Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN ĐẦU TƯ QUỐC TẾ BA TÁC ĐỘNG ĐÁNG CHÚ Ý CỦA FDI ĐẾN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.26 MB, 30 trang )

BA TÁC ĐỘNG ĐÁNG
CHÚ Ý CỦA FDI ĐẾN
VIỆT NAM
trong giai đoạn hiện nay

GIẢNG VIÊN

TRÌNH BÀY BỞI

TS. Mai Hương Giang

Nhóm 03


BẢNG
MỤC LỤC
01.

Mở đầu

02.

Lý thuyết về FDI

03.

Tác động của FDI về Vốn tại Việt Nam

04.

Tác động của FDI về Việc làm và tiền


lương tại Việt Nam

05.

Tác động của FDI về Công nghệ tại
Việt Nam

06.

Đề xuất giải pháp

07.

Kết luận


Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết, giao lưu,
hợp tác giữa nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế quốc
gia khác. Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu
thế lớn và tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia trên toàn thế giới, đặc biệt là những nước đang phát
triển như Việt Nam

Bên cạnh những mặt tích cực, FDI có thể gây ra những bất lợi cho
nước tiếp nhận, trong đó có Việt Nam. Việc sử dụng nhiều vốn đầu
tư FDI có thể dẫn đến việc thiếu chú trọng huy động tối đa vốn trong
nước, gây ra sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư , có thể gây nên sự
phụ thuộc của nền kinh tế vào vốn đầu tư nước ngoài. FDI cũng ảnh
hưởng xấu đến vấn đề việc làm, thu nhập và năng suất của người
lao động. Không những thế, vấn đề chuyển giao công nghệ kém

hiệu quả ảnh hưởng lớn đến dây chuyền sản xuất cũng như các vấn
đề về mơi trường,...
Vì vậy, Nhóm lựa chọn đề tài: " Ba tác động của FDI đến Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay" để làm Bài tập lớn với mục đích nhìn nhận
thực trạng, đánh giá ưu và nhược điểm để từ đó có cái nhìn tổng
quan về dịng tiền đầu tư nước ngồi. Giúp Việt Nam thu hút đầu tư
và sử dụng hiệu quả FDI để nâng cao vị thế cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.

MỞ ĐẦU

Với những thế mạnh về tài nguyên, nhân lực trẻ, nước ta hằng năm
đã thu hút lượng đầu tư nước ngoài rất lớn và được quốc tế đánh
giá là một trong những quốc gia thu hút FPI thành công nhất khu
vực và trên thế giới, được đánh giá là địa điểm đầu tư tin cậy, hiệu
quả đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Việc thu hút các nhà đầu tư nước ngồi đã phần nào góp phần thúc
đẩy chuyển dịch, đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, nhiều mơ hình
tăng trưởng vượt bật, nâng cao khả năng cạnh tranh của các nhà
đầu tư trong và ngồi nước, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhiều
sản phẩm, dịch vụ, được cạnh tranh đưa ra thị trường, thúc đẩy cải
cách thể chế , chính sách kinh tế, mơi trường đầu tư kinh doanh,
giúp tạo ra nhiều công ăn việc làm cho dân số trẻ của nước ta.


PHẦN 1

LÝ THUYẾT VỀ FDI

KHÁI NIỆM

Hiện nay có 3 khái niệm, quan điểm về nguồn vốn FDI là tương đồng, phổ biến:
Theo BPM6, FDI là một loại hình đầu tư xun biên giới, trong đó nhà nước
đầu tư nước ngồi có quyền kiểm sốt hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới hoạt
động quản lý doanh nghiệp đặt tại một quốc gia khác.
Theo UNCTAD, FDI là một loại hình đầu tư liên quan tới mối quan hệ dài
hạn, phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một chủ thể cư trú tại
một nền kinh tế đối với một doanh nghiệp cư trú tại một nền kinh tế khác
Theo OECD, FDI là một loại hình đầu tư xuyên biên giới được thực hiện bởi
một chủ đầu tư nước ngoài với mục tiêu thiết lập một lợi ích dài hạn tại một
doanh nghiệp đặt tại một quốc gia khác.

PHÂN LOẠI FDI
1. Theo động cơ của nhà đầu tư
FDI theo chiều ngang (Horizontal FDI)
Nước đầu tư có mục đích là mở rộng quy mơ sản xuất các hàng hóa cùng loại hoặc
tương tự ở trong nước tại nước ngoài. Với ưu điểm là giúp nhà đầu tư tận dụng
được lợi thế kinh tế theo quy mơ và khai thác tồn bộ lợi thế độc quyền
FDI theo chiều dọc (Vertical FDI):
Liên kết lùi (Backward vertical FDI) : Mục đích của nước đầu tư là khai thác các yếu
tố đầu vào tại nước ngoài. Ưu điểm là tận dụng các nguồn lực giá rẻ tại nước ngồi
và giành quyền kiểm sốt những nguồn ngun liệu thơ
Liên kết tiến (Forward vertical FDI): Mục đích của nước đầu tư là khai thác các
kênh phân phối tại nước ngoài. Ưu điểm là nhằm phá vỡ những rào cản gia nhập
thị trường; thúc đẩy quá trình phân phối và tiêu thụ sản phẩm được sản xuất trong
nước tại nước ngoài
FDI hỗn hợp (Conglomerate FDI): Nước đầu tư có mục đích là đa dạng hóa ngành
kinh doanh nhằm phân tán rủi ro, thâm nhập ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Chủ
đầu tư và đối tượng tiếp nhận hoạt động trong các ngành nghề, lĩnh vực khác
nhau. Thực hiện đồng thời 2 chiến lược: Quốc tế hóa và đa dạng hóa.
2. Theo định hướng của nước nhận đầu tư

FDI thay thế nhập khẩu: liên quan tới hoạt động sản xuất các hàng hóa mà
trước đây nước nhận đầu tư phải nhập khẩu.
FDI gia tăng xuất khẩu: Liên quan tới hoạt động sản xuất giúp nước nhận đầu
tư tăng cường xuất khẩu ngun liệu thơ và hàng hóa sang quốc gia đi đầu
tư và các quốc gia thứ ba.
FDI do chính phủ khởi xướng: Chủ yếu nhằm mục đích phát triển các ngành sản
xuất yếu kém, các ngành kinh tế cịn khó khăn và cải thiện cán cân thanh toán.


3. Theo hình thức thâm nhập
Đầu tư mới (Greenfield): Nhà đầu tư thiết lập hoạt động sản xuất, phân phối hoặc cơ sở mới tại
quốc gia nhận đầu tư.
Mua lại và sáp nhập xuyên biên giới (CBM&A): Nhà đầu tư mua lại hoặc hợp nhất hoạt động kinh
doanh với một doanh nghiệp mục tiêu tại nước nhận đầu tư.
Liên doanh (Joint Ventures): Nhà đầu tư hợp tác với doanh nghiệp địa phương, với tổ chức chính
phủ hoặc với doanh nghiệp nước ngoài khác tại quốc gia nhận đầu tư để thành lập một doanh
nghiệp liên doanh.
4. Một số cách phân loại khác
Theo mục tiêu chiến lược của nhà đầu tư:
FDI mở rộng: nhằm gia tăng doanh số và
lợi nhuận thông qua việc tận dụng
những lợi thế đặc thù của chính mình.
FDI phịng vệ: nhằm giảm thiểu chi phí
sản xuất thơng qua việc khai thác những
nguồn đầu vào giá rẻ tại nước nhận đầu
tư.
Phân loại của Kojima
FDI định hướng thương mại: FDI có tác
động tích cực tới hoạt động thương mại
tồn cầu.

FDI định hướng phi thương mại: FDI có
tác động tiêu cực với hoạt động thương
mại toàn cầu.

TÁC ĐỘNG CỦA FDI ĐẾN NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ
FDI tạo ra nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển nền kinh tế
Trong thời kỳ mới phát triển, trình độ kinh tế cũng như GDP và GNP tính theo đầu người thấp vì
khả năng tích lũy vốn trong nội bộ nền kinh tế cịn hạn chế. Trong khi đó, nhu cầu vốn đầu tư để
phát triển lại rất lớn. Trong hoàn cảnh đó, đầu tư quốc tế đem lại nguồn vốn lớn từ nước ngồi
chính là lời giải cho bài tốn thiếu vốn đầu tư, đưa quốc gia ra khỏi vòng luẩn quẩn của sự thiếu
vốn và kém phát triển
FDI phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập
Nguồn vốn FDI giúp các nước đang phát triển tận dụng nguồn lao động dồi dào của mình, đồng thời
cũng góp phần đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động của người lao
động ở doanh nghiệp có vốn FDI thường cao hơn doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, người lao
động làm việc trong các doanh nghiệp FDI thường địi hỏi có kinh nghiệm, tay nghề cao, khiến một
bộ phận người cao tuổi có nguy cơ thất nghiệp trước xu thế lao động hiện nay.


Tiền lương tại các doanh nghiệp FDI được đánh giá ở mức cao, giúp cải thiện thu nhập cho người lao
động. Bên cạnh đó, Các doanh nghiệp

TIAnướcngồi SÁNGthườngbóclộtsứclao động của nước được nhận

đầu tư, kìm hãm mức lương. Và dù tiền lương có tăng lên so với trước khi đầu tư thì giá cũng khơng được những gì

người lao động bỏ ra.

HIỆU ẢNH


FDI thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Ngày nay, FDI đã trở thành 1 trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng
tích cực ở nước nhận đầu tư. Theo xu hướng hiện nay, nguồn FDI chủ yếu tập trung vào các ngành công
nghiệp và dịch vụ, vì vậy đáp ứng được nhu cầu phát triển các ngành này ở các nước đang phát triển.

Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu này có thể xảy ra tình trạng bất cân đối, chưa phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội, dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước hay thâm hụt thương mại...
FDI và sự chuyển giao công nghệ
Nguồn vốn FDI từ các nước phát triển thường đi kèm với q trình chuyển giao cơng nghệ, máy
móc trang thiết bị. Vì vậy, thu hút nguồn vốn FDI giúp các doanh nghiệp của nước nhận đầu tư cải
tiến về cơng nghệ, nhờ đó, góp phần đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
FDI góp phần tích cải thiện chất lượng lao động
Để đáp ứng yêu cầu khi tham gia vào các doanh nghiệp FDI, người lao động địi hỏi phải có tay nghề
cao, được đào tạo chuyên sâu, từ đó cải thiện kỹ năng của người lao động. Cùng với đó, các doanh
nghiệp cũng được tiếp thu trình độ quản lý tiên tiến của các công ty đa quốc gia, giúp nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực và tiêu chuẩn quản lý của doanh nghiệp ở nước nhận đầu tư.

FDI góp phần vào quá trình mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế
FDI đóng vai trị quan trọng trong việc gắn kết giữa các quốc gia đi đầu tư và quốc gia nhận đầu
tư, làm cho phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. Những cam kết về tự do hóa đầu
tư nước ngồi được coi là những quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế của từng quốc gia.
Vấn đề môi trường của nước nhận đầu tư
Các nhà kinh tế học đều cho rằng, tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tốc độ gây ô nhiễm môi trường
do khai thác tài nguyên và thải các chất động hại từ hoạt động sản xuất. nhiều nước đang phát triển đưa ra
tiêu chuẩn kiểm sốt mơi trường thấp hoặc do trình độ quản lý kém cũng chính là nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường khi tiếp nhận đầu tư.



PHẦN 2


BA TÁC ĐỘNG ĐÁNG CHÚ
Ý CỦA FDI VÀO VIỆT NAM

Trước hết, chúng ta cần khẳng định rằng thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều
cơ hội phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị
thế cạnh tranh cho Việt Nam. Song cùng với
đó nó cũng mang tới nhiều mặt hạn chế, ảnh
hưởng trực tiếp tới sản lượng sản xuất và tăng
trưởng.

FDI tác động đến nhiều mặt tuy nhiên Nhóm
chọn 3 tác động rõ rệt nhất là: Vốn, vấn đề
việc làm và lương; công nghệ để phân tích,
chứng minh từ đó đưa ra đánh giá vào tình
hình thực tế tại Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay


TÁC ĐỘNG ĐẾN
NGUỒN VỐN
Trong quá trình chuyển mình để hội nhập, Việt Nam khơng
chỉ chủ trương “cơng nghiệp hóa hiện đại hóa” mà cịn cần
“phát triển bền vững”. Và để biến bất kỳ chủ trương nào
thành hành động cũng cần nguồn lực quan trọng hàng đầu
là vốn. Tuy nhiên nhìn vào thực tế cho thấy nội lực vốn của
Việt Nam vẫn cịn rất yếu, do đó nhu cầu về vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài của nước ta hiển nhiên là cao.


Vì vậy để thu hút nguồn vốn FDI vào nước ta, ngay từ
những năm đầu mở cửa Việt Nam đã có nhiều chính sách
ưu đãi như: miễn hoặc giảm thuế; miễn giảm thuế nhập
khẩu; miễn giảm thuế thu nhập DN; cho thuê đất với mức
giá ưu đãi. Ưu đãi về Lĩnh vực đầu tư; Số lượng việc làm
tạo ra; Ưu đãi theo tổng mức đầu tư…Thậm chí hiện nay
các chính sách ưu đãi của Việt Nam cho các doanh nghiệp
FDI được đánh giá là khá cao so với nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới. Kết quả là sau 30 năm đổi mới để tiếp
cận với nguồn vốn dồi dào này, dịng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi (FDI) vào Việt Nam đã không ngừng tăng,
càng ngày khẳng định Việt Nam là một trong những quốc
gia thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI) thành cơng
nhất trong khu vực.

Q trình thu hút FDI có thể chia ra các
giai đoạn sau:

Giai đoạn 1988-1990, Luật Đầu tư nước ngoài vừa mới ra đời.
Vì vậy, việc thu hút vốn FDI lúc này chưa tác động rõ rệt đến
kinh tế – xã hội Việt Nam.
Giai đoạn hai từ 1991-1997 là những năm diễn ra làn sóng FDI
thứ nhất. Giai đoạn này đã thu hút được 2.130 dự án với vốn
đăng ký là hơn 33,4 tỷ USD, vốn thực hiện 12,34 tỷ USD. Trong
đó, chỉ riêng năm 1997, vốn thực hiện đã đạt 3,115 tỷ USD, gấp
gần 9,5 lần năm 1991.
Giai đoạn 1998-2004, do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng
tài chính khu vực, nên trong số 3.968 dự án mới trong giai đoạn
này, phần lớn có quy mơ nhỏ. Nếu năm 1998 có hơn 5 tỷ USD vốn
đăng ký, thì sang năm 1999 đã giảm còn một nửa với 2,565 tỷ

USD và hồi phục dần đến năm 2004 là 4,547 tỷ USD.


Giai đoạn 2005-2009, bắt đầu một làn sóng FDI thứ hai vào Việt Nam. Đỉnh điểm là năm 2008
khi vốn đăng ký đạt hơn 71 tỷ USD.
Giai đoạn từ năm 2010 đến nay, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế tồn
cầu, tình hình thu hút có chiều hướng giảm xuống. Cụ thể, năm 2011, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã
đặt mục tiêu thu hút khoảng 20-21 tỷ USD vốn FDI, nhưng kết quả là chỉ đạt 14,7 tỷ USD. Năm
2012, mặc dù đã giảm mục tiêu thu hút xuống còn 15-17 tỷ USD, nhưng tính đến hết tháng 11,
Việt Nam mới thu hút được 12,181 tỷ USD, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, việc
đạt mục tiêu này đang trở thành nhiệm vụ bất khả thi đối với Việt Nam.

Tác động tích cực khi Việt Nam gia tăng nguồn vốn FDI
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư - Nguyễn Chí Dũng, khu vực FDI ngày càng khẳng định
vai trị quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay, 58% vốn FDI tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp chế biến, chế tạo, tạo ra 50% giá trị sản xuất cơng nghiệp, góp phần hình thành một số
ngành cơng nghiệp chủ chốt của nền kinh tế như dầu khí, điện tử, viễn thông...
Trong những năm qua, việc giảm gánh nặng thuế và đa dạng hóa các hình thức ưu đãi thuế đã
góp phần tạo ra mơi trường đầu tư thuận lợi để thu hút vốn FDI. Nhờ đó, dịng vốn FDI vào Việt
Nam liên tục tăng qua các năm. Đến hết năm 2018, Việt Nam đã thu hút được 29792 dự án với
tổng số vốn đăng ký lũy kế khoảng 400 tỷ USD.
Dòng vốn FDI và lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam luôn tăng mạnh theo từng năm. Chính sách mở
cửa cho FDI và thương mại của Việt Nam cho tới nay rõ ràng đã giúp đẩy mạnh việc Việt Nam hội nhập
với nền kinh tế toàn cầu, tham gia vào mạng lưới sản xuất khu vực và đa dạng hóa xuất khẩu.


Thông tin từ Bộ KH&ĐT cho biết, vốn đăng ký
mới từ đầu năm đến nay đạt trên 13 tỷ USD,
tăng 11,6% so với cùng kỳ; vốn tăng thêm đạt
trên 7,09 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ.

World Bank cho biết, trong 8 tháng đầu nam
2021, tổng vốn FDI đang ký vào Việt Nam đạt
14 tỷ USD, chỉ thấp hon 2% so với cùng kỳ nam
2020. Trong khi vốn FDI thực hiẹn đạt 11,7 tỷ
USD, tang 2% so với cùng kỳ nam truớc.
Trong tháng 8/2021, thời gian mà dịch Covid-19 đang diễn biến rất phức tạp, Viẹt Nam thu hút
đuợc 2,4 tỷ USD vốn FDI đang ký, tang 65% so với tháng 7 được WB đánh giá cao.
Theo báo cáo mới nhất của Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày
20/11/2021, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam (bao gồm vốn đăng ký cấp mới,
vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài - FDI) đạt
26,46 tỷ USD, tăng 0,1% so với cùng kỳ năm trước.
Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, vốn đăng ký cấp mới có 1,577 dự án được cấp phép với số vốn
đăng ký đạt 14,06 tỷ USD, giảm 31,8% về số dự án và tăng 3,7% về số vốn đăng ký so với cùng
kỳ năm trước.
Vốn đăng ký điều chỉnh có 877 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn
đầu tư tăng thêm 8,02 tỷ USD, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm trước. Vốn đăng ký góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngồi có 3.466 lượt với tổng giá trị góp vốn 4,38 tỷ USD, giảm 33%
so cùng kỳ năm trước.

Tác động tiêu cực khi Việt Nam gia tăng nguồn vốn FDI
Các ngân hàng thương mại “thích” cho FDI vay

Giảm bớt gánh nặng về tỷ giá có thể coi là một trong những yếu tố quan trọng để thu hút FDI vào
Việt Nam. Cùng với đó, lâu nay việc các ngân hàng Việt Nam sẵn sàng mở cửa cho doanh nghiệp
FDI vay vốn cũng là một trong những động lực thu hút các doanh nghiệp này, tuy nhiên, hiện còn
nhiều tranh luận xung quanh vấn đề có nên cho FDI vay vốn trong nước.
Cụ thể, theo ý kiến từ phía đại diện một ngân hàng, hướng vay ngân hàng thương mại trong nước của các
doanh nghiệp FDI ngày càng phổ biến hơn, tăng cao hơn và xu hướng này là không thể ngăn cản vì các dự án
FDI thường là “tốt”. Nhận định cho rằng, đây là việc mà các nước có mong muốn thu hút FDI phải khuyến
khích, vì nó gia tăng tính cạnh tranh trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia với nhau.

Có ý kiến cho rằng các doanh nghiệp FDI vay vốn thì chẳng khác nào “lấy mỡ nó rán nó”, tận dụng nguồn

vốn của nước sở tại để thực hiện dự án chứ không đưa vốn từ nước ngoài vào như chúng ta vẫn tưởng.
Bãi rác thải cơng nghệ

Một lợi ích của hình thức đầu tư FDI khác biệt với các hình thức khác là có kèm theo chuyển giao
cơng nghệ, kỹ thuật bằng các tài sản cố đinh như máy móc, thiết bị dây chuyền sản xuất,… Tuy
nhiên đây cũng lại là một bất cập khi các tài sản này được tính vào vốn đầu tư thay vì chuyển giao
vốn bằng tiền mặt, mà chi phí chuyển giao được hạch tốn vào chi phí thực tế của doanh nghiệp,
dễ dàng để các doanh nghiệp FDI có thể khai tăng vốn đầu tư để tăng chi phí, ảnh hưởng trực tiếp
tới số lượng và chất lượng của nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam. Mà thực tế các máy móc, thiết bị,
… này hầu hết là các tài sản đã lỗi thời, khơng cịn được sử dụng ở chính quốc mới được chuyển
sang Việt Nam, nguy cơ biến Việt Nam thành bãi rác của thế giới.


Tình trạng chuyển giá, báo lỗ của các Doanh nghiệp FDI

Hiện nay, các hình thức chuyển giá phổ biến
gồm có: Chuyển giá thơng qua chuyển giao tài
sản hữu hình giữa các bên liên kết; chuyển giá
thông qua chuyển giao tài sản vơ hình; chuyển
giá thơng qua cung cấp dịch vụ nội bộ tập
đồn; chuyển giá thơng qua chi trả lãi vay vốn
sản xuất - kinh doanh; nâng giá trị tài sản vốn
góp, mua yếu tố đầu vào của cơng ty mẹ,…Với
cách thức này, lợi nhuận từ công ty FDI tại
Việt Nam đã được chuyển sang cho bên liên
kết tại nước ngồi có mức thuế suất thấp hơn
mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp tại
Việt Nam để có thể được hưởng mức thuế suất

thấp này. Hành vi này thường xảy ra tại các
cơng ty có ngành nghề sản xuất - kinh doanh
có sử dụng vốn lớn như: Khai thác mỏ; sản
xuất, lắp ráp các phương tiện vận tải...
Mặc dù, các DN FDI liên tục báo lỗ nhưng vẫn tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Tình trạng trục
lợi từ chính sách ưu đãi thu hút FDI vẫn diễn ra là do Chính sách ưu đãi thuế có thời hạn, ưu đãi
về thời gian miễn giảm thuế có xu hướng thu hút các dự án đầu tư ngắn hạn, thay vì các dự án
đầu tư dài hạn và sau khi hết kỳ hạn ưu đãi thuế, DN FDI có xu hướng thay đổi dự án đầu tư hiện
tại thành dự án mới về mặt pháp lý, để tiếp tục được hưởng ưu đãi thuế.
Hiện tượng vốn mỏng
Theo lý giải của ông Đỗ Thiên Anh Tuấn (Đại học Fulbright Việt Nam), khi cơ cấu vốn của doanh
nghiệp chủ yếu đến từ khoản nợ từ bên ngồi thay vì vốn chủ sở hữu, thì đó là tình trạng vốn
mỏng. Đây chính là bước đầu tiên của hiện tượng chuyển giá thông qua vốn đầu tư.
Việc tăng nhanh nợ nước ngồi theo hình thức tự vay, tự trả chủ yếu nằm ở khối doanh nghiệp
FDI. Khối này chiếm tới 76% tổng nợ của doanh nghiệp và chủ yếu tập trung ở một số doanh
nghiệp FDI quy mơ lớn. Qua rà sốt 140 doanh nghiệp có vốn vay gấp trên 4 lần vốn chủ sở hữu,
thì 100% số này là doanh nghiệp FDI.
Theo quy định tại Luật Quản lý nợ công, vốn vay nước ngồi theo hình thức tự vay, tự trả của
doanh nghiệp cũng được tính vào nợ nước ngồi của quốc gia. Mà khoản nợ này, mặc dù tính tới
cuối năm 2018 đã giảm xuống còn 46% GDP (so với 48,9% GDP vào thời điểm cuối năm 2017),
song vẫn khá sát ngưỡng 50% GDP mà Chính phủ đặt ra.
Cụ thể, cơng ty mẹ cho công ty con, công ty liên kết vay nợ, cũng như cung cấp các dịch vụ tài
chính với lãi suất cao hơn trên thị trường ngân hàng. Chi phí lãi vay lại là khoản chi phí được
phép khấu trừ, vì vậy, các doanh nghiệp đã chọn “mánh” này để chuyển lợi nhuận về nước. Đó
chính là chuyển giá.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, trong 3 năm qua, có hơn 50% doanh nghiệp FDI thua lỗ, nhiều
doanh nghiệp lỗ, nhưng vẫn mở rộng đầu tư và điều này phần nào cho thấy, tình trạng chuyển
giá ngày càng phức tạp.



FDI TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC LÀM VÀ TIỀN LƯƠNG

VIỆC LÀM
Tác động tích cực
Giải quyết khủng hoảng việc làm
Khi một quốc gia đặt nhà máy sản xuất kinh doanh tại một địa phương, họ sẽ
tận dụng nguồn lao động giá rẻ tại địa phương đó. Do đó, FDI có khả năng
tăng công ăn việc làm một cách trực tiếp thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng
mới hoặc một cách gián tiếp thơng qua khuyến khích phân bổ lao động.
Ở Việt Nam, đánh giá về 30 năm thu hút FDI, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư (KH&ĐT) Vũ Đại Thắng cho rằng, khu vực FDI đã tạo việc làm và
thu nhập ổn định cho một bộ phận không nhỏ lao động.
Theo kết quả Tổng điều tra lao động việc làm, số lượng lao động làm
việc trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng từ 330.000
năm 1995 lên khoảng 6,1 triệu lao động vào năm 2019. Tốc độ tăng lao
động của khu vực FDI bình quân 7,72%/năm, cao hơn nhiều tăng trưởng
lao động toàn nền kinh tế và các thành phần kinh tế khác.Việc tạo ra công
ăn việc làm cho người lao động ở đây không chỉ làm giảm tỷ lệ thất nghiệp
trong nước mà còn làm tăng thu nhập cho người lao động, từ đó tạo điều
kiện tăng tích lũy trong nước, góp phần ổn định kinh tế-xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Hiện nay, đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ các ngành thâm dụng
lao động tay nghề thấp sang các ngành sử dụng nhiều lao động chất
lượng cao hơn. Theo đó, tỷ trọng lao động trong một số ngành sản xuất
áp dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin, công nghệ hỗ trợ, logistics,
điện tử, cơ khí… đang gia tăng nhanh chóng.
Theo bà Valentina Barcucci, chuyên gia của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) cho biết, thị trường lao động Việt Nam đã phản ánh khá rõ sự dịch
chuyển cơ cấu kinh tế. Nếu năm 2000 gần 65,3% lực lượng lao động làm

việc trong lĩnh vực nơng nghiệp thì năm 2020 đã giảm xuống chỉ còn
37,2%. Tức là lượng lao động đã chuyển sang lĩnh vực dịch vụ, công
nghiệp khá lớn. Ðến nay lĩnh vực dịch vụ và nông nghiệp sử dụng số lao
động gần tương đương nhau (lần lượt là 37,3% và 37,2%), theo sát là lĩnh
vực công nghiệp (25,5% tổng số việc làm).


Từng bước cải thiện chất lượng nguồn nhân lực
Thông qua hệ thống đào tạo nội bộ ở trong nước và
nước ngoài, hoặc liên kết đào tạo với cơ sở bên
ngoài, khu vực FDI cũng góp phần quan trọng nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực.

Số liệu điều tra của Bộ LĐTB&XH cho thấy, tỷ lệ DN FDI tham gia đào tạo cho người lao động
tương đối cao, đạt 57% năm 2017. Qua đó, DN FDI đã góp phần hình thành và phát triển một lực
lượng lao động có kỹ năng nghề và du nhập nhiều kinh nghiệm quản trị DN, khoa học kỹ thuật
tiên tiến, tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu.

Biểu đồ: Năng suất lao động trong khu vực doanh nghiệp năm 2019. ĐVT: Triệu đồng
(Nguồn: Số liệu tại Hội nghị Cải thiện năng suất lao động quốc gia 2019)

Hội nghị Cải thiện năng suất lao động (NSLĐ) quốc gia 2019, Tổng cục Thống kê cho biết:
NSLĐ doanh nghiệp nhà nước đạt 678,1 triệu VND/lao động. Tuy nhiên, NSLĐ của doanh
nghiệp nhà nước đạt mức cao chủ yếu vẫn dựa vào ưu thế trong việc phân bổ nguồn lực, đặc
biệt là nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; doanh nghiệp ngoài nhà nước đạt 228,4 triệu
VND/lao động, doanh nghiệp FDI đạt 330,8 triệu VND/lao động, gấp 3,5 lần mức NSLĐ chung
cả nước.


VIỆC LÀM

Tác động tiêu cực
FDI có thể làm giảm việc làm thơng qua việc rút đầu tư và đóng cửa các cơ sở sản xuất

Mức độ ảnh hưởng của dịch COVID-19 đối với các doanh nghiệp FDI lớn nhất ở nhóm doanh
nghiệp quy mơ nhỏ, với 89,3% cho biết chịu ảnh hưởng ở mức phần lớn hoặc hoàn toàn tiêu
cực. Doanh nghiệp FDI ở quy mơ lớn là nhóm chịu ảnh hưởng tiêu cực lớn thứ 2, với con số
88%. Tỷ lệ chịu ảnh hưởng tiêu cực của nhóm quy mô vừa và quy mô siêu nhỏ thấp hơn một
chút, lần lượt ở mức 87,3% và 87,2%. Đặc biệt dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, dẫn tới một
số nhà máy bị ngừng hoặc giảm công suất, vốn thực hiện các dự án đầu tư nước ngoài (FDI)
trong tháng 8/2021 giảm 12,2% so với tháng 8/2020 và giảm 14,3% so với tháng 7/2021

Không tận dụng được nguồn tư liệu sản xuất nội địa trong các lĩnh vực

Các doanh nghiệp FDI xâm nhập vào thị trường hầu hết đều mang theo chuỗi cung ứng sẵn
có, hầu hết trực tiếp thực hiện các khâu xuất nhập khẩu mà không qua trung gian là các dn nội
địa. Các nguồn nguyên vật liệu và tư liệu sản xuất hầu hết được nhập khẩu vào phục vụ các
khâu sản xuất tại các doanh nghiệp FDI này. Quốc gia nhận đầu tư gần như chỉ cung cấp
được nhân công giá rẻ cho các dn này mà không có khả năng trở thành nhà cung cấp tư liệu
sản xuất hay ngun liệu đầu vào, hoặc có thể thì khả năng cạnh tranh rất thấp so với các
doanh nghiệp tư nhân nước ngồi. Vì lý do đó mà khơng tạo được việc làm tận dụng lực lượng
lao động nội địa trong các lĩnh vực này. Khâu xuất khẩu thành phẩm của các dn FDI cũng
khơng có sự tham gia nhiều của doanh nghiệp nội địa do ít kinh nghiệm, kĩ năng chưa cao,
chưa được tiêu chuẩn hóa. Dù thu hút được đầu tư FDI rất nhiều nhưng ngành nghề liên quan
đến xuất nhập khẩu chưa được phát triển song song, theo đó lực lượng lao động chưa có cơ
hội được tiếp xúc và đào tạo nhiều.


Khó khăn đối với nhóm lao động có trình độ thấp
Với mục đích tận dụng nhân cơng giá rẻ tại quốc gia nhận đầu tư, nên đặc thù ngành nhận được
vốn FDI nhiều nhất là các ngành chế biến, chế tạo, là những ngành thâm dụng lao động cần sử

dụng số lượng lớn nhân công. Tuy nhiên xu hướng kinh tế thế giới hiện nay đang phụ thuộc nhiều
hơn vào cơng nghệ, trong tương lai gần có thể sẽ có sự thay đổi về thứ tự các ngành thu hút vốn
FDI ưu tiên các ngành về công nghệ thông tin. Với sự thay đổi này, lực lượng lao động trẻ tại các
quốc gia nhận đầu tư có dân số trẻ sẽ có lợi vì dễ thu hút FDI do đặc tính dễ học hỏi, thích nghi,
đào tạo. Ngược lại lao động có tuổi, tay nghề kém, kỹ năng yếu thường phụ thuộc vào khâu sử
dụng lao động tay chân trong các ngành chế biến, chế tạo sẽ khơng có lợi, thậm chí dần bị đào
thải.

TIỀN LƯƠNG
Tác động tích cực
Nước được nhận đầu tư thường là nước kém phát triển hơn nước đi đầu tư. Vì vậy, khi
các nước đi đầu tư sử dụng tài nguyên thiên nhiên, mặt bằng giá rẻ, thị trường nước đầu
tư, chính sách ưu đãi, nguồn nhân công giá rẻ tạo ra nhiều việc làm. Dẫn đến cơ hội việc
làm trong nước nhiều hơn do có nhiều doanh nghiệp nhà máy cần nhân lực hơn trước, thị
trường việc làm trở nên phong phú hơn, thúc đẩy tiền lương được nâng cao.
Mức lương của lao động có trình độ, kinh nghiệm trong các doanh nghiệp FDI thường cao
hơn so với khu vực nhà nước hoặc khu vực ngồi nhà nước. Cụ thể, mức lương trung
bình của lao động trong khu vực có vốn FDI là 8,2 triệu đồng/tháng, trong khi đó, lao động
trong khu vực nhà nước có mức lương trung bình là 7,7 triệu đồng/tháng và đối với khu
vực ngoài nhà nước là 6,4 triệu đồng/tháng (Tổng cục Thống kê, 2019). Điều này đã làm
gia tăng tính cạnh tranh trong thị trường lao động, là động lực làm cho người lao động phải
có ý thức khơng ngừng học tập, nâng cao trình độ để đáp ứng địi hỏi về ngoại ngữ,
chun mơn của các doanh nghiệp FDI.

Mức tiền lương cao nhất năm 2019 là 1,584 tỷ
đồng/người/tháng của một người lao động tại
doanh nghiệp FDI ở thành phố Hồ Chí Minh.


TIỀN LƯƠNG

Tác động tiêu cực
Mặc dù FDI tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho nước nhận
đầu tư, nhưng hầu như là cơng việc địi hỏi trình độ thấp,
cơng việc lao động theo giờ, vì vậy giá nhân cơng chi trả
cho nước nhận đầu tư thấp hơn giá nhân công được trả ở
nước đi đầu tư.
Hiện nay, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngồi vẫn diễn biến phức tạp, tiền lương, thu
nhập của công nhân lao động một số nơi vẫn còn quá
thấp, chế độ đãi ngộ của chủ doanh nghiệp không tốt,
nhiều chủ doanh nghiệp (phần lớn của doanh nghiệp Đài
Loan, Trung Quốc) có thái độ quản lý hà khắc, khơng tơn
trọng người lao động, không thực hiện đúng Luật Lao động
và những cam kết, thỏa thuận với người lao động, nhất là
về hợp đồng lao động, tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã
hội, điều kiện làm việc, thời gian làm việc và nghỉ ngơi…
Từ đó dẫn đến các cuộc xung đột, tranh chấp lao động,
ngừng việc tập thể và đình cơng tự phát ngày càng tăng.
Điều này đã gây mất trật tự, an ninh xã hội, ảnh hưởng
xấu đến nền kinh tế.

THỐNG KÊ

FDI TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG NGHỆ
Tác động của FDI tới công nghệ của nước nhận đầu tư là một trong những tác động quan
trọng nhất, là ưu điểm của FDI so với các hình thức đầu tư quốc tế khác.
FDI co nhưng đong gop lơn trong dẫn dắt quá trình cơng nghiệp hố, hiện
đại hố và tăng trưởng kinh tế Việt Nam.
Trong giai đoạn 2016 - 2020, các nhà đầu tư
nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành lĩnh vực,

trong đó cơng nghiệp chế biến, chế tạo ln là
lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm của nhà
đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm dao động trong khoảng 13-24
tỷ USD, chiếm tỷ lệ phần trăm cao trong tổng số
vốn đầu tư đăng ký (40 - 70%).
Riêng năm 2020, ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo đã thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư
nước ngoài với 800 dự án cấp mới, 680 dự án
điều chỉnh vốn đầu tư và 1268 lượt góp vốn, mua
cổ phần với tổng số vốn là 13,601 tỷ USD, chiếm
47,67% tổng vốn đầu tư.

Đã có nhiều cơng ty công nghệ cao chọn
Việt Nam là cứ điểm sản xuất tồn cầu của
mình như: Sanyo, Samsung, Sony, Fujitsu,
Toshiba,
Panasonic,
Nidec,
Intel,
Microsoft… Các tập đồn này đã xây dựng
nhà máy sản xuất với cơng nghệ hiện đại và
đang tiếp tục rót thêm vốn để mở rộng quy
mô đầu tư tại Việt Nam.


FDI là kênh quan trọng để nước ta tiếp nhận các công nghệ tiên tiến
Những dự án đầu tư từ các tập đồn đa quốc gia là tín hiệu rõ nét cho thấy, Việt Nam đang
chuyển dịch từ ngành công nghiệp sản xuất giá trị thấp sang sản xuất có giá trị cao hơn. Đây là
tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh dịng vốn FDI đang có những khó khăn cũng như cạnh tranh

lớn hiện nay. Điều này cũng cho thấy, Việt Nam là một điểm đầu tư tốt với các tập đoàn đa quốc
gia, nhất là với các dự án công nghệ cao.
Theo Bao cao cua Cuc Đâu tư nươc ngoai vê đôi tac đâu tư, luy kê đên 30/12/2020 đôi vơi cac
dư an con hiêu lưc, Han Quôc la quôc gia đưng đâu FDI vê ca sô dư an (8.983 dự án) va tông
sô vôn đăng ky (70.645,07 triêu USD). Vi tri tiêp theo la Nhât Ban va Singapore.
Tông vôn đâu tư cua 3 quôc gia la 187.454,12 triêu USD, chiêm 48,81%/tông vôn đâu tư cua tât
ca cac quôc gia (139 quôc gia đang đâu tư vao Viêt Nam). Vơi gân 50% sô vôn đâu tư FDI cua
3 quôc gia co nên công nghiêp phat triên la Han Quôc, Nhât Ban, Singapore cho thấy, thông qua
thu hút FDI, Viêt Nam đươc tiêp cân may moc hiên đai, ky tht tiên nhât, cơng nghê cao. Qua
đó, đã góp phần thuc đây kinh tê trong nươc tiên kip vơi sư phat triên cua thê giơi.

Có thể khẳng định, tiếp thu công nghệ cao thông qua FDI là con đường ngắn nhất giúp Việt
Nam tiết kiệm nguồn nhân lực; đồng thời, rút ngắn được thời gian nghiên cứu để tạo ra các sản
phẩm mới với chất lượng cao, từng bước đưa nền kinh tế đi lên bằng chính nguồn lực của
mình, nâng cao trình độ cơng nghệ sản xuất, quản lý và kinh doanh, giúp thu hẹp nhanh khoảng
cách về công nghệ giữa Việt Nam với các nước.
FDI đã tạo ra được nhiều sản phẩm có chất lượng cao với hình thức mẫu mã đa
dạng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường trong nước và nhiều sản phẩm đã xuất
khẩu được ra nước ngồi
Trong đó, nhiều DN FDI đã xuất khẩu gần 100% sản phẩm (điện tử, tin học, quang cơ - điện
tử...) sản xuất tại Việt Nam ra thị trường nước ngoài, giúp cân bằng cán cân thương mại và
đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam những năm qua.


Mặt khác, với sức ép cạnh tranh ngày càng tăng
từ sản phẩm của DN FDI công nghệ cao, nên
nhiều DN trong nước đã đầu tư nhập khẩu thiết
bị và công nghệ mới, lập bộ phận hoặc trung tâm
nghiên cứu và phát triển. Vì vậy, họ đã sản xuất
được sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp,

thay thế hàng nhập khẩu với giá cả hợp lý, được
người tiêu dùng ưu tiên sử dụng và xuất khẩu ra
thị trường thế giới. Dầu khí và truyền thơng là hai
ngành kinh tế nhờ chuyển giao công nghệ gắn
với FDI, nên đã phát triển với tốc độ nhanh, hiện
đại, tiến kịp trình độ thế giới.

PVN đã làm chủ nhiều công nghệ hiện đại nhờ chuyển giao công nghệ
PVN đã áp dụng các phần mềm xử lý và minh giải tài liệu địa chấn, mô hình hóa và mơ phỏng
mỏ, thiết kế khai thác, cơng nghệ khai thác của các hãng Schlumberger, Landmark,
GeoQuest… đạt được hiệu quả kinh tế cao.
PVN ứng dụng công nghệ sinh học và hoá học để nâng cao hệ số thu hồi dầu trong khai thác
thứ cấp ở các mỏ Bạch Hổ, Rạng Đông, Sư Tử Đen. Các nhà khoa học Việt Nam và Nga đã
nghiên cứu, sáng tạo công nghệ khai thác các thân dầu trong đá móng granitoit trước Đệ Tam
ở mỏ Bạch Hổ bể Cửu Long, góp phần duy trì sản lượng khai thác hàng năm của PVN, để đảm
bảo an ninh năng lượng quốc gia, đóng góp quan trọng vào lý thuyết khoa học dầu khí thế giới.
Nhà máy Đạm Phú Mỹ của Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo) và Nhà máy
Đạm Cà Mau của Cơng ty cổ phần Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC) đã tiếp nhận những
cơng nghệ thuộc loại tiên tiến nhất thế giới hiện nay.

Chuyển giao công nghệ trong

lĩnh vực y tế

Hiện nay có 3 hợp đồng chuyển giao công nghệ liên quan đến vắc xin COVID-19 với Nga, Mỹ,
Nhật đã được ký kết. Theo đó, Cơng ty TNHH MTV vắc xin và sinh phẩm số 1 (Vabiotech) cùng
Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC) và Công ty Shionogi Nhật Bản, đã ký thỏa thuận chuyển
giao công nghệ sản xuất vắc xin COVID-19.



Đối với dự án hợp tác chuyển giao công nghệ giữa Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC) và Công
ty Shionogi (Nhật Bản) và vắc xin theo công nghệ mNRA), hiện nay Bộ Y tế đã ký thỏa thuận hợp
tác và đang chuẩn bị kế hoạch triển khai nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 tại Việt Nam
(đầu mối là Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương) và làm các thủ tục chuyển giao công nghệ (đầu mối là
Vabiotech). Dự kiến tháng 6/2022 sẽ hoàn tất các hoạt động và đưa vắc xin ra thị trường.

Dự án chuyển giao công nghệ giữa Công ty DS-Bio, Vabiotech và Quỹ Đầu
tư trực tiếp Liên bang Nga: đã ký thỏa thuận với Quỹ đầu tư trực tiếp của
Liên bang Nga về việc đóng ống vắc xin Sputnik-V từ bán thành phẩm.
Đối với các dự án nghiên cứu chuyển giao công nghệ với Mỹ, hiện Bộ Y tế
đã đã cử 1 nhóm chuyên gia phối hợp cùng Tổ chức y tế thế giới hỗ trợ
đơn vị liên quan hoàn thiện hồ sơ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1-2-3
theo quy trình rút gọn, dự kiến khởi động nghiên cứu vào 1/8 và kết thúc
cuối tháng 12/2021.

FDI TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN CƠNG NGHỆ
Nhìn chung, hoạt động chuyển giao cơng nghệ trong các dự án FDI đã có đóng góp
tích cực đối với đổi mới và chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của
các doanh nghiệp. Tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và nhu
cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong toàn nền kinh tế.
Nước ta - với vị thế là nước nhận đầu tư, có thể sẽ trở thành bãi rác công nghệ cho
những nước khác từ các dự án FDI

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, bối cảnh tranh chấp thương mại Mỹ - Trung đặt ra yêu cầu
Trung Quốc phải có những thay đổi bước ngoặt trong việc cải tiến, áp dụng mạnh mẽ các
công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh của nền kinh tế. Vì thế,
những dự án kém hiệu quả, cơng nghệ cũ kĩ sẽ có xu hướng bị đẩy ra khỏi Trung Quốc để
sang các nước đang phát triển trong khu vực.



Đặc biệt trong dòng vốn FDI trên thế giới suy giảm bởi đại dịch Covid-19. Thống kê của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cho thấy, 20 đối tác đầu tư nước ngoài lớn nhất của Việt Nam, chiếm 96% tổng
vốn đầu tư nước ngồi đăng ký, đều nằm trong nhóm các nước chịu ảnh hưởng nhất của dịch
bệnh. Nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài tăng nhưng nguồn cung giảm dẫn đến tâm lý đánh đổi
phải thu hút đầu tư nước ngồi để phát triển kinh tế. Điều này có thể tạo điều kiện cho những dự
án đầu tư nước ngồi chất lượng thấp vào Việt Nam.

Chưa có nhiều cơng nghệ cao được chuyển giao thông qua FDI vào Việt Nam
Tại Tờ trình phê duyệt Đề án “Chiến lược hợp tác đầu tư nước ngoài giai đoạn 2021-2030”
được Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi Thủ tướng Chính phủ đã tiết lộ con số đáng chú ý. Đó là
tỷ trọng dự án đầu tư nước ngồi sử dụng cơng nghệ tiên tiến, cơng nghệ cao cịn khiêm
tốn và chưa được cải thiện rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp có cơng nghệ thấp và trung bình.
Cụ thể, chỉ có 6% doanh nghiệp đầu tư nước ngồi có cơng nghệ cao, 80% cơng nghệ
trung bình, cịn lại 14% là sử dụng cơng nghệ thấp.
Một ví dụ khác, trong năm 2018 và nửa đầu năm 2019, số dự án từ Trung Quốc đăng ký đầu tư
vào Việt Nam tăng mạnh nhưng với quy mô khá nhỏ (91% dự án dưới 10 triệu USD) và tập trung
vào các lĩnh vực sợi, dệt, linh kiện điện thoại, thép… Điều này cho thấy khả năng các doanh
nghiệp Trung Quốc đang chuyển dịch đầu tư sang Việt Nam để tránh thuế suất là rất cao.

Tiếp nhận FDI thiếu sự sàng lọc, giám định không những không tác động đến việc
đổi mới cơng nghệ mà cịn gây nhiều hậu quả về tiến độ, ngân sách dự án…
Nhà đầu tư thường chú trọng, quan tâm hàng đầu đến lợi ích đầu tư, đầu tư để sinh lợi, những
quy định pháp luật lại cho phép nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về nội dung công nghệ. Thực tế
qua thẩm định các dự án FDI cho thấy, nội dung giải trình cơng nghệ thường rất sơ sài, trong khi
đó, cơng nghệ lại có đặc điểm quan trọng là hàng hóa vơ hình. Để lựa chọn cơng nghệ phù hợp
với mục tiêu của dự án, thường phải đưa ra các phương án công nghệ để so sánh, lựa chọn
phương án tối ưu, xem xét quy trình cơng nghệ, trình độ cơng nghệ, nguồn gốc xuất xứ máy
móc, thiết bị, tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất…



Dự án đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đơng là một ví dụ tiêu biểu. Dự án sử dụng vốn vay
của Chính phủ Trung Quốc. Theo quyết định phê duyệt, dự án bắt đầu thực hiện từ tháng
11/2008, dự kiến hoàn thành vào tháng 11/2013. Tuy vậy, sau hàng chục năm, đến nay dự án
mới xác định được ngày vận hành thương mại chính thức.

Theo tính tốn ban đầu, mặt bằng của dự án sẽ hoàn thành trong năm 2015 và hoàn thành
xây dựng trong năm 2017 nhưng không được như kỳ vọng. Việc dự án đường sắt Cát Linh Hà Đông triển khai xây dựng theo tiêu chuẩn Trung Quốc nhưng khi nghiệm thu lại là đơn vị tư
vấn ACT của Pháp theo tiêu chuẩn châu Âu được Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Ngọc Đông lý
giải, thời điểm ký kết hợp đồng với tổng thầu EPC để triển khai dự án thì Việt Nam chưa có
tiêu chuẩn về thiết kế, đặc biệt là liên quan đến các thiết bị. Bởi vậy, tại thời điểm đó (năm
2013), tiêu chuẩn nào mà Việt Nam khơng có thì sử dụng tiêu chuẩn Trung Quốc. “Tiêu chuẩn
của Trung Quốc cũng dựa trên hệ tiêu chuẩn của châu Âu, nhưng tùy thuộc điều kiện mỗi
quốc gia có tiêu chí áp dụng khác nhau. Ngay cả tiêu chuẩn của Trung Quốc tại thời điểm ký
kết hợp đồng cũng chưa đầy đủ, chưa có tiêu chuẩn về khai thác, họ cũng vừa làm vừa xây
dựng nên khơng đồng bộ ngay từ đầu. Cịn tư vấn Pháp ACT đánh giá an toàn theo phương
pháp đánh giá của châu Âu chứ không phải dùng tiêu chuẩn châu Âu để đánh giá an toàn dự
án Cát Linh - Hà Đông. Tuy vậy, đây cũng là bài học cho Bộ GTVT, các đô thị lớn trong việc
triển khai các dự án đường sắt đô thị sau này”, ông Đông cho biết.


Bên cạnh đó, dự án kéo dài gây thiệt hại cả về ngân sách cho nước ta, dẫn tới bội chi ngân
sách. Dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đơng có tổng mức đầu tư ban đầu được phê duyệt vào
năm 2008 là 8.769,9 tỷ đồng (tương đương 552,86 triệu USD). Tổng mức đầu tư điều chỉnh
của dự án được Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt vào năm 2016 và năm 2017 là 18.001,5 tỷ
đồng (tương đương 868,04 triệu USD), tăng 9.231 tỷ đồng (tương đương 315,18 triệu USD)
so với tổng mức đầu tư được duyệt ban đầu.
FDI chưa tạo ra tác động mạnh để thay đổi, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
trong nước, liên kết và hợp tác hình thành quan hệ về cơng nghệ giữa FDI và doanh
nghiệp còn yếu.


Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, thực tế ở Việt Nam, phần lớn doanh nghiệp
quy mô nhỏ, chưa sẵn sàng tự lực tiếp thu cơng nghệ mới. Hiện cả nước có hơn 600.000
doanh nghiệp, trong đó hơn 90% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, phần lớn đều sử dụng công
nghệ lạc hậu mức trung bình của thế giới.

Kết quả khảo sát đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp thuộc dự án FIRST-NASATI do Cục
Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện mới đây
cho thấy, hơn 85% doanh nghiệp Việt Nam tự thực hiện các hoạt động nghiên cứu phát triển
công nghệ mới hay nâng cấp công nghệ hiện tại, trong khi hoạt động chuyển giao cơng nghệ
từ nước ngồi vào Việt Nam hay từ các tổ chức khoa học và công nghệ cho doanh nghiệp ở
mức thấp chỉ chiếm khoảng 1%.


TRONG 10 THÁNG NĂM 2021

5 DỰ ÁN VỚI SỐ VỐN LỚN CỦA CÁC NHÀ
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

Dự án Nhà máy điện LNG
Long An I và II (Singapore)

Dự án LG Display Hải Phòng
(Hàn Quốc)

Dự án Nhà máy nhiệt điện Ơ
Mơn II (Nhật Bản)

Dự án nhà máy sản xuất
giấy Kraft Vina


Dự án Nhà máy Công ty
TNHH Polytex Far Eastern
Việt Nam (Đài Loan)

Tổng vốn đăng ký trên 3,1 tỷ USD với mục tiêu truyền tải
và phân phối điện, sản xuất điện tại Long An (cấp
GCNĐKĐT ngày 19/3/2021), dự kiến bắt đầu vận hành
vào tháng 12/2025. Dự án do công ty VINACAPITAL GS
ENERGY PTE. LTD. là chủ đầu tư.
Theo kế hoạch phát triển của LG Display Việt Nam, sau
khi dây chuyền sản xuất mới được hoàn thiện, doanh thu
xuất khẩu của LG Display sẽ tăng thêm khoảng 6,5 tỷ
USD/năm; nộp ngân sách tăng thêm khoảng 25 triệu
USD, tạo thêm việc làm cho 10.000 lao động.

Dự án Ơ Mơn II dự kiến áp dụng cơng nghệ tua bin khí
chu trình hỗn hợp tiên tiến, sử dụng nhiên liệu sạch là
khí thiên nhiên, có hiệu suất cao, thân thiện với mơi
trường và phù hợp với xu thế phát triển bền vững hiện
nay.
Kraft Vina hiện nay được xem là nhà máy giấy bao bì lớn
nhất công suất 800.000 tấn/năm (Nhật Bản) và hiện đại
nhất ở Việt Nam, hoạt động sản xuất theo hướng giảm
thiểu việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hạn chế gây
ô nhiễm, thực hiện đầy đủ các quy định về môi trường.
Đây là một trong những dự án đầu tư sản xuất các sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ phục vụ ngành cơng nghiệp dệt
may có quy mơ lớn của Tập đoàn Far Eastern đầu tư vào
Việt Nam sau khi doanh nghiệp này phát triển ở thị trường
Trung Quốc và Đài Loan.



ĐỀ XUẤT
GIẢI PHÁP

Về nguồn vốn
Các chuyên gia kiến nghị, sau thời gian tập trung
nhiều vào “lượng”, đã đến lúc phải thay đổi cả về
“chất” cho dòng vốn FDI, nghĩa là Việt Nam cần chọn
lọc kỹ càng hơn trong thu hút đầu tư nước ngồi.
Thay vì thụ động ngồi chờ, Việt Nam cần chủ động
hơn nữa trong tìm kiếm nguồn vốn FDI có chất lượng,
theo mục tiêu rõ ràng, đó là cần tập trung vào những
đối tác, những tập đoàn lớn, nhằm tạo sức lan tỏa của
FDI đến nền kinh tế trong nước. Quan trọng hơn,
song song với thay đổi chiến lược thu hút FDI cần có


×