Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

PHÂN TÍCH NHỮNG điểm đặc sắc TRONG tư TƯỞNG HCM về NHÀ nước để xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY cần CHÚ ý NHỮNG vấn đề gì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.25 KB, 27 trang )

BÀI BÁO CÁO THẢO LUẬN
Mơn: Tư tưởng Hồ Chí Minh

ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC TRONG TƯ TƯỞNG HCM
VỀ NHÀ NƯỚC. ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY CẦN CHÚ Ý NHỮNG VẤN ĐỀ GÌ?

Hà Nội, năm 2021

Lời cảm ơn


Lời đầu tiên, nhóm chúng em xin gửi lời cảm ơn đến Cơ. Trong q trình tìm
hiểu và học tập bộ mơn Tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng em đã được cơ tận tình
hướng dẫn và giảng dạy rất chi tiết. Cô đã giúp chúng em biết thêm được nhiều
kiến thức hay và bổ ích. Từ những kiến thức đó nhóm chúng em xin trình bày về
vấn đề: “Đề tài 2: Phân tích những điểm đặc sắc trong tư tưởng HCM về nhà
nước. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
cần chú ý những vấn đề gì?” gửi đến cơ.
Chúng em đã vận dụng, nghiên cứu, tìm hiểu thêm kiến thức để làm bài tiểu
luận, tuy nhiên kiến thức về bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh của chúng em vẫn
cịn những hạn chế nhất định. Do đó, khơng tránh khỏi những thiếu sót trong q
trình hồn thành bài tiểu luận này. Mong cơ xem và góp ý để bài tiểu luận của
chúng em được hồn thiện hơn.
Chúc cơ có thật nhiều sức khỏe, niềm vui và thành công hơn nữa trong sự
nghiệp giảng dạy của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


PHẦN MỞ ĐẦU



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo hủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta,
mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân giành thắng lợi.
1.2 Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng hình thành ngay một lúc mà đã trải qua một
q trình tìm tịi, xác lập, phát triển và hoàn thiện, gắn liền với quá trình hoạt
động cách mạng phong phú của người. Quá trình hình thành và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh chia thành 5 giai đoạn:


Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng u nước và có chí hướng
tìm con đường cứu nước mới



Thời kỳ 1911 - 1920: Hình thành tư tưởng cứu nước, giải phóng dân tộc
Việt Nam theo con đường cách mạng vơ sản



Thời kỳ 1920 - 1930: Hình thành những nội dung cơ bản tư tưởng về cách
mạng Việt Nam




Thời kỳ 1930 - 1941: Vượt qua thử thách, giữ vững đường lối, phương
pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo.



Thời kỳ 1941 - 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển, soi đường
cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

1.3 Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ đó phản ánh những vấn đề có
tính quy luật của cách mạng Việt Nam, gắn với mục tiêu xây dựng một nước
Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Để đạt được mục tiêu đó, con đường
phát triển của dân tộc Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu và con đường này đúng theo lý luận Mác - Lênin; khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước cách mạng;
xác định lực lượng cách mạng là toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước, xây


dựng con người Việt Nam có năng lực và phẩm chất đạo đức cách mạng; kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trên cơ sở quan hệ quốc tế hịa
bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển, với phương pháp cách mạng phù hợp.
1.4 Ý nghĩa của việc nghiên cứu tư tưởng
Tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng
và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cấu
thành làm nên nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và

cách mạng Việt Nam.
Bởi những ý nghĩa đó, khi học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh mang
lại cho chúng ta những giá trị to lớn: góp phần nâng cao năng lực tư duy lý luận;
giáo dục và định hướng thực hành đạo đức cách mạng, củng cố niềm tin khoa
học gắn liền với trau dồi tình cảm cách mạng, bồi dưỡng lòng yêu nước; xây
dựng, rèn luyện phương pháp và phong cách công tác.
Chương 2: Tổng quan về nhà nước
2.1 Khái niệm về nhà nước
Nhà nước là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội, bao gồm một lớp người
được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã
hội, phục vụ lợi ích chung của tồn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm
quyền.
2.2 Nguồn gốc của nhà nước
Để xác định được nguồn gốc của nhà nước ta dựa trên 2 quan điểm sau:


Quan điểm phi Mác-xít
- Dựa trên thuyết thần học: Nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra .Thượng
đế sáng tạo ra con người, sáng tạo ra thế giới, đồng thời sáng tạo ra con
người để cai quản con người.
- Dựa trên thuyết gia trưởng: Nhà nước là kết quả của sự phát triển tự nhiên
của gia đình, nhà nước có trong mọi xã hội. Học thuyết này đề cao sự đứng
đầu của người con trưởng trong gia đình.
- Dựa trên thuyết khế ước: Nhà nước bắt đầu từ xã hội . Sự giao kết của các
thành viên trong xã hội soạn thảo lên khế ước chung hình thành nên nhà
nước
- Dựa trên thuyết bạo lực: Nhà nước là sản phẩm của cuộc chiến tranh giữa
các thị tộc
 Các thuyết trên chưa thực sự giải thích đúng đắn được sự ra đời của nhà
nước



Quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin ( Nội dung của luận thuyết này được
trình bày tồn diện, sâu sắc và có hệ thống trong tác phẩm “Nguồn gốc của
gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”)



Theo chủ nghĩa Mác- Lenin thì nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự ra đời của
nhà nước là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự dư thừa tương
đối của cải, xuất hiện chế độ tư hữu , còn nguyên nhân trực tiếp dẫn tới sự xuất
hiện nhà nước là do mâu thuẫn giai cấp trong xã hội gay gắt khơng thể điều hịa
được.Nhà nước ra đời là một tất yếu khách quan để “ làm dịu” sự xung đột giai
cấp, để duy trì trật tự xã hội trong vịng “trật tự” mà ở đó, lợi ích và địa vị giai
cấp thống trị được đảm bảo.


Nhà nước ra đời là 1 tất yếu khách quan và có q trình ra đời, phát triển
và thậm chí có thể tiêu vong

2.3 Bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước là một tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về mặt
kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hanh và đàn áp sự phản kháng của giai câp
khác.
2.4 Đặc điểm của nhà nước
-

Nhà nước thiết lập quyền lực cơng cộng đặc biệt
Nhà nước có lãnh thổ và phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính
Nhà nước có chủ quyền quốc gia

Nhà nước ban hanh pháp luật
Nhà nước quy định và thực hiện thu các loại thuế

2.5 Hình thức của nhà nước
Hinh thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực của nhà nước và
phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước. Nó được hình thành từ ba yếu tố cụ
thể sau:
-

Hình thức chính thể gồm chính thể qn chủ và chính thể cộng hịa
Hình thức cấu trúc nhà nước gồm nhà nước đơn nhất và nhà nước liên
bang
Chế độ chính trị gồm dân chủ và phản dân chủ

2.6 Chức năng của nhà nước


Chức năng thống trị chính trị của giai cấp và chức năng xã hội
Chức năng đối nội và đối ngoại
Cụ thể nhà nước tại Việt Nam


Ở Việt Nam trong lịch sử đã tồn tại nhà nước phong kiến trung ương phân
quyền và tập quyền từ thế kỷ X đến nửa sau thế kỷ XĨ. Khi thực dân Pháp đặt
ách đô hộ nước ta từ năm 1884 đến 1945, tồn tại nhà nước thuộc địa nửa phong
kiến. Sau cách mạng tháng Tám 1945, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời chấm dứt sự tồn tại của nhà nước thuộc địa nửa phong kiến, mở ra một trang
sử mới của sự phát triển của nhà nước . Nhà nước ở Việt Nam mang bản chất
của Giai cấp cơng nhân; Hình thức chính thể cộng hịa, hình thức cấu trúc là nhà
nước đơn nhất và có chế độ chính trị dân chủ

Hiện nay, Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng nhằm nhấn mạnh một số
đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới quyền lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản, tồn tại theo nguyên tắc: “ Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”. Bản chất của hình thức nhà nước này là “ Nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Về bản chất , tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân”
Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
nhiệm vụ trọng tâm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị. Sự hiện diện của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là đặc trưng của nền kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trên
tinh thần kết hợp giữa thực hiện dân chủ, tuấn thủ các nguyên tăc pháp quyền,
đồng thời coi trọng nền tảng đạo đức xã hội . Để hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Đảng chủ trương đẩy mạnh cải
cách hanh chính, đổi mới thể chế, cơ chế, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước, thực hiện chính phủ liêm chính, kiến tạo, năng
động, thực hành tiết kiệm, chống tham nhung, lãng phí. Xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa là góp phần thực hiệ mục tiêu: Dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương 3: Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
3.1 Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
3.1.1 Bản chất của nhà nước
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam là nhà nước dân chủ,
nhưng nó tuyệt nhiên khơng phải là “Nhà nước tồn dân”.
Nhà nước ở đâu bao giờ cũng mang một bản chất của một giai cấp nhất định.


Nhà nước Việt Nam mới- Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mang bản
chất của giai cấp công nhân.
















Đảng cộng sản Việt Nam giữ vai trị và vị trí cầm quyền. Lời nói đầu
trong hiến pháp năm 1959 khẳng định : “Nhà nước của ta là Nhà nước
dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”. Trong quan điểm về nhà nước dân chủ , nhà nước
do nhân dân là chủ nắm chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nịng
cốt của nhân dân là liên minh cơng-nơng-trí, do giai cấp cơng nhân mà
đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam.
Bản chất giai cấp của nhà nước Việt Nam thể hiện ở tính định hướng xã
hội chủ nghĩa trong phát triển đất nước. Đưa nhà nước đi lên chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí Minh.
Bản chất của giai cấp công nhân của nhà nước thể hiện ở nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của nó là nguyên tắc tập trung dân chủ. Hồ Chí Minh
chú ý đến cả hai mặt dân chủ và tập trung tổ chức và hoạt động của tất cả
bộ máy, cơ quan nhà nước.
Bản chất giai cấp công nhân thống nhất với tính nhân dân và tính dân tộc

Nhà nước Việt Nam ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài , gian khổ
của rất nhiều thế hệ người Việt Nam , của tồn dân tộc : Khi có giặc ngoại
xâm thì các tầng lớp dân tộc khơng quản hi sinh xương máu, chiến đấu
cho độc lập, tự do của Tổ Quốc . Đến khi Đảng Cộng sản ra đời trở thành
lực lượng lãnh đạo của cách mạng dân tộc với chiến lược đoàn kết đúng
đắn, sức mạnh toàn dân tộc và phát huy chiến thắng ngoại xâm, giành lại
độc lập, tự do.
Nhà nước Việt Nam ngay từ khi ra đời đã xác định rõ và ln kiên trì ,
nhất quán mục tiêu vì quyền lợi nhân dân , lấy quyền lợi của nhân dân
làm nền tảng . Hồ Chí Minh khẳng định quyền lợi của giai cấp công nhân
thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể lao động.
Nhà nước mới của Việt Nam đã đảm vương nhiệm vụ mà tồn thể nhân
dân giao phó.

3.1.2 Nhà nước của nhân dân
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh , nhà nước của nhân dân là nhà nước
mà tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân.
Trong nhà nước dân chủ , nhân dân thực thi quyền lực thông qua hai hình thức:
dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp


Dân chủ trực tiếp: là hình thức dân chủ trong đó nhân dân trực tiếp quyết
định mọi vấn đề liên quan đến vận mệnh của quốc gia dân tộc và quyền
lợi của dân chúng . Hồ Chí Minh coi trọng hình thức dân chủ trực tiếp vì
hình thức dân chủ bị nhất và tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hành dân
chủ trực tiếp



+


+

+

Dân chủ gián tiếp là hình thức dân chủ được thể hiện rộng rãi nhằm thực
thi quyền của nhân dân. Hình thức dân chủ trực tiếp :
Quyền lực nhà nước là “ thừa ủy quyền “ của nhân dân . Tự bản thân nhà
nước khơng có quyền lực . Quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy
thác . Hồ Chí Minh xác định rõ vị thế và mối quan hệ giữa nhân dân và
cán bộ nhà nước trên cơ sở nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực . Hồ
Chí Minh đặc biệt phê phán những cán bộ nhà nước thoái hoá , biến chất ,
từ chỗ là công bộc của dân đã trở thành “quan cách mạng” đứng trên nhân
dân , coi khinh nhân dân , “ cậy thế” nhân dân, “ quên rằng dân bầu ra là
để làm việc cho dân”
Nhân dân có quyền kiểm sốt , phê bình nhà nước, có quyền bãi miễn
những đại biểu mà họ đã lựa chọn, bầu ra và có quyền giải tán những thiết
chế quyền lực mà họ lập nên . Đây là quan điểm rõ ràng, kiên quyết của
Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo mọi quyền lực , trong đó mọi quyền lực của
nhà nước nằm trong tay nhân dân
Luật pháp dân chủ và là công cụ quyền lực của nhân dân . Theo Hồ Chí
Minh sự khác biệt của luật pháp trong nhà nước Việt Nam mới với luật
pháp của các chế độ tư sản, phong kiến ở chỗ nó phản ánh được ý nguyện
và bảo vệ quyền lợi của dân chúng . Luật pháp đó là của nhân dân , là
quyền lợi thực thi quyền lợi của nhân dân , là phương tiện kiểm soát
quyền lợi của nhà nước

3.1.3 Nhà nước do nhân dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh , nhà nước do nhân dân trước hết là nhà
nước do nhân dân lập nên sau thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của toàn dân

tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Nhà nước do nhân dân cịn có nghĩa là “dân làm chủ”. Nếu “dân là chủ”
xác định vị thế của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, thì “dân làm chủ”
nhấn mạnh quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân với tư cách là người chủ.
Nhà nước phải tạo mọi điều kiện để nhân dân thực thi những quyền về
Hiến pháp và pháp luật đã quy định, hưởng dụng đầy đủ quyền lợi và làm tròn
nghĩa vụ làm chủ quyền lợi.
Nhà nước do nhân dân cần coi trọng việc giáo dục nhân dân, đồng thời
nhân dân cũng phải tự giác phấn đấu để có đủ năng lực thực hiện quyền dân chủ
của mình.
3.1.4 Nhà nước vì nhân dân
Nhà nước vì dân là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân, khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.


Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vì dân và người yêu cầu các cơ quan nhà nước ,
cán bộ nhà nước đều phải vì nhân dân phục vụ. Theo Người thước đo một nhà
nước vì dân là phải được lịng dân.
Trong nhà nước vì dân , cán bộ vừa là đầy tớ , nhưng đồng thời là người lãnh
đạo nhân dân . Hai đòi hỏi này tưởng như mâu thuẫn nhưng lại là phẩm chất cần
có ở người cán bộ nhà nước vì dân.
Như vậy để thay mặt nhân dân phải gồm đủ cả đức và tài, phải vừa hiền lại vừa
minh. Phải như thế thì mới có “chẳng những làm việc có lợi cho dân mà cũng có
khi làm những việc mới xem qua như là hại đến dân” nhưng thực chất là vì tồn
cục, vì lợi ích lâu dài của nhân dân.
3.2 Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền
3.2.1 Nhà nước hợp hiến, hợp pháp
Hồ Chí Minh ln chú trọng vấn đề xây dựng nền tảng pháp lý cho Nhà
nước Việt Nam mới. Người đã sớm thấy rõ tầm quan trọng của Hiến pháp và

pháp luật trong đời sống chính trị - xã hội. Điều này thể hiện trong bản Yêu
sách của nhân dân An Nam của nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp
do Người thay mặt nhóm gửi đến Hội nghị Vécxây (Pháp) năm 1919. Bản Yêu
sách đó nêu ra yêu cầu “cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách làm cho
người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như
người Âu châu; xố bỏ hồn tồn các tồ án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng
bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam”; “Thay thế chế
độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”.
Sau này, khi trở thành người đứng đầu Nhà nước Việt Nam mới, Hồ Chí Minh
quan tâm sâu sắc hơn việc bảo đảm cho Nhà nước được tổ chức và vận hành phù
hợp với pháp luật, đồng thời, căn cứ vào pháp luật để điều hành xã hội, làm cho
tinh thần pháp quyền thấm sâu và điều chỉnh mọi quan hệ và hoạt động trong
Nhà nước và xã hội.
Chính vì thế, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trong phiên
họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3-9-1945), Hồ Chí Minh đã đề nghị:
“Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tơi đề nghị Chính phủ tổ chức càng
sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thơng đầu phiếu” để lập nên
Quốc hội rồi từ đó lập ra Chính phủ và các cơ quan, bộ máy hợp hiến, thể hiện
quyền lực tối cao của nhân dân như vậy thì nước ta mới có cơ sở pháp lý vững
chắc để làm việc với quân Đồng Minh, mới có quan hệ quốc tế bình đẳng, mới
thiết lập được một cơ chế quyền lực hợp pháp theo đúng thông lệ của một Nhà
nước pháp quyền hiện đại.


Cuộc Tổng tuyển cử được tiến hành thắng lợi ngày 6-1-1946 với chế độ phổ
thông đầu phiếu, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Lần đầu tiên trong lịch sử hàng nghìn
năm của dân tộc Việt Nam cũng như lần đầu tiên ở Đông Nam châu Á, tất cả
mọi người dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc,
đảng phái, tôn giáo… đều đi bỏ phiếu bầu những đại biểu của mình tham gia
Quốc hội.

Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức Tổng tuyển cử với
chế độ phổ thông đầu phiếu bầu Quốc Hội, thành lập uỷ ban dự thảo Hiến pháp
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã họp
phiên đầu tiên, lập ra các tổ chức, bộ máy và các chức vụ chính thức của Nhà
nước. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Chính phủ liên hiệp đầu tiên. Đây
chính là Chính phủ có đầy đủ tư cách pháp lý để giải quyết một cách có hiệu
quả những vấn đề đối nội và đối ngoại ở nước ta.
3.2.2 Nhà nước thượng tôn pháp luật
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước quản lý bằng bộ máy và bằng
nhiều biện pháp khác nhau, nhưng quan trọng nhất là quản lý bằng Hiến pháp
và bằng pháp luật nói chung. Muốn vậy, trước hết, cần làm tốt cơng tác lập
pháp. Hồ Chí Minh ln chú trọng xây dựng hệ thống luật pháp dân chủ, hiện
đại. Ở cương vị Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã hai lần tham gia vào quá trình
lãnh đạo soạn thảo Hiến pháp (Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm1959), đã
ký lệnh công bố 16 đạo luật, 613 sắc lệnh trong đó có 243 sắc lệnh quy định về
tổ chức Nhà nước và pháp luật, và nhiều văn bản dưới luật khác. Trong bối cảnh
đất nước phải vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vơ cùng cùng khó khăn, sự ra đời
của hệ thống luật pháp như trên thể hiện rất rõ nỗ lực của Hồ Chí Minh và Nhà
nước Việt Nam trong cơng tác lập pháp.
Cùng với cơng tác lập pháp, Hồ Chí Minh cũng rất chú trọng đưa pháp
luật vào trong cuộc sống, bảo đảm cho pháp luật được thi hành và có cơ chế
giám sát việc thi hành pháp luật. Hồ Chí Minh chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao
trình độ hiểu biết và năng lực sử dụng luật của người dân, giáo dục ý thức tôn
trọng và tuân thủ pháp luật trong nhân dân. Pháp luật là công cụ quyền lực của
nhân dân, vì thế điều quan trọng là phải “làm sao cho nhân dân biết hưởng
quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”. Người
cho rằng, công tác giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ trở
nên cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền, bảo đảm
mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống. Việc thực thi

pháp luật có quan hệ rất lớn đến trình độ dân trí của nhân dân, vì vậy, Hồ Chí
Minh chú trọng đến vấn đề nâng cao dân trí, phát huy tính tích cực chính trị của


nhân dân, làm cho nhân dân có ý thức chính trị trong việc tham gia cơng việc
của chính quyền các cấp.
Hồ Chí Minh ln nêu cao tính nghiêm minh của pháp luật. Người tuyên
bố: “Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính,
nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước bn dân”.
Điều đó địi hỏi pháp luật phải đúng và phải đủ; tăng cường tuyền truyền, giáo
dục pháp luật cho mọi người dân; người thực thi pháp luật phải thật sự công tâm
và nghiêm minh, v.v.. Người phê phán những hiện tượng thể hiện tính thiếu
nghiêm minh của pháp luật, như: “thưởng có khi quá rộng, mà phạt thì khơng
nghiêm” , lẫn lộn giữa cơng và tội.
Hồ Chí Minh ln ln khuyến khích nhân dân phê bình, giám sát cơng
việc của Nhà nước, giám sát q trình Nhà nước thực thi pháp luật, đồng thời
không ngừng nhắc nhở cán bộ các cấp, các ngành phải gương mẫu trong việc
tuân thủ pháp luật, trước hết là các cán bộ thuộc ngành hành pháp và tư pháp.
Trong thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc, Người viết: “Các bạn là những
người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên các bạn cần phải nêu cao cái
gương “phụng công, thủ pháp, chí cơng, vơ tư” cho nhân dân noi theo”. Bản
thân Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về sống và làm việc theo Hiến pháp
và pháp luật. Người tự giác khép mình vào kỷ luật, vào việc gương mẫu chấp
hành Hiến pháp và pháp luật. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật đã
trở thành nền nếp, thành thói quen, thành lối ứng xử tự nhiên của Hồ Chí Minh.
3.2.3 Pháp quyền nhân nghĩa
“Pháp quyền nhân nghĩa” tức là trước hết Nhà nước phải tôn trọng, bảo
đảm thực hiện đầy đủ các quyền con người, chăm lo đến lợi ích của mọi người.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo các lý thuyết hiện đại về quyền con người, Hồ
Chí Minh tiếp cận quyền con người một cách toàn diện. Người đề cập đến các

quyền tự nhiên của con người, trong đó quyền cao nhất là quyền sống; đồng thời
cũng đề cập đến cả các quyền chính trị - dân sự, quyền kinh tế, văn hóa, xã hội
của con người. Người chú trọng quyền của công dân nói chung, đồng thời cũng
chú trọng đến quyền của những nhóm người cụ thể như phụ nữ, trẻ em, người
dân tộc thiểu số, v.v... Sự nghiệp cách mạng chân chính cần đấu tranh cho quyền
con người, vì thế, mục tiêu giải phóng con người, làm cho mọi người có được
cuộc sống hạnh phúc, tự do xứng với phẩm giá con người, được hưởng dụng các
quyền con người một cách đầy đủ nhất đã hòa quyện một cách hữu cơ và trở
thành mục tiêu cao nhất của sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam. Nhà
nước Việt Nam ngay từ khi ra đời và luôn nhất quán quan điểm kiên quyết đấu
tranh cho quyền con người. Hiến pháp của đất nước đã ghi nhận một cách toàn


diện quyền con người ở Việt Nam. Đó là nền tảng pháp lý để bảo vệ và thực thi
các quyền con người đó một cách triệt để.
Trong pháp quyền nhân nghĩa, pháp luật có tính nhân văn, khuyến thiện. Ngay
khi thành lập, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã lập tức
tun bố xố bỏ mọi luật pháp hà khắc của chính quyền thực dân phản động.
Tính nhân văn của hệ thống luật pháp thể hiện ở việc ghi nhận đầy đủ và bảo vệ
quyền con người; ở tính nghiêm minh nhưng khách quan và cơng bằng, tuyệt đối
chống đối xử với con người một cách dã man. Ngay cả đối với những kẻ phản
bội Tổ quốc, Hồ Chí Minh tuyên bố rõ: “Chính phủ Việt Nam sẽ tha thứ hay
trừng trị họ theo luật pháp tuỳ theo thái độ của họ hiện nay và về sau. Nhưng sẽ
khơng có ai bị tàn sát”. Đặc biệt, hệ thống luật pháp đó có tính khuyến thiện, bảo
vệ cái đúng, cái tốt, lấy mục đích giáo dục, cảm hóa, thức tỉnh con người làm
căn bản. Với Hồ Chí Minh, việc xây dựng và thi hành pháp luật phải dựa trên
nền tảng đạo đức của xã hội và các giá trị đạo đức thấm sâu vào trong mọi quy
định của pháp luật. Nói cách khác, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền nhân
nghĩa phải là pháp luật vì con người.
Trong khi quan niệm rằng đã có Nhà nước thì phải có pháp luật để quản lý

nhà nước, nhưng Hồ Chí Minh khơng tuyệt đối hóa vấn đề pháp luật mà hết sức
coi trọng vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng. Pháp luật và đạo đức phải kết
hợp chặt chẽ với nhau thì việc quản lý xã hội mới có hiệu lực vì khi người ta biết
liêm sỉ thì người ta coi việc vi phạm pháp luật là một điều đáng hổ thẹn không
nên làm. Chủ nghĩa Mác-Lênin tuy cũng có đề cập đến vấn đề đạo đức cách
mạng là nhằm phục vụ cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nhưng không nêu lên một cách cụ thể như
Hồ Chí Minh, Người chắt lọc tinh hoa đạo đức truyền thống của dân tộc, cải tạo
các phạm trù đạo đức của Nho giáo đưa vào những nội dung mới có tính chất
cách mạng hình thành nét độc đáo của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, cái gốc
của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân. Dân là gốc
của nước, do đó đã trung với nước thì phải hiếu với dân, đã hiếu với dân thì phải
trung với nước. Trung với nước, hiếu với dân thì phải rèn luyện và thực hành
tám đức lớn là nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính. Trong tám đức đó,
cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức căn bản. Người viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đơng.
Đất có bốn phương: Đơng, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì khơng thành trời.


Thiếu một phương, thì khơng thành đất.
Thiếu một đức thì khơng thành người”.
Theo Người, đó khơng phải là đạo đức thủ cựu mà là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại; đó khơng phải là vì danh vọng cá nhân mà là vì lợi ích chung của Đảng, của
dân tộc, của lồi người. Đó là chủ nghĩa nhân văn cao đẹp nhất.
3.3 Những điểm đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước trong
sạch, vững mạnh
3.3.1 Kiểm soát quyền lực nhà nước
Để giữ vững bản chất của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước hoạt động có hiệu

quả, phịng chống thối hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ Nhà nước, Hồ Chí
Minh rất chú trọng vấn đề kiểm sốt quyền lực nhà nước.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu.
Các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước, dù ít hay nhiều đều nắm giữ quyền
lực trong tay. Quyền lực này là do nhân dân ủy thác cho. Nhưng một khi đã
nắm giữ quyền lực, cơ quan nhà nước hay cán bộ nhà nước đều có thể trở nên
lạm quyền. Người chỉ rõ: “dân ghét các ông chủ tịch, các ông Ủy viên vì cái tật
ngông nghênh, cậy thế, cậy quyền. Những ơng này khơng hiểu nhiệm vụ và
chính sách của Việt Minh, nên khi nắm được chút quyền trong tay vẫn hay lạm
dụng”1. Vì thế, để đảm bảo tất cả mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cần kiểm
soát quyền lực nhà nước.
Về hình thức kiểm sốt quyền lực Nhà nước, theo Hồ Chí Minh, trước hết, cần
phát huy vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng là đội tiền
phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, là Đảng
cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội, chính vì vậy, Đảng có quyền và có
trách nhiệm kiểm sốt quyền lực Nhà nước. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Cơng việc
của Đảng và Nhà nước ngày càng nhiều. Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì
tồn thể đảng viên và cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính
sách của Đảng. Và muốn như vậy, thì các cấp ủy đảng phải tăng cường cơng
tác kiểm tra. Vì kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ


làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho
nhân dân”2. Để kiểm soát có kết quả tốt, theo Hồ Chí Minh, cần có hai điều
kiện là việc kiểm sốt phải có hệ thống và người đi kiểm sốt phải là những
người rất có uy tín. Người cịn nêu rõ hai cách kiểm sốt là từ trên xuống và từ
dưới lên. Người nhấn mạnh, phải “khéo kiểm soát”.
Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước dựa trên cách thức tổ chức bộ máy nhà
nước và việc phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan thực thi quyền lực nhà
nước bước đầu cũng đã được Hồ Chí Minh đề cập đến. Hiến pháp năm 1946 do

Hồ Chí Minh ghi rõ một số hình thức kiểm sốt bên trong Nhà nước, trong đó
nổi bật là kiểm sốt của Nghị viện nhân dân đối với Chính phủ, chẳng hạn,
Nghị viện nhân dân có quyền “Kiểm sốt và phê bình Chính phủ”, “Bộ trưởng
nào khơng được Nghị viên tín nhiệm thì phải từ chức”, v.v..
Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước, vì thế, nhân dân có quyền
kiểm sốt quyền lực Nhà nước. Đây là hình thức được Hồ Chí Minh đề cập rất
cụ thể. Người nhấn mạnh: “Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm sốt
đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được” 1. Đảng cầm quyền cần chú ý
phát huy vai trị kiểm sốt quyền lực của nhân dân, bởi so với số nhân dân thì
số đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một đảng viên. Nếu
khơng có nhân dân giúp sức, thì Đảng khơng làm được việc gì hết. Đối với Nhà
nước, là công bộc của dân, “mọi công tác phải dựa hẳn vào quần chúng, hoan
nghênh quần chúng đôn đốc và kiểm tra”.
3.3.2 Phòng chống tiêu cực nhà nước
Xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân khơng bao giờ tách rời với
việc làm cho Nhà nước luôn trong sạch, vững mạnh. Điều này ln ln
thường trực trong tâm trí và hành động của Hồ Chí Minh. Khi nước nhà giành
được độc lập, chính quyền cách mạng cịn non trẻ cũng như lúc cách mạng
chuyển giai đoạn, Hồ Chí Minh càng chú ý hơn bao giờ hết đến việc bảo đảm
sự trong sạch, vững mạnh của các cấp chính quyền, bởi vì thường những lúc đó


cách mạng đứng trước những thử thách rất gay gắt và những tiêu cực rất dễ trở
thành nguy cơ làm biến chất Nhà nước.
Chỉ một tháng sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Hồ Chí
Minh đã gửi thư cho Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng,nêu rõ phải
chống đặc quyền, đặc lợi; bộ máy nhà nước không phải là bộ máy áp bức, bóc
lột nhân dân, cán bộ, cơng chức khơng phải là những “ơng quan cách mạng”.
Hồ Chí Minh đã dùng những cụm từ “công bộc”, “đày tớ” để chỉ ra một mặt
trách nhiệm của người cán bộ, công chức trong xây dựng một Nhà nước mới –

Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.Trong q trình lãnh đạo xây dựng Nhà
nước Việt Nam, Hồ Chí Minh thường nói đến những tiêu cực sau đây và nhắc
nhở mọi người đề phòng và khắc phục.
Hồ Chí Minh chỉ ra sáu căn bệnh cần đề phịng: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư
túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người nhắc nhở: “Chúng ta không sợ sai lầm, nhưng
đã nhận biết sai lầm thì phải ra sức sửa chữa. Vậy nên, ai không phạm những
lầm lỗi trên này, thì nên chú ý tránh đi và gắng sức cho thêm tiến bộ. Ai đã
phạm những lỗi trên này, thì phải hết sức sửa chữa; nếu khơng tự sửa chữa thì
Chính phủ sẽ khơng khoan dung. Vì hạnh phúc của dân tộc, vì lợi ích của nước
nhà mà tơi phải nói. Chúng ta phải ghi sâu những chữ “cơng bình, chính trực
vào lịng”
Đặc quyền, đặc lợi. Xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải
tẩy trừ những thói cậy mình là người trong cơ quan chính quyền để cửa quyền,
hạch dịch với dân, lạm quyền, đồng thời để vơ vét tiền của, lợi dụng chức
quyền để làm lợi cho cá nhân mình, làm như thế tức là sa vào chủ nghĩa cá
nhân.
Tham ơ, lãng phí, quan liêu. Hồ Chí Minh coi tham ơ, lãng phí, quan liêu là
“giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, thứ giặc nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm.
Người thường phê bình những người “lấy của công dùng vào việc tư, quên cả


thanh liêm, đạo đức”3. Quan điểm của Hồ Chí Minh là: “Tham ơ, lãng phí và
bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và
phong kiến… Tỗi lỗi ấy cũng nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám” 4. Ngày 2711-1946, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ấn định hình phạt tội đưa và nhân hối lộ
với mức từ 5 năm đến 20 năm tù khổ sai và phải nộp phạt gấp đơi số tiền nhận
hối lộ. Ngày 26-1-1946, Hồ Chí Minh ký lệnh nói rõ tội tham ơ, trộm cắp đến
mức cao nhất là tử hình.
Lãng phí là một căn bệnh mà Hồ Chí Minh lên án gay gắt. Bản thân Người
ln làm gương, tích cực thực hành chống lãng phí trong cuộc song và công
việc hằng ngày. Người quý trọng từng đồng xu, bát gạo do dân đóng góp cho

hoạt động của bộ máy nhà nước. Lãng phí ở đây được Hồ Chí Minh xác định là
lãng phí sức lao động, lãng phí thời giờ, lãng phí tiền của. Chống lãng phí là
biện pháp để tiết kiệm, là quốc sách của mọi quốc gia.
Liên đến bệnh tham ô, bệnh lãng phí là bệnh quan quan liêu, một căn bệnh
khơng những có ở cấp trung ương, ở cấp tỉnh, ở cấp huyện mà cịn có ngay ở cả
cấp cơ sở. Hồ Chí Minh phê bình những người và các cơ quan lãnh đạo từ cấp
trên đến cấp dưới không sát công việc thực tế, không theo dõi và giáo dục cán
bộ, khơng gần gũi quần chúng. Đối với cơng việc thì trọng hình thức mà khơng
xem xét khắp mọi mặt, khơng đi sâu từng vấn đề. Bệnh quan liêu làm cho
chúng ta chỉ biết khai hội, viết chỉ thị, xem báo cáo trên giấy, chứ không kiểm
tra đến nơi đến chốn… thành thử có mắt mà khơng thấy suốt, có tai mà khơng
nghe thấu, có chế độ mà khơng giữ đúng, có kỷ luật mà khơng nắm vững…
Thế là bệnh quan liêu đã ấp dủ, dung túng, che chở cho nạn tham ơ, lãng phí.
Vì vậy, đây là bệnh gốc sinh ra các bệnh tham ơ, lãng phí; muốn trừ sạch bệnh
tham ơ, lãng phí thì trước hết phải tẩy sạch bệnh quan liêu.
“Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”. Những căn bệnh trên gây mất đồn kết,
gây rối cho cơng tác. Hồ Chí Minh kịch liệt lên án tệ kéo bè, béo cánh, tệ nạn
bà con bạn hữu mình khơng tài năng gì cũng kéo vào chức này chức nọ. Người


có tài có đức, nhưng khơng vừa lịng mình thì đẩy ra ngồi. Trong chính quyền,
cịn hiện tượng gây mất đồn kết, khơng biết cách làm cho mọi người hồ
thuận với nhạu, cịn có người “bệnh vực lớp này, chống lại lớp khác”. Ngồi
bệnh cậy thế, có người cịn kiêu ngạo, “tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ
là thần thánh rồi… cử chỉ lúc nào cũng vác mặt “quan cách mạng””, làm mất
uy tín của Chính phủ.
Để tìm ra biện pháp phòng, chống tiêu cực trong bộ máy nhà nước, Hồ Chí
Minh đã dày cơng luận giải ngun nhân nảy sinh tiêu cực. Những nguyên
nhân này được Hồ Chí Minh tiếp cận rất toàn diện. Trước hết là nguyên nhân
chủ quan, bắt nguồn từ căn “bệnh mẹ” là chủ nghĩa cá nhân, tự sự thiếu tu

dưỡng, rèn luyện của bản thân cán bộ. Bên cạnh đó cịn có những nguyên nhân
khách quan, từ gần đến xa, là do công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước chưa
tốt; do cách tổ chức, vận hành trong Đảng, trong Nhà nước, sự phối hợp giữa
Đảng với Nhà nước chưa thật sự khoa học, hiệu quả; do trình độ phát triển cịn
thấp của đời sống xã hội; do tàn dư của những chính sách phản động của chế
độ thực dân, phong kiến; do âm mưu chống phá của các lực lượng thù địch,
v.v.. Các nguyên nhân này không tồn tại biệt lập với nhau, mà có sự kết hợp
với nhau, tiến cơng vào đội ngũ cán bộ. Nếu Đảng và Nhà nước khơng có
biện pháp phịng, chống tốt, khơng có chính sách bảo vệ cán bộ một cách có
hiệu quả, thì nguy cơ mất cán bộ là rất lớn.
Phòng, chống tiêu cực trong Nhà nước là nhiệm vụ hết sức khó khăn. Trong
nhiều tác phẩm khác nhau, ở nhiều thời điểm khác nhau, Hồ Chí Minh đã nêu
lên nhiều biện pháp khác nhau. Khái quát lại, có thể thấy nổi bật một hệ thống
biện pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao trình độ dân chủ trong xã hội, thực hành dân chủ rộng
rãi, phát huy quyền làm chủ của nhân dân đó là giải pháp căn bản và có ý
nghĩa lâu dài.
Hai là, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh.


Công tác kiểm tra phải thường xuyên. Cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc và
tự giác tuân thủ pháp luật, kỷ luật. Đối với những kẻ thối hóa, biến chất,
pháp luật phải “thẳng tay trừng trị”, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề
nghiệp gì. Trong Nhà nước “trăm đều phải có thần linh pháp quyền” thì
tuyệt nhiên khơng có bất cứ vùng cấm nào.
Ba là, phạt nghiêm minh, nghiêm khắc, đúng người đúng tội là cần
thiết, song việc gì cũng xử phạt thì lại khơng đúng. Cần coi trọng giáo dục,
lấy giáo dục, cảm hóa làm chủ yếu. Chỉ có như vậy mới làm cho cái tốt
trong mỗi người nảy nở như hoa mùa Xuân và cái xấu mất dần đi. Trong
giáo dục cán bộ, phải coi trọng giáo dục đạo đức, xây dựng hệ chuẩn mực

đạo đức của người cầm quyền, khơi dậy lương tâm trong mỗi con người. Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: “cán bộ các cơ quan, các đồn thể, cấp cao thì quyền to,
cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có
dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ cơng vi tư””1.
Bốn là, cán bộ phải đi trước làm gương, cán bộ giữ chức vụ càng cao,
trách nhiệm nêu gương càng lớn. Cán bộ, người đứng đầu có ý thức nêu
gương tu dưỡng đạo đức, chống tiêu cực, sẽ có tác động rất mạnh mẽ đến
cấp dưới, đến nhân dân, góp phần gây nên những đức tính tốt trong nhân
dân. Đây là một nét đặc sắc trong văn hố chính trị Việt Nam.
Năm là, phải huy động sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước vào cuộc
chiến chống lại tiêu cực trong con người, trong xã hội và trong bộ máy Nhà
nước. Bất kỳ người Việt Nam nào có lịng tự hào, tự tơn dân tộc, thì dù là
người dân bình thường, hay cán bộ, đảng viên, thì đều phải có trách nhiệm
tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.
Chương 4: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay
4.1 Thực trạng nhà máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam


Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những nội
dung quan trọng trong quá trình Đổi mới đất nước. Vấn đề này đã được nêu ra
trong Cương lĩnh chính trị của Đảng ngày một rõ ràng hơn. Từ Cương lĩnh năm
1991 và Cương lĩnh sửa đổi năm 2011 đến nay đã trải qua hơn 30 năm do tình
hình trong nước và ngồi nước biến đổi mau lẹ, Cương lĩnh đã được bổ sung để
việc xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển và
hội nhập.

* Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà máy pháp quyền XHCN, Đảng và
Nhà nước ta đã đạt được một số những thành tựu nhất định.


Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN có nhiều tiến bộ, hoạt động
hiệu lực và hiệu quả hơn; chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã được thay đổi phù hợp với cơ sở kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Quan hệ Nhà nước - công dân, Nhà nước - thị trường, Nhà nước -doanh
nghiệp được nhận thức lại và thay đổi từ mang nặng quản lý sang theo hướng
Nhà nước kiến tạo, phát triển.

Hai là, tổ chức bộ máy lập pháp được hoàn thiện. Hệ thống pháp luật, các
đạo luật trong quản lý nhà nước và xã hội ngày càng được coi trọng, được đổi
mới, sửa đổi, bổ sung ngày càng đầy đủ, phù hợp hơn. Vai trò của pháp luật và
thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà
nước và đời sống xã hội.


Tính tối cao của Hiến pháp được bảo đảm, Hiến pháp giữ vị trí tối thượng
trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc mọi văn bản quy phạm pháp luật phải phù
hợp và không được trái Hiến pháp được tôn trọng.
Thể chế pháp luật về kinh tế tiếp tục cải cách sâu rộng. Nhiều văn bản pháp
luật được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới. Cải cách hành chính, cải cách tư
pháp trên một số lĩnh vực có bước đột phá. Tổ chức bộ máy của toà án nhân dân,
viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được
kiện toàn, chất lượng hoạt động có tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân.

Ba là, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Đại hội XII khẳng định: “Quan
điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được bổ sung, hoàn
thiện một bước quan trọng và cơ bản”.

Cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực giữa các cơ quan nhà
nước trong việc lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển
biến tích cực. Bộ máy Nhà nước bước đầu được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả, gắn với tinh giản biên chế. Nói cách khác là, tổ
chức và cơ chế hoạt động của các thiết chế trong bộ máy nhà nước có nhiều đổi
mới trong thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của mình.

Bốn là, hoạt động của Quốc hội trong xây dựng pháp luật, giám sát tối cao và
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước có nhiều đổi mới, chất lượng


và hiệu quả được nâng cao. Vai trò, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội được thể
hiện rõ.
Hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp có nhiều đổi mới. Hoạt động của
Chính phủ và các bộ, ngành chủ động, tích cực, tập trung hơn vào quản lý, điều
hành vĩ mô; tháo gỡ các rào cản; phục vụ, hỗ trợ phát triển. Tổ chức bộ máy của
chính quyền địa phương được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn; quan tâm xây
dựng chính quyền đơ thị, chính quyền nơng thơn, khẩn trương triển khai xây
dựng chính quyền điện tử.

Vấn đề thể chế hóa đường lối, quan điểm Cương lĩnh của Đảng là một chuỗi
các vấn đề cần nhận thức lại với tinh thần tổng kết trên bình diện lý luận và đối
chiếu với thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên mà cách đây 4 năm, tổng bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã phát biểu, khẳng định trước Quốc hội: “Tập trung xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi để tiếp tục
thể chế hóa Cương lĩnh chính trị, các quan điểm, đường lối của Đảng, cụ thể hóa
Hiến pháp, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò và hiệu lực quản lý của
Nhà nước…”.

* Từ thực tế cho thấy, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN

ở nước ta còn gặp nhiều hạn chế.

Một là, “xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN có mặt chưa đáp ứng tốt yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới” như trong
Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã
nêu ra. Vấn đề đổi mới, đồng bộ, phù hợp giữa kinh tế với chính trị, văn hóa, xã


hội, giữa đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có một số mặt
chưa rõ nên còn lúng túng. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về
chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế.

Hai là, “Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, cịn chồng chéo; tính cơng khai, minh bạch,
khả thi, ổn định cịn hạn chế”. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ
cương, phép nước còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài
xử lý chưa đủ sức răn đe.
Cải cách hành chính chậm, thiếu đồng bộ; thủ tục hành chính cịn phức tạp.
Vẫn cịn tình trạng văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn. Một số luật được
thông qua và ban hành nhưng chất lượng hạn chế, chưa sát thực tiễn cuộc sống,
tính khả thi hạn chế, phải điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nhiều lần.

Ba là, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước pháp quyền ở địa phương còn
nhiều hạn chế, vẫn cịn tình trạng nhũng nhiễu, oan sai trong hoạt động tư pháp.
Cải cách tư pháp còn chậm. Việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi cịn mang tính
hình thức. Cơ chế bảo đảm thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của nhân dân vẫn
chưa được tạo lập đầy đủ; khả năng kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân
dân cịn hạn chế.

Bốn là, tổ chức và hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp cịn

có những mặt hạn chế. Cải cách hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển của đất nước.


Hiệu quả thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội chưa như mong
muốn. Vẫn còn những Hội đồng nhân dân hoạt động có tính chất hình thức. Bộ
máy của Chính phủ chưa thực sự tinh gọn; quản lý liên ngành và quản lý chun
ngành cịn có những hạn chế nhất định. Giữa các bộ, ngành vẫn còn một số nội
dung quản lý trùng lặp hoặc phân công không rõ. Việc phân công, phân cấp,
phân quyền giữa bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương trên nhiều
vấn đề chưa được phân định cụ thể, thiếu rõ ràng, dẫn đến hiệu lực, hiệu quả
chưa cao. Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn vị sự
nghiệp cơng vẫn cịn q lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín cịn nhiều hạn chế,
thiếu tính chun nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình
mới
4.2 Đề xuất giải pháp
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII xác định mục tiêu chung là: “Tiếp tục
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của
đổi mới hệ thống chính trị”. Để thực hiện mục tiêu này, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII đề ra một số giải pháp cụ thể để xây dựng, hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn tới như sau:


Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường




kiểm sốt quyền lực nhà nước
Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi,
công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.


Trong quá trình xây dựng pháp luật, phải lấy quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới
sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững làm mục tiêu.


Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực
sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động,
phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao



Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền,
chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, cơng khai, minh bạch.



Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, cơng bằng,
nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.




Tiếp tục hồn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với địa bàn
nơng thơn, đơ thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định”.
Cần triển khai thực hiện tốt biện pháp cụ thể sau: thực hiện và tổng kết việc
thí điểm chính quyền đơ thị nhằm xây dựng và vận hành các mơ hình quản trị
chính quyền đơ thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; gắn
kết và đổi mới tổ chức, bộ máy và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp; cải cách phân cấp ngân sách nhà
nước theo hướng phân định rõ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương,
bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, nâng cao tính chủ động,
tự chủ của ngân sách địa phương



Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy
tín, phục vụ Nhân dân và sự phát triển của đất nước


×