MỞ ĐẦU
Kế thừa bài học lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, trên hành trình
tìm đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định lực lượng giải phóng
dân tộc là ở toàn quốc dân. Sau khi thành lập Đảng, nắm quyền lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, Người đã quan tâm chăm lo xây dựng mặt trận nhân dân thống
nhất trên cơ sở khối liên minh công-nông-trí. Tiếp thu tư tưởng của Người, Đảng
luôn nhận thức rõ việc xây dựng khối đại đoàn toàn dân tộc trên cơ sở đồng
thuận xã hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức
mạnh tổng hợp, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm
thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, kể từ Đại hội VI đến Đại hội
XII, Đảng ta luôn khẳng định tư tưởng chủ đạo là: Khơi dậy và phát huy đến
mức cao nhất sức mạnh dân tộc, đặt lợi ích chung của dân tộc, của đất nước và
của con người lên hàng đầu, lấy đó làm cơ sở đồng thuận xã hội để xây dựng các
chủ trương, chính sách kinh tế-xã hội. Nếu trước đây, Đảng ta xác định sức
mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sức mạnh để chiến thắng kẻ thù xâm
lược, giành độc lập cho dân tộc, thì hiện nay trong công cuộc đổi mới đất nước,
sức mạnh đó được Đảng ta xác định là sức mạnh để chiến thắng nghèo nàn và
lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đồng thời, Đảng cũng nhấn mạnh tư tưởng đoàn kết phải xuất phát từ lợi ích dân
tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ
được để xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền
lãnh thổ của Tổ quốc. Qua học tập môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
và để phục vụ công tác chuyên môn của bản thân em lựa chọn đề tài “Phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc môn học của mình.
NỘI DUNG
1
1. Tầm quan trọng của Đại đoàn kết toàn dân tộc trong lịch sử Việt Nam
Đại đoàn kết toàn dân tộc - di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của
dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Tinh thần yêu nước, trọng nhân nghĩa, khoan dung, sự cố kết, đùm bọc yêu
thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở
thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc
Việt Nam. Lịch sử mấy ngàn năm tồn tại và phát triển của dân tộc ta đã chứng
minh truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
đều kết thành sức mạnh vô địch, đưa Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách
thức, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang.
Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và trong suốt 90 năm
lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối
chiến lược, là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng của đường lối chiến
lược, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã được phát huy cao độ với quyết tâm
“mang sức ta giải phóng cho ta”, “dù có hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy
Trường Sơn, cũng kiên quyết giành cho được độc lập”, khi thời cơ đến, dưới sự
lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 20 triệu người dân Việt Nam
đã nhất tề đứng dậy giành chính quyền làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 vĩ đại, đem lại nền độc lập cho dân tộc và quyền tự do cho nhân dân.
Trong kháng chiến chống Pháp, với ý chí quyết tâm sắt đá: “Chúng ta thà
hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ…” và
sự đồng lòng của toàn dân tộc: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người
trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng
lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc… ”[1] đã phát huy cao độ sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân vừa kháng chiến, vừa kiến quốc trong suốt 9 năm chống thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ lâu dài, gian khổ, để cuối cùng làm nên thắng lợi Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Đặc biệt trong công cuộc chống Mỹ, cứu nước trường kỳ, gian khổ với
khát vọng cháy bỏng của toàn thể dân tộc Việt Nam: “Không có gì quý hơn độc
lập, tự do”, tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của lãnh tụ Hồ Chí Minh “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã được
vận dụng một cách sáng tạo, phát huy tới đỉnh cao với nhiều hình thức phong
phú trong điều kiện lịch sử mới. Trong khói lửa ác liệt của chiến tranh, nhiều
phong trào thi đua sôi nổi trên tất cả các lĩnh vực ở cả miền Nam và miền Bắc
với khẩu hiệu hành động: “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ, xâm lược”, “Tìm Mỹ
2
mà đánh, tìm nguỵ mà diệt”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc
Mỹ xâm lược”, “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tay cày, tay
súng”, “Tay búa, tay súng”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một
người”... đã lôi cuốn đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, từ thành thị đến nông
thôn, từ miền xuôi đến miền núi, từ biên giới đến hải đảo hăng hái thi đua vừa
chiến đấu vừa lao động sản xuất. Tất cả những hành động đó đã biểu thị tinh
thần đoàn kết của toàn thể 31 triệu người dân Việt Nam xung quanh Ban Chấp
hành Trung ương Đảng. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã huy động cao độ sức
mạnh chính trị tinh thần và nhân tài, vật lực to lớn lần lượt đánh bại các chiến
lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, để cuối cùng dốc sức cho thắng lợi của cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, kết thúc vẻ vang sự nghiệp chống Mỹ,
cứu nước. .
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một trong
những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức và cũng là điều kiện bảo đảm
thực hiện thành công sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học kinh nghiệm này còn nguyên giá
trị và cần tiếp tục phát huy nhằm khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
2. Đảng lãnh đạo phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong
công cuộc đổi mới hiện nay
Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước - một cuộc cách mạng vô cùng khó
khăn, phức tạp nhằm xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, Đảng đã nhận thức đúng đắn
sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc cách mạng vĩ đại
này. Tiếp tục quán triệt sâu sắc trong tư tưởng và thực hiện nhất quán quan điểm
mấu chốt: Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở
giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân
đều sống trong môi trường an toàn, an ninh và được thụ hưởng những thành quả
của công cuộc đổi mới. Vì thế, trong nhiều năm qua, Đảng chú trọng không
ngừng hoàn thiện đường lối, chủ trương về đại đoàn kết toàn dân tộc và Nhà
nước kịp thời thể chế hóa bằng các chính sách, pháp luật. Chưa khi nào, Đảng
ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc như những năm qua. Trong đó có Nghị quyết số 23-NQ/TW, Hội nghị
lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về phát huy sức mạnh đại đoàn
3
kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;
Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước; Nghị quyết số 26NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây
dựng đội ngũ trí thức; Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng đội ngũ doanh
nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
Nghị quyết số 25-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ... Cùng với đó, Nhà
nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về dân tộc, tôn giáo, thanh niên,
phụ nữ, công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sĩ, người Việt Nam ở nước
ngoài... nhằm khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, đất nước ta đang đứng trước nhiều vấn
đề mới đặt ra, tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của nhân dân, ảnh
hưởng không nhỏ tới sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó là sự phân hóa
giàu nghèo, phân tầng xã hội ngày càng gay gắt; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của người dân... còn diễn
biến phức tạp, gây bức xúc trong dư luận cùng với các biểu hiện suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chĩa mũi
nhọn tấn công, hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tế này đang
làm xói mòn lòng tin của nhân dân, trở thành thách thức đối với mối quan hệ
máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục củng
cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của toàn
dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Tất
cả những chủ trương, chính sách ấy đã dần đi vào cuộc sống, góp phần xây đắp
khối đại đoàn kết trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, tạo sự đồng thuận xã hội vì sự phát triển của đất
nước. Mọi tầng lớp nhân dân đã nỗ lực chung sức, chung lòng cùng Đảng, Nhà
nước vượt qua khó khăn, thử thách, giữ vững sự ổn định chính trị, phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và tiếp tục nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế. Qua gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhờ kế
thừa và tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc mà đỉnh cao là sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước nên
4
nhân dân ta đã đạt được “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”[3].
Trước hết, tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất quán quan điểm:
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, nhân dân là
chủ, nhân dân làm chủ; đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết
hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tiếp tục thể chế hóa phương châm
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” thành những chính sách, quy chế,
quy định cụ thể ở từng loại hình cơ sở để nhân dân phát huy quyền làm chủ trên
thực tế và thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ đối với Nhà nước và cộng đồng
xã hội. Chú trọng xây dựng, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách
và các hình thức tổ chức cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình để
nhân dân được phát huy đầy đủ quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội, có điều kiện phát triển tài năng, sức sáng tạo, đẩy mạnh sản xuất, kinh
doanh làm giàu chính đáng, mang lại lợi ích cho bản thân và cho đất nước. Đẩy
mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc
của bộ máy công quyền, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân, hoạt động hướng
mạnh về cơ sở.Theo đó, cần chú trọng quan tâm thực hiện đồng bộ, hiệu quả
nhiều vấn đề quan trọng.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ
Chính trị khóa XII; xây dựng các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước thật sự trong
sạch, vững mạnh. Qua đó, củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước.
Đẩy mạnh công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp “gần dân,
hiểu dân, học dân, trọng dân và có trách nhiệm với dân”, gương mẫu, tận tụy với
công việc, nói đi đôi với làm, thực sự là công bộc của nhân dân. Đề cao vai trò
nêu gương của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người có chức, có
quyền. Kiên quyết chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền vi phạm
quyền dân chủ của nhân dân. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong Đảng và trong
bộ máy công quyền trên cơ sở làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những hành vi
5
coi thường và làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, xử lý
nghiêm minh theo quy định của pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào
Đảng, Nhà nước.
Quan tâm chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của nhân dân;
kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn xã hội; huy
động sức dân đi đôi với bồi dưỡng sức dân; phát huy dân chủ gắn liền với giữ
nghiêm kỷ cương, phép nước, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Thực hiện
hiệu quả Quy chế dân chủ ở từng loại hình cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân phát
huy trách nhiệm công dân, đạo đức xã hội, đạo đức nghề nghiệp, xây dựng sự
đồng thuận xã hội và đề cao ý thức trách nhiệm cộng đồng, ý chí tự lực, tự
cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tích cực, chủ động tham gia xây dựng và
giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở địa phương. Thường xuyên đối thoại,
lắng nghe, tiếp thu, tập trung giải quyết các khó khăn, vướng mắc, bức xúc,
nguyện vọng chính đáng của người dân; xử lý nghiêm minh các vụ việc tiêu cực,
tham nhũng; giải quyết ổn định những vụ việc khiếu kiện đông người, không để
kéo dài, phức tạp. Chủ động định hướng dư luận và đấu tranh phản bác các luận
điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động, kẻ xấu hòng gây
mất đoàn kết trong nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc, miền núi và vùng đồng bào có đạo; rà soát, điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện
những chính sách đã có và nghiên cứu ban hành những chính sách mới để đáp
ứng yêu cầu phát triển các vùng dân tộc, vùng tôn giáo và thực hiện nhiệm vụ
công tác dân tộc, công tác tôn giáo trong tình hình mới. Quan tâm chăm lo từng
hộ dân, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vận động và giúp
nhân dân xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Phát huy
vai trò của người có uy tín trong đồng bào dân tộc, chức sắc tôn giáo trong việc
thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ
an ninh, trật tự trên địa bàn. Qua đó, tăng cường đoàn kết các dân tộc và sự đồng
thuận giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo với những người không tín
ngưỡng, tôn giáo, giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau;
đồng thời, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện kỳ thị, chia rẽ dân tộc và
những hành vi tà đạo, mê tín, dị đoan, lợi dụng dân tộc, tôn giáo làm phương hại
đến khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nhằm nâng cao vị trí, vai trò
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong thực hiện chính
6
sách đại đoàn kết toàn dân tộc. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên
nhân dân đồng tâm, hiệp lực thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; tích cực nắm bắt, phản ánh kịp thời tâm tư,
nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của
đoàn viên, hội viên; đồng thời làm tốt vai trò giám sát đối với các cơ quan nhà
nước, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng chính quyền các cấp trong sạch,
vững mạnh.
Đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp
nhân dân cùng với Ðảng, Nhà nước phát triển kinh tế - xã hội; hợp tác và hội
nhập sâu rộng kinh tế quốc tế, tham gia tích cực cuộc cách mạng công nghiệp
4.0. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông
thôn mới, đô thị văn minh”; “Ngày vì người nghèo”; “Người Việt Nam ưu tiên
dùng hàng Việt Nam”... qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của các tầng lớp nhân dân, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tăng cường các hoạt động đối ngoại nhân dân, tích cực vận động và có
chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, để họ đóng
góp trí tuệ, tài năng, tiền của xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh, giữ gìn
bản sắc dân tộc, hình ảnh con người, đất nước Việt Nam. Chủ động phối hợp với
các cơ quan chức năng nước sở tại có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
Thường xuyên tăng cường củng cố, thắt chặt mối quan hệ gắn bó máu thịt
giữa Đảng với nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng
của người dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Quyền dân chủ của người dân
phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những
quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham
gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Phải làm cho nhân
dân hiểu, thấm nhuần mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, biến thành ý chí và hành động của toàn dân và đi vào cuộc
sống. Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, phát huy sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để tập hợp các tầng lớp nhân dân trong
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh to lớn vững chắc trong công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Vận dụng đường lối của Đảng phát huy sức mạnh khối Đại đoàn
kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay
7
90 năm thực hiện xuyên suốt và nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân
tộc, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn vận
dụng một cách sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc phù hợp
với tình hình, yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp cách mạng, kiên định độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”.
Trong tiến trình ấy, trên tinh thần “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, nguyên tắc hiệp thương dân chủ
được coi là “chìa khóa vạn năng” để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp, đoàn
kết và phát huy sức mạnh toàn dân tộc làm nên những thắng lợi vĩ đại trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng “đất nước
ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tế, các cuộc vận động xã hội, các phong trào thi đua yêu nước sâu
rộng do Mặt trận và các tổ chức thành viên phát động và triển khai thực hiện
ngày càng đi vào cuộc sống, được các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng.
Trong đó, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, lá lành
đùm lá rách, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, thực hiện vệ sinh an toàn thực
phẩm, bảo vệ chăm sóc sức khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường và ứng phó
với biến đổi khí hậu, phòng, chống tội phạm, ma túy, mại dâm, HIV/AIDS và
các tệ nạn xã hội khác cùng với cuộc vận động xã hội, các phong trào “Uống
nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ngày vì người nghèo”, “Người Việt
Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc”… không chỉ có tác dụng thiết thực, tạo nên sự gắn kết
cộng đồng mà còn góp phần làm cho tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc thấm
sâu vào các tầng lớp nhân dân, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước nhanh
và bền vững, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị, gồm Đảng, chính
quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; trong đó, động lực chủ yếu để
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà
các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Để khối đại đoàn kết dân tộc được bền
chặt, đạt được sự đồng thuận xã hội, đòi hỏi mọi thành viên trong đó phải tôn
8
trọng và hành động theo những nguyên tắc và ý chí chung và mỗi quyết định
được thông qua phải là “mẫu số chung”, phản ánh, thể hiện nguyện vọng, lợi ích
của toàn xã hội.
Vì thế, để “phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng tạo của
nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm
khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần
dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết
mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa
nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc”, cần tập trung thực hiện một số giải pháp căn cốt sau:
Một là, các cấp ủy cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm
quan trọng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề năm 2020 về “Tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại đoàn
kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo
là Đảng Cộng sản, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó,
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa
quan trọng hàng đầu. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, là nhân tố bảo
đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận động, tập hợp các tầng lớp
nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của nhân dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của công dân, phát huy dân
chủ, giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục
thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW ngày 2-2-2018 của Ban Bí thư về “Giám sát
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối
với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ
chốt và cán bộ, đảng viên”, góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp
trong sạch, vững mạnh.
Ba là, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân trong tham gia xây dựng và hoàn thiện một số chính sách để củng cố
và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo đảm thắng lợi bền
9
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Mặt trận phải đoàn
kết rộng rãi, chân thành mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt quá khứ,
thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở
mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia. Mặt trận phải đa dạng hóa các hình thức tập hợp, động viên các tầng
lớp nhân dân để tạo sự đồng thuận, hiệp lực trong thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, đẩy mạnh thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu
nước, tổ chức động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua làm kinh tế
giỏi, phát triển kinh tế gắn liền với phát triển văn hoá - xã hội; trong đó, mỗi
người, mỗi gia đình cố gắng phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng. Bên
cạnh đó, tăng cường công tác đối ngoại nhân dân, tích cực vận động, thu hút
kiều bào hướng về Tổ quốc, góp sức xây dựng quê hương, đất nước; chủ động
phối hợp với các cơ quan chức năng nước sở tại để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của kiều bào, đồng thời, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân có
thành tích tiêu biểu.
Năm là, nắm bắt kịp thời để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân và nỗ lực chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các
giai cấp, các tầng lớp nhân dân. Tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn
dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc,
tôn giáo; bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội; kết hợp hài hòa lợi ích cá
nhân với lợi ích của tập thể và toàn xã hội. Cùng với việc giải quyết đúng đắn và
hợp lý các quan hệ lợi ích, cần đẩy mạnh và không ngừng bồi dưỡng, nâng cao
tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tinh thần tự lực
tự cường trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố và phát triển khối đại đoàn
kết dân tộc, coi đó là những yếu tố quan trọng để không chỉ phòng và chống âm
mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch mà còn góp phần
ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
KẾT LUẬN
Giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
10
trong bối cảnh tình hình chính trị thế giới và trong nước có nhiều diễn biến rất
phức tạp; nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội đặt ra những yêu cầu và nội dung mới. Đất nước có những bước phát triển
mới nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, hạn chế, nhất là tình trạng suy thoái
ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ tham nhũng, quan liêu, các vấn
đề an ninh phi truyền thống... Bên ngoài, xuất hiện các vấn đề thách thức đối với
bảo vệ chủ quyền biển, đảo của đất nước. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch
không từ bỏ các hoạt động chống phá cách mạng nước ta, bằng chiến lược "diễn
biến hòa bình" kết hợp với bạo loạn lật đổ; chúng thực hiện nhiều âm mưu, thủ
đoạn hòng "phi chính trị hóa" lực lượng vũ trang, nhằm tước bỏ quyền lãnh đạo
của Đảng đối với Công an nhân dân, xóa nhòa bản chất giai cấp, làm biến chất
chính trị của lực lượng Công an nhân dân. Trong bối cảnh tình hình đó, để góp
phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng
viên và nhân dân luôn nhận thức rõ việc xây dựng khối đại đoàn toàn dân tộc
trên cơ sở đồng thuận xã hội là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam;
là nguồn sức mạnh tổng hợp, là động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, H, 2011, t.4, tr.480.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016, tr.158-159.
11
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.65.
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (Hệ cao cấp lý luận chính trị)
(2019); Nxb Lý luận chính trị.
12