội chợ. Đó là
nơi để trao đổi hàng hóa và cũng là nơi để nam nữ thanh niên trao dun, tỏ tình.
Đó cũng có thể coi là một sinh hoạt văn hóa đặc thù ở vùng Việt Bắc.
Văn hóa đơ thị: Văn hóa đơ thị, hay cịn gọi là văn hóa thành thị hoặc văn hóa thị
dân, là văn hóa của các thị trấn và thành phố.
3. ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
I.VĂN HÓA TỰ NHIÊN
1. Lịch sử hình thành và phát triển, vị trí địa lí, địa hình và khí hậu dân cư.
Đồng bằng Bắc Bộ được coi là cái nơi của văn hóa Việt Nam, có lịch sử phát triển
vơ cùng lâu đời, đây là nơi thành lập ra nhà nước Văn Lang đàu tiên của cả nước
ta, đây còn là nơi chứng kiến những trận thư hùng của cha ông ta từ thời kì khai
mang bờ cỏi như Triệu, Đinh, Lý, Trần, đến giai đoạn cận đại như kháng chiến
chống Pháp, kháng chiến chống mỹ. đồng bằng Bắc Bộ cũng chính là trung tâm
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhất cả nước xun suốt các thời kì triều đại. Đó
là lý do tại sao khi nhắc đến nơi có nền văn hóa phát triển bậc nhất Việt Nam thì
địa điểm mà người người nghĩ ngay đến là Đồng bằng Bắc Bộ. Như PGS.TS Ngô
Đức Thịnh đã từng nhận xét ” Trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn
hóa Việt Nam, đồng bằng Bắc Bộ là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc.
Đồng bằng Bắc Bộ được hình thành và phát triển nhờ sự bồi đắp của 2 con sơng
chính đó là con sơng Hồng và sơng Thái Bình, gồm có 10 tỉnh thành phố. đây là 1
vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng và đất đai tương đối màu mỡ. đồng bằng
bắc bộ có một điểm đặc biệt so với các đồng bắng là nó có hệ thống đê điều tương
đối kiên cố bao quanh. nếu như các bạn có tìm hiểu thì chính là đồng bằng có diện
tích lớn thứ 2 nước ta, chỉ đứng sau đồng bằng sơng Cửu Long. Phía Tây Bắc tiếp
giáp với vùng Tây Bắc cịn phía Đơng thì tiếp giáp với vùng Đông Bắc, gọi chung
2 vùng là trung du miền núi bắc bộ.
Khí hậu ở đồng bằng Bắc Bộ vô cùng độc đáo, khác hẳn với những đồng bằng
khác, đây là vùng đồng bằng duy nhất tại Việt Nam có sự khác biệt giữ bốn mùa
xn hạ thu đơng và có 1 mùa đơng thực sự kéo dài gần 3 tháng với nhiệt độ trung
bình dưới 18 độ C. tuy nhiên, khi hậu ở đây đôi khi cũng khá thất thường, giá mùa
Đông Bắc vừa lạnh vừa ẩm vô cùng khó chịu.
Với những đặc điểm về lịch sử, địa lý, đất đai, khí hậu như trên thì dân cư ở đây có
những đặc điểm vơ cùng khác biệt so với phần cịn lại của dân cư cả nước. vì có
lịch sử phát triển lâu dài nên nơi đây dân cư ở khá sớm, hiện nay thì đồng bằng bắc
bộ là nơi có mật độ dân cư cao nhất cả nước, theo thống kê của tổng cục thống kê
thì tính đến năm 2019, mật độ dân số nơi đây là hơn 1060 km2/ người, điều này đã
tạo cho đồng bằng bắc bộ rất nhiều điều thuận lợi cả về kinh tế lẫn văn hóa, nhưng
bên cạnh đó nó cũng đem lại cho nơi này khơng ít khó khăn. trong số đó chủ yếu là
người dân tộc kinh và một vài dân tộc thiểu số khác. Người dân chủ yếu sống quây
quần thành các làng. Đây là đơn vị cơ sở của nông thôn đồng bằng bắc bộ. với
những đặc điểm tự nhiên và xã hội. như trên thì khơng q khó hiểu khi nơi đây
chính là khởi điểm của nền văn hóa lúa nước trứ danh. Bên cạnh những thời gian
nơng nhàn người dân nơi đây cịn làm 1 vài nghề khác như đánh bắt hải sản, làm
các nghề thủ cơng.
II. VĂN HĨA VẬT CHẤT
1. Văn hóa ẩm thực
Mỗi vùng miền điều có những nét đặc trưng ẩm thực vô cùng độc đáo và đáng nhớ,
Nếu miền Bắc là sự thanh đạm, nhẹ nhàng thì miền Trung nói về độ cay nồng đậm
đà không thể lẫn vào bất kỳ đâu và kết thúc bởi những sự ngọt ngào, dân dã của
Nam Bộ. Và sau đây, Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sâu hơn về ẩm thực đb bắc
bộ nhé. Không giống với ẩm thực miền Trung mang đậm bản sắc của một vùng đầy
nắng và gió, miền Nam là sự hòa trộn trong cách nêm nếm để chế biến món ăn, thì
ẩm thực miền Bắc lại in đậm cốt cách của một nền văn hóa lâu đời,và nơi đây
cũng được xem là nơi hội tụ đầy đủ các tinh hoa của ẩm thực miền Bắc với những
món ăn ngon trứ danh của một vùng đất hà thành Hà Nội.
Có thể nói, khí hậu của các miền cũng ảnh hưởng nhiều tới việc nêm nếm trong
món ăn: Miền Bắc lạnh nên ăn nhiều mỡ hơn, chế biến món ăn bằng cách xào nấu
hơn; miền Nam nóng quanh năm nên ăn rau nhiều hơn, cách chế biến thường là ăn
sống, luộc, hoặc nấu lẩu. Miền Bắc lạnh hơn nên thích ăn mặn (vị mặn hợp với
hành thuỷ – âm), và chống nóng bằng đồ chua là đủ rồi. Miền Nam nóng hơn nên
thích ăn ngọt (vị ngọt hợp với hành thổ – trung hoà) và phải dùng tới thứ cực âm là
đồ đắng (canh khổ qua) mới đủ chống nóng.
HÀ NỘI -Khi nói đến miền Bắc, điển hình là thủ đô Việt Nam – Hà Nội lại không
thể không nhắc đến món ăn làm say lịng biết bao nhiêu người khi dừng chân nơi
đây đó chính là Phở Hà Nội. Phở khơng chỉ đơn thuần là một món ăn, hơn cả thế
phở chính là món ăn đại diện cho cả một nền văn hóa từ lâu đời của nước Việt. Phở
được biết đến là một món ăn sáng đầy đủ dinh dưỡng với giá thành hợp lý đối với
người dân, phổ biến là phở bò và phở gà.
Sự đặc biệt của phở chính là nước dùng. Xương bò hoặc xương lợn cùng sá sùng
và nhiều gia vị khác như quế, gừng, thảo quả,... được ninh với lửa liu riu trong
nhiều tiếng để nấu thành nước phở ngọt xương và có vị thanh hịa quyện với các
thứ rau mùi đi kèm, tạo nên hương vị khó quên.
Ẩm thực miền Bắc cịn nổi tiếng với các món ăn ngon trứ danh như bún chả, bún
ốc, bún thang, bún đậu,…
HẢI DƯƠNG- Bánh đậu xanh Hải Dương có vị thơm, bùi của đậu, chút ngầy ngậy
mà không ngán của mỡ lợn, chút ngọt của đường kết tinh và mùi tinh dầu man mát
của hoa bưởi.Cái độc đáo, hấp dẫn của bánh nằm ở những cơng đoạn vơ cùng tỉ mỉ,
địi hỏi sự khéo léo và tinh tế của người chế biến. Bánh được cắt thành từng khối
vng nhỏ, được gói cẩn thận vào giấy bạc thành hộp nhỏ. Món này thường được
dùng khi uống trà tàu hay chè xanh. Trải qua cả trăm năm, hương vị bánh đậu xanh
vẫn không bị thay đổi nhiều, đây đã trở thành nét văn hóa ẩm thực của người dân
Hải Dương
Ẩm thực đồng bằng bắc bộ nói riêng và đất nước ta Việt Nam nói chung luôn mang
đến cho ta những điều mới lạ và bất ngờ riêng, nếu làm ra được một món ăn ngon
sẽ làm cho người thưởng thức không chỉ mê đắm món ăn mà cịn mê đắm cả một
vùng đất nơi đấy. Một điều khơng thể thiếu là tình cảm và nguyện vọng của người
làm ra nó được gửi vào mỗi món ăn. Và điều đặc biệt là người làm nên những món
ăn ngon đó sẽ tạo nên giá trị và bản sắc riêng, đặc sắc, thuần túy và thấm đẫm tinh
hoa cũng như nền văn hóa mang đến cho mỗi vùng mỗi đất nước một dấu son nổi
bật cho nền ẩm thực nước nhà.
2. Văn hóa trang phục
PGS.TS ngơ đức thịnh nhận xét: “ trong các sắc thái phong phú và đa dạng của văn
hóa Việt Nam, đồng bằng bắc bộ như là một vùng văn hóa độc đáo và đặc sắc. và 1
trong những đặc sắc này không thể khơng nhắc đến văn hóa trang phục nơi đây, đã
góp phần làm nên một bản sắc rất riêng mang đậm chất bắc bộ.
Để ứng phó với mơi trường tự nhiên nếu người phương nam sở trường ở việc tận
dụng các chất liệu có nguồn gốc từ thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng
là những chất liệu may mặc mỏng nhẹ thống thì ở miền bắc cũng như thế, Cách
ăn mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên
vùng ĐB Bắc Bộ và màu họ thường sử dụng là màu nâu gụ màu của đất. một trong
những trang phục làm nên cái hồn cho bắc bộ đó là áo tứ thân, khăn mỏ quạ , nón
quai thao cho nữ và áo the, khăn xếp cho nam.