Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

88 đề số 3 lớp 2 5 Bai thu hoach lich su dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.31 KB, 10 trang )

HỌC VIỆN
THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
--- ---

BÀI THU HOẠCH
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

(Chủ đề 3)

HỌC VIÊN:
ĐƠN VỊ CÔNG TÁC:
LỚP:

NGUYỄN ĐỨC THẮNG
Ngân hàng TMCP Đầu tư và
Phát triển Việt Nam
Sơ cấp lý luận chính trị - hành chính
Khối Doanh nghiệp Trung ương D2.5

Hà Nội, 27/03/2022


Nội dung 1. Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của
Đảng (1946-1954)?
Trả lời:
a. Bối cảnh lịch sử:
Tháng 11-1946, qn Pháp mở cuộc tấn cơng chiếm đóng cả thành phố Hải
Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát
đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để
giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.


Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho
chúng kiểm sốt an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đơng) dưới sự chủ trì của
Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía
Pháp để đàm phán, song khơng có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành dộng của Pháp
chứng tỏ chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hịa hỗn khơng cịn.
Hịa hỗn nữa sẽ dẫn dến họa mất nước. Trong thời điểm lịch sử phải quyết đoán ngay,
Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ
động tiến công ước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội.
Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào lúc 20 giờ ngày 19-12-1946, tất cả các chiến
trường trong cả nước đã đồng loạt nổ súng. Rạng sáng ngày 20-12-1946, Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh được phát đi trên Đài Tiếng nói Việt Nam.
-

Thuận lợi của nhân dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược là ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc vả đánh địch
trên đất nước mình nên có chính nghĩa, có "thiên thời, địa lợi, nhân hịa". Ta củng đã
có sự chuẩn bị cần thiết về mọi mặt nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân
xâm lược. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế,
qn sự ở trong nước và tại Đơng Dương khơng dễ gì có thể khắc phục được ngay.
-

Khó khăn của ta là tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao

vây bốn phía, chưa được nước nào cơng nhận, giúp đỡ. Cịn qn Pháp lại có vũ khí
tối tân, đã chiếm đóng được hai nước Campuchia, Lào và một số nơi ở Nam Bộ Việt
Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở miền Bắc.



Những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn đó là cơ sở để
Đảng xác định đường lối cho cuộc kháng chiến.
b. Phân tích nội dung đường lối kháng chiến
Dựa trên thực tiễn đối phó với những âm mưu, thủ đoạn của Thực dân Pháp,
Đường lối kháng chiến của Đảng ta đã được hình thành và hoàn chỉnh.
Trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc ngày 25/11/1945, Đảng ta đã xác định
kẻ thù chính và nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dân Pháp.
Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ I ngày 19/10/1946 đã nhận định “khơng
sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”, và từ đó đề
ta những chỉ trương, biện pháp cụ thể về tư tưởng và tổ chức cho quân dân bước vào
cuộc chiến đấu mới.
Chỉ thị Công việc khẩn bây giớ (5/11/1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên
những cơng việc tầm toàn cục, chiến lược.
Cuối cùng, Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể
hiện tập trung trong ba văn kiện lớn: Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ
Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (20/12/1946) của
Hồ Chủ Tịch, và Tác phẩm được tổng hợp loạt bài đăng của Tổng Bí thư Trường
Chinh Kháng chiến nhất định thẳng lợi (1947).
Nội dung đường lối:
 Mục đích kháng chiến:
- Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược: Đây là mục tiêu thiết yếu trong
giai đoạn này bởi thực dân Pháp đã quay trở lại Việt Nam xâm lược nhằm đô hộ nước
ta thêm một lần nữa. Chỉ khi đánh bại thực dân Pháp thì đất nước mới có thể độc lập,
dân tộc mới được tự do.
- Giành thống nhất và độc lập.
 Tính chất kháng chiến:
- Tính chất dân tộc giải phóng: Cuộc kháng chiến mà Đảng phát động có mục
đích giải phóng dân tộc khỏi ách đơ hộ từ tay thực dân Pháp, là một cuộc chiến tranh
chính nghĩa.



- Tính chất dân chủ mới: Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến
tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hịa bình nhằm loại bỏ chế độ thực dân, đơ
hộ trước kia.
 Chính sách kháng chiến:
- Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp: Cuộc chiến của
thực dân Pháp gây ra tại Đông Dương là một cuộc chiến tranh phi nghĩa, khơng được
nhân dân tại chính nước Pháp ủng hộ. Vì thế khi liên kết với những người dân u
chuộng hịa bình tại Pháp, ta có thể tạo thêm một mặt trận ngay đằng sau lưng địch,
làm kẻ địch suy yếu, mất đi sự ủng hộ của nhân dân.
- Đoàn kết Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do hịa bình: Mên, Lào là
các quốc gia trên cùng bán đảo Đơng Dương và cùng có chung kẻ thù là thực dân
Pháp. Khi liên kết cùng với 2 quốc gia này, sức mạnh của ta sẽ được gia tăng, pham vi
hoạt động kháng chiến cũng được mở rộng. Việc tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc
yêu chuộng tự do hịa bình có thể đem lại cho chúng ta sự ủng hộ trên trường quốc tế
cũng như cả vật chất (nếu có).
- Tồn dân kháng chiến.
- Tự cấp, tự túc về mọi mặt: đây là cuộc kháng chiến của dân tộc ta, không nên
trông cậy vào sự giúp đỡ từ bên ngoài mà phải huy động sức mạnh của tồn dân, nỗ
lực vượt khó để kháng chiến đi đến thắng lợi.
Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
 Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến:
- Đồn kết tồn dân: Thực hiện qn, chính, dân nhất trí…
- Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn dân kháng chiến, toàn
diện kháng chiến, trường kì kháng chiến.
- Giành quyền độc lập, bảo tồn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc.
- Củng cố chế độ cộng hòa dân chủ.
- Tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc.
Có thể nói, Đảng đã đề ra hai nhiệm vụ song song: vừa kháng chiến, vừa kiến quốc.

 Phương châm tiến hành kháng chiến:


- Kháng chiến toàn dân: Thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng
xóm là một pháo đài. Huy động lực lượng toàn dân tộc để kháng chiến chống Pháp.
- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch trên mọi mặt trận: chính trị, qn sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao:


Chính trị: tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền. Kết hợp đoàn kết

với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng hịa bình.


Qn sự: Vũ trang tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Triệt

để dùng du kích, vận động chiến. Bào toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài.
Vừa đánh vừa tiếp tục vũ trang và đào tạo thêm cán bộ.


Kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến (phá hủy tất cả những thứ địch có thể

dùng được khi ta rút lui), xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập trung phát
triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và quốc phòng- những
ngành thiết yếu phục vụ cho kháng chiến trường kì, tồn dân.


Văn hóa: Xóa bỏ văn hóa cũ là phong kiến, thực dân để xây dựng văn

hóa mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc(văn hóa mang bản sắc dân tộc), khoa học

(văn hóa hiện đại, phù hợp với cuộc sơng mới), đại chúng (văn hóa phù hợp
với đại đa số quần chúng, không quá cao hay lạc hậu).


Ngoại giao: Thêm bạn (đặc biệt liện hiệp với dân tộc Pháp chống bọn

phản động thực dân), bớt thù, biểu dương lực lượng. Sẵn sàng đàm phán nếu
Pháp công nhận việt nam độc lập.
- Kháng chiến trường kỳ: Chống lại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của giặc
Pháp, nhằm phát huy tất cả lợi thế “ thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, chuyển từ tương
quan yếu hơn thành mạnh hơn, đánh thắng địch. Đây là phương châm hợp lý vì khi bắt
đầu vào cuộc kháng chiến, lực lượng ta còn yếu, địch thiện chiến, mong muốn đánh
nhanh thắng nhanh nen ta cần tránh đối đầu trực diện với chúng. Ta kéo dài cuộc chiến
có thể gây thiệt hại lớn cho địch về chi phí vật chất lẫn nhân lực, trong khi đó ta có
thêm thời gian thích ứng, chuẩn bị, đào tạo thêm quân đội, tranh thủ sự ủng hộ của các
dân tộc u chuộng hịa bình.
- Dựa vào sức mình là chính: Tự cấp, tự túc về mọi mặt. Mới bắt đầu vào cuộc
kháng chiến, ta bị địch bao vây, phải tự trang bị cho chính mình để duy trì kháng chiến


lâu dài mới có thể chờ thời cơ phá vỡ vịng vây, tranh thủ sự giúp đỡ từ bên ngồi
được.
 Triển vọng kháng chiến:
Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi. Đảng đã nhận định ,đánh
giá tình hình hợp lý, khích lệ tinh thần nhân dân về một cuộc kháng chiến nhất định
thành côngmột cách đúng lúc khi cuộc kháng chiến mới bắt đầu, giúp cuộc kháng
chiến có thể sớm đi vào đúng quỹ đạo và phát triển ổn định.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng
đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về

chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước
lúc bấy giờ. Lịch sử đã chứng minh, đường lối kháng chiến của Đảng được công bố
sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và phát triển
đúng hướng, vượt qua nhiều gian khó, từng bước vững chắc đi tới thắng lợi cuối cùng.


Nội dung 2. Nội dung, ý nghĩa của nội dung đường lối cách mạng miền Nam
được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 11 và 12 khóa III (năm 1965)?
Trả lời:
a. Bối cảnh lịch sử:
Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào,
chiến sĩ ở miền Nam phát triển nhanh chóng, thu được những thắng lợi ngày càng to
lớn, khiến cho chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị thất bại nghiêm
trọng. Trước tình hình ấy, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”,
tìm mọi cách để giữ vững những vị trí chiến lược và lực lượng. Chúng từng bước tăng
cường lực lượng chiến đấu của quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam để quyết giữ một
số vùng chiến lược quan trọng, đồng thời, mở rộng hoạt động không quân và hải quân,
ném bom bắn phá miền Bắc để gây áp lực hòng làm giảm sức tiến công của ta ở miền
Nam.
Trước yêu cầu mới của cách mạng, trong năm 1965, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng đã họp Hội nghị lần thứ 11 (tháng 3-1965), ra Nghị quyết về tình hình và
nhiệm vụ cấp bách trước mắt và Hội nghị lần thứ 12 (tháng 12-1965) với Nghị quyết
về tình hình và nhiệm vụ mới.
b. Nội dung đường lỗi cách mạng miền Nam được thể hiện trong Nghị quyết
Trung ương 11 và 12 khóa III:
Chủ trương của Đảng thể hiện ở nội dung cơ bản của qua hai Nghị quyết:
-

Hội nghị lần thứ 11 đã chủ trương tiếp tục xây dựng miền Bắc thành một


hậu phương lớn với định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có chiến tranh. Đó là
một chủ trương thích hợp, bảo đảm miền Bắc tiếp tục làm tròn nghĩa vụ của hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị Trung
ương lần thứ 11, cách mạng miền Bắc đã có bước chuyển hướng kịp thời về kinh tế,
quốc phòng, tư tưởng và tổ chức để tiến lên giành thắng lợi mới trong những giai đoạn
tiếp theo của cách mạng.
-

Hội nghị lần thứ 12 đã phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa

ta và địch, khẳng định thất bại tất yếu của đế quốc Mỹ, vạch rõ nhiệm vụ cụ thể cho
cách mạng hai miền, động viên quân đội và nhân dân cả nưóc giữ vững chiến lược tiến


cơng, nêu cao ý chí tự lực tự cường và ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bè
bạn quốc tế, tiến lên đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược.
-

Trên cơ sở phân tích tình hình chiến trường khi Mỹ đưa quân đội viễn chinh

và quân đội của các nước phụ thuộc Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường miền
Nam, Đảng ta nhận định: tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam
vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân mới. Mỹ tuy có tăng về lực lượng quân sự nhưng
lại có nhiều chỗ yếu cơ bản, nhất là về chính trị.
-

Về phía ta, từ một nửa nước có chiến tranh thành cả nước có chiến tranh với

mức độ và hình thức khác nhau. Cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt hơn nhưng ta đã
vững mạnh hơn hẳn trước, đã có sự chuẩn bị về tư tưởng và tổ chửc. Từ đó, Đảng đưa

ra kết luận:


Một là, so sánh lực lượng giữa ta và địch căn bản không thay đổi. Vì thế, ta

vẫn giữ vững và phát huy chiến lược tiến công.


Hai là, ta tiếp tục tiến công và phản cơng, kết hợp đấu tranh qn sự và

chính trị nhưng đấu tranh quân sự ngày càng có tác dụng quyết định trực tiếp.


Ba là, ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa hoạt động đối ngoại và đấu tranh

ngoại giao, tăng cưịng tiếp xúc cả cơng khai và bí mật với nhiều nước trên thế
giới, làm rõ chính nghĩa và thiện chí của ta, góp phần hình thành trên thực tế
một mặt trận nhân dân chống Mỹ.
-

Hai Hội nghị Trung ương đã khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và kiên quyết

đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào
nhằm bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.
-

Nêu rõ nhiệm vụ cấp bách ở miền Bắc lúc này là phải: “Kịp thời chuyển

hướng tư tưởng và tổ chức, chuyển hướng xây dựng kinh tế và tăng cường lực lượng
quốc phòng cho phù hợp với tình hình mới”. Đồng thời, Ban Chấp hành Trung ương

cũng nêu ra những nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Bắc là: Kịp thời chuyển
hướng nền kinh tế và tăng cường lực lượng quốc phòng cho kịp với sự phát triển của
tình hình; ra sức tăng cường cơng tác phòng thủ, trị an, bảo vệ miền Bắc, kiên quyết
đánh bại kế hoạch địch ném bom, bắn phá, phong tỏa miền Bắc bằng không quân và
hải quân; ra sức chi viện cho miền Nam để hạn chế dịch chuyển “chiến tranh đặc biệt”
ở miền Nam thành “chiến tranh cục bộ” và ngăn chặn địch mở rộng “chiến tranh cục


bộ” ra miền Bắc, kip thời chuyển hướng tư tưởng và tổ chức cho phù hợp với tình hình
mới; đẩy mạnh công tác đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bè bạn
quốc tế, vạch rõ âm mưu mới của đế quốc Mỹ đối với cách mạng miền Nam và miền
Bắc xã hội chủ nghĩa.
-

Phương châm chiến lược chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu

nước là: Đánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh, cần phải cố
gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng cách mạng của cả hai miền để mở những
cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương
đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
-

Phương châm đấu tranh là: kiên trì phương châm kết hợp đấu tranh quân sự

với đấu tranh chính trị, triệt để thực hiện ba mũi giáp cơng (qn sự, chính trị và binh
vận), trong đó đấu tranh quân sự có tácdụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày
càng quan trọng.
-

Tư tưởng chỉ đạo chiến lược là giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên


quyết tiến công và liên tục tiến công.
-

Đảng ta tiếp tục khẳng định vị trí cách mạng của hai miền Nam – Bắc vì

mối quan hệ giữa hai miền: miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn.
Hai nhiệm vụ đó khơng tách rời nhau, mà gắn bó mật thiết với nhau thực hiện khẩu
hiệu chung của nhân dân cả nước là “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc
Mỹ xâm lược”.
c.

Ý nghĩa:
Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng được đề ra tại các Hội

nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 khóa III có ý nghĩa hết sức quan trọng, có ý nghĩa
quyết định trong giai đoạn phát triển cao của cuộc chiến tranh:
-

Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công,

tinh thần độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của tồn Đảng, tồn dân, toàn
quân ta.
-

Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách



mạng trong hồn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực
tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
-

Thể hiện đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa

vào sức mình là chính và được phát triển trong hồn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới
để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Như vậy, chủ trương chuyển hướng tư tưởng ở miền Bắc được Đảng ta xác định
từ Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và tiếp tục được khẳng định, bổ sung, cụ
thể hoá ở Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (12-1965) cùng các chỉ thị, nghị quyết sau
đó của Trung ương về cơng tác tư tưởng. Đó là một chủ trương đúng đắn và có ý nghĩa
to lớn trong việc chỉ đạo công tác tuyên truyền, cổ động của Đảng ở miền Bắc thời
gian này. Từ chủ trương này, những vấn đề căn bản nhất của cơng tác tư tưởng nói
chung, cơng tác tun truyền, cổ động nói riêng được xác định kịp thời và chính xác.
Nhờ đó, cơng tác tun truyền, cổ động chính trị của Đảng ở miền Bắc được triển khai
mạnh mẽ, rầm rộ và liên tục trong suốt những năm ác liệt nhất của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, góp phần to lớn vào việc động viên, cổ vũ tinh thần chiến đấu và
sản xuất của nhân dân miền Bắc, biến sức mạnh tinh thần đó thành sức mạnh vật chất
vượt qua mọi gian nan, thử thách, giành thắng lợi cuối cùng trong cuộc chiến đấu
không cân sức giữa dân tộc ta và đế quốc Mỹ.



×