ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
MƠN NGUN LÍ MÁC-LENIN 2
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN Ở NƯỚC TA TRONG THỜI KÌ COVID 19
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Phương Hảo
Giáo viên hướng dẫn : ThS. Đặng Hương Giang
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………..3
NỘI DUNG……………………………………………………………………...4
I. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam………………………………………………………………………...4
1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN…………………..4
2. Đặc trưng về sở hữu………………………………………………………….4
3. Đặc trưng về cơ cấu………………………………………………………….5
4. Đặc trưng về phân phối……………………………………………………....5
5. Cơ chế vận hành của nền kinh tế…………………………………………….7
6. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở,
hội nhập………………………………………………………………………….8
II.Tác động của covid 19 lên nền kinh tế thị trường của Việt Nam…………8
III. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam………………………………………………………………………...9
1. Mặt tích cực………………………………………………………………….9
2. Mặt hạn chế…………………………………………………………………11
IV.Một số vấn đề đặt ra và giải pháp………………………………………...12
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….16
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………….17
2
LỜI MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt mà
nước ta lựa chọn trong thời kỳ đổi mới, vừa thể hiện những đặc điểm chung của
kinh tế thị trường vừa thể hiện những đặc trưng riêng, xuất phát từ những nguyên
tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là sự vận dụng sáng tạo kinh nghiệm
trong nước và quốc tế trong phát triển kinh tế thị trường, là kết tinh trí tuệ của
tồn Đảng trong cơng cuộc tồn dân xây dựng đất nước.
Trong những năm gần đây, phương thức định hướng hoạt động của Đảng và Nhà
nước từng bước được đổi mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Cuộc cách
mạng 4.0, phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam phải đồng bộ và gắn với xu
thế kinh tế số. Đồng thời trong tình hình dịch bệnh, việc phát triển cũng như ứng
phó với những khó khăn thách thức là điều vơ cùng quan trọng đồng thời cũng
chính là vấn đề nan giải hiện nay.
Thông qua đề tài: “Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong
thời kỳ covid 19 ”, chúng ta có thể khái quát được các quan điểm về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trao đổi về thực trạng, khó khăn, thách thức
và một số vấn đề đặt ra trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ covid 19.
3
NỘI DUNG
I. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam
1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
Đây có thể coi là một trong những điểm quan trọng để phân biệt nền kinh tế thị
trường ở nước ta với nền kinh tế thị trường khác trên thế giới, nó đề cập đến mục
đích chính trị, mục tiêu kinh tế – xã hội mà Nhà nước và nhân dân ta đã tin tưởng
và quyết định chọn làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển nền kinh tế.
Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phát triển lực
lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, xây dựng dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. . “Mục đích của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời
sống nhân dân”.
2. Đặc trưng về sở hữu
Trước giai đoạn đổi mới, nền kinh tế nước ta chỉ có một hình thức sở hữu duy
nhất về tư liệu sản xuất, đó là chế độ cơng hữu (gồm sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể). Từ khi tiến hành đổi mới đất nước, Đảng Công sản Việt Nam đã nhận
thấy trên thực tế chứa nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, bao gồm cả
công hữu và tư hữu.
Nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu tồn dân, sở hữu
tập thể và sở hữu tư nhân. Sau đó hình hành nên nhiều thành phần kinh tế, nhiều
tổ chức sản xuất kinh doanh: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu
chủ,…
4
3.Đặc trưng về cơ cấu
Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế có nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác là bộ phận hợp thành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngoài ra kinh tế tư nhân là
một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Xác lập vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vấn đề có tính ngun tắc, là sự
khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nó được
quyết định bởi định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế vì mỗi một chế độ
xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước với kinh tế
tập thể tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mặt
khác, cần nhận thức rõ ràng rằng mỗi thành phần kinh tế trong thời kì quá độ có
bản chất kinh tế – xã hội riêng, chịu sự tác động của các quy luật kinh tế riêng,
do đó các thành phần kinh tế bên cạnh sự thống nhất cịn có những sự khác biệt
và mâu thuẫn, đưa đến những hướng phát triển khác nhau. Nhờ có vai trị chủ
đạo của mình, thành phần kinh tế nhà nước mới có thể xây dựng và phát triển
nền kinh tế theo đúng các chính sách quản lý vĩ mơ của nhà nước, đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
4. Đặc trưng về phân phối
Thực hiện phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, mức đóng góp vốn
và các nguồn lực khác vào sản xuất, dựa trên các nguyên tắc của cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước, từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết định
phân phối chuyển dần sang xác định thị trường quyết định phân phối lần đầu và
Nhà nước thực hiện phân phối lại.
Thu nhập đóng vai trị đặc biệt quan trọng đối với việc sản xuất kinh doanh của
chủ thể kinh tế và đời sống dân cư. Tăng thu nhập là điều kiện để mở rộng tích
5
luỹ, tăng đầu tư tạo ra các nguồn lực cần thiết cho nền kinh tế. Quy mô của thu
nhập lớn sẽ quyết định sức mua hàng hoá và dịch vụ, quyết định quy mơ tích luỹ
và tiêu dùng trong từng thời kì.
Thời kì quá độ ở nước ta tồn tại nhiều chế độ sở hữu, mỗi chế độ có nguyên tắc
(hình thức) phân phối tương ứng với nó tạo ra sự đa dạng về hình thức phân phối
thu nhập: phân phối theo lao động, theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối
theo giá trị sức lao động hoặc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã
hội. Sự phân phối này là một nội dung rất quan trọng của quan hệ sản xuất, phản
ánh kết quả của quan hệ sở hữu, làm cho quan hệ sở hữu được thực hiện về mặt
kinh tế. Nhà nước đã ban hành những chính chách để điều tiết phân phối thu
nhập bao gồm: chính sách thuế, chính sách phân phối lợi nhuận, chính sách lãi
suất, chính sách tiền lương, tiền cơng, chính sách bảo hiểm xã hội…
Phân phối theo lao động là hình thức phân phối thu nhập chủ yếu ở nước ta, đây
là hình thức phân phối thu nhập hợp lý và công bằng nhất trong lịch sử phân
phối, nó thể hiện bản chất của nền kinh tế thị trường, thực hiện kinh tế bằng chế
độ công hữu rất tích cực. kết quả như: thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần
trách nhiệm, nâng cao năng suất làm việc, xây dựng thái độ đúng đắn trong
công việc, tăng cường kỷ luật công việc, thúc đẩy mọi người nâng cao tay nghề,
tác động mạnh mẽ đến đời sống vật chất và văn hóa của người lao động ... tay,
như đã nói ở trên, mục tiêu phát triển của nước ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội,
dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, cơng bằng, nhân dân thốt khỏi ách áp
bức, bóc lột, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
5. Cơ chế vận hành của nền kinh tế
Nói đến cơ chế thị trường là nói đến một cơ chế tự vận động của thị trường theo
quy luật nội tại vốn có của nó mà A.Smith gọi là “Bàn tay vơ hình”. ở đây tồn tại
6
một loạt quy luật kinh tế chi phối hoạt động của các chủ thể kinh tế cũng như
của toàn bộ nền kinh tế như quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật lợi
nhuận, quy luật lưu thông tiền tệ. Chúng có vai trị quyết định đối với việc phân
phối nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Chính vì vậy kinh tế
thị trường tạo điều kiện để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hố
và sự phát triển tồn diện của con người.
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có những mặt trái của nó, trước hết là tình
trạng khủng hoảng và thất nghiệp-căn bệnh nan giải của kinh tế thị trường, thêm
vào đó là tình trạng ơ nhiễm mơi trường bởi những mục tiêu lợi nhuận cá nhân
tàn phá tự nhiên. Cuối cùng là tình trạng độc quyền xố bỏ tự do cạnh tranh làm
cho nền kinh tế mất tính hiệu quả. Tất cả những hạn chế đó đều địi hỏi có sự can
thiệp của Nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với
thị trường. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền
kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch
và thị trường cần kết hợp với nhau nhằm tận dụng những ưu điểm của cả hai
phương tiện này: Đó là khả năng tập trung nguồn lực cho những mục tiêu phát
triển kinh tế, đảm bảo cân bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế và xã
hội ngay từ đầu của kế hoạch và tính nhanh nhậy, năng động, sáng tạo của các
chủ thể kinh tế, đáp ứng nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội của cơ chế thị
trường. Sự kết hợp này được thực hiện ở cả tầm vĩ mô lẫn vi mô. ở tầm vi mô,
thị trường là cơ sở để đề ra kế hoạch sản xuất ra sản phẩm gì, sản xuất như thế
nào, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào. Còn ở tầm vĩ mô, tuy thị trường
không là căn cứ duy nhất quyết định kế hoạch của Nhà nước song để có một kế
hoạch vĩ mơ tổng thể khơng thể thốt ly khỏi thị trường. Từ đó ta có thể thấy
7
được mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong sự nghiệp phát triển kinh tế
hiện nay.
6. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế
mở, hội nhập
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý
bằng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để
giải phóng sức sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
nhằm định hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần
kinh tế và các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, khơng phải thị trường điều tiết hồn tồn mà cịn có sự điều chỉnh,
quản lý của Nhà nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ, gắn phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc
phục những bất cập, khuyết tật của cơ chế thị trường.
Về phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, thực hiện cơng
nghiệp hố, hiện đại hố. Kinh tế thị trường được Đảng, Nhà nước sử dụng như
một công cụ, phương tiện, một động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ chế
vận hành của kinh tế thị trường là một cơ chế mở, bị điều tiết bởi các quy luật
kinh tế cơ bản: giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên kinh tế thị trường tạo ra khả
năng kết nối hình thành chuỗi giá trị cho nền sản xuất toàn cầu.
II. Tác động của covid 19 lên nền kinh tế thị trường của Việt Nam
Hoạt động kinh tế quý III/2021 suy giảm mạnh chủ yếu do các biện pháp ngăn
chặn nghiêm ngặt được áp dụng trên phạm vi rộng, thời gian kéo dài theo Chỉ thị
16 để kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt tại các tỉnh Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông
Cửu Long và Hà Nội; tổng GRDP của 20 tỉnh, thành phố này chiếm gần 57%
GDP (Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 17%; Hà Nội chiếm 12,6%; Bình Dương
4,8%; Đồng Nai chiếm 4,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm 3,8%). Trong đó khu vực
cơng nghiệp, xây dựng chiếm gần 53% khu vực công nghiệp và xây dựng của cả
nước; khu vực dịch vụ chiếm hơn 63%. Do chiếm tỷ trọng lớn nên mỗi biến
động trong tăng trưởng GRDP của các tỉnh, thành phố trọng điểm này đều có ảnh
hưởng khơng nhỏ tới GDP của toàn nền kinh tế. Khi đại dịch bùng phát, giãn
cách xã hội kéo dài dẫn đến đứt gãy lưu thơng, sản xuất kinh doanh bị đình trệ.
Nhiều doanh nghiệp đã buộc phải lựa chọn phương án sản xuất “3 tại chỗ” hoặc
8
“1 cung đường, 2 điểm đến” nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, nếu
không sẽ phải tạm ngừng hoạt động làm ảnh hưởng đến các đơn hàng đã ký kết
trước đó. Tuy nhiên, để hoạt động như vậy các doanh nghiệp cũng phải chịu chi
phí vận hành rất lớn, lực lượng lao động thiếu hụt do nghỉ việc, cung ứng nguyên
vật liệu bị gián đoạn nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã khơng thể hồn thành
đơn hàng đúng hạn, phải giãn hoặc hủy bỏ hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp bị phá
sản, giải thể do kiệt quệ, không đủ lực để chống chịu dịch bệnh kéo dài. Một số
doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh hoặc kinh doanh cầm chừng, trì hỗn
việc sản xuất do khơng hiệu quả, thua lỗ trong điều kiện rất khó khăn.
Trong khâu lưu thơng, vận chuyển hàng hóa giữa các tỉnh, thành phố bị hạn chế
tối đa, thậm trí mọi loại hình vận tải phải ngưng hoạt động tại các tỉnh giãn cách
xã hội. Hoạt động nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng gặp nhiều khó khăn do
khơng thể lưu thơng được hàng hóa nơng sản. Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp
chế biến lương thực, thực phẩm ngừng thu mua nông sản, doanh nghiệp đóng
hàng xuất khẩu khơng hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng khiến nhiều nông
sản (lúa, hoa quả các loại) không thể xuất khẩu. Không thể tiêu thụ sản phẩm do
ách tắc khâu lưu thơng, chi phí vận tải, bảo quản tăng cao nên giá thu mua hàng
nông sản giảm mạnh nhưng giá bán tới tay người tiêu dùng ở mức cao do chi phí
lưu thơng tăng cao. Tùy vào tình hình dịch bệnh, các địa phương đã thực hiện
giãn cách xã hội nghiêm ngặt theo Chỉ thị 16+, Chỉ thị 16 hoặc Chỉ thị 15 dẫn
đến các hoạt động thương mại, lưu trú ăn uống rơi vào tình trạng bế tắc. Hầu hết
các cơ sở kinh tế trong lĩnh vực này phải đóng cửa; chỉ một số cơ sở lưu trú được
phép cung cấp dịch vụ cho người bị cách ly có thể hoạt động cầm chừng để duy
trì khơng rơi vào tình trạng phá sản.
III. Thực trạng phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
1.Mặt tích cực
Trải qua 35 năm đổi mới, mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ngày càng hồn thiện, trở thành đóng góp lý luận cơ bản và
sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta nhận
định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày
càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện
phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
9
tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn
với thị trường khu vực và thế giới”. “Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội
nhập”. Đường lối kinh tế đã được đổi mới phù hợp với yêu cầu khách quan đã
giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng vượt
bậc, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Nhờ vậy, sau 35 năm
đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa
đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình; hội nhập mạnh mẽ vào kinh tế khu vực và thế giới, tạo thế và lực mới
cho nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam từ một trong những nước nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia
thu nhập trung bình thấp. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990),
mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, thì giai đoạn 1991 1995, tăng trưởng GDP bình quân đã đạt 8,2%/năm. Các giai đoạn sau đó đều có
mức tăng trưởng khá cao, riêng giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8.
Liên tiếp trong 4 năm, từ năm 2016 - 2019, Việt Nam đứng trong top 10 nước
tăng trưởng cao nhất thế giới, là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công
nhất. Đặc biệt, trong năm 2020, trong khi phần lớn các nước có mức tăng trưởng
âm hoặc đi vào trạng thái suy thoái do tác động của đại dịch COVID-19, kinh tế
Việt Nam vẫn tăng trưởng 2,91%, góp phần làm cho GDP trong 5 năm (2016 2020) tăng trung bình 5,9%/năm, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao
nhất khu vực và thế giới. Quy mô nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989
mới đạt 6,3 tỷ USD thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 343 tỷ USD. Đời sống nhân
dân được cải thiện rõ rệt cả về vật chất và tinh thần, năm 2020, thu nhập bình
quân đầu người đạt trên 3.500 USD. Các cân đối lớn của nền kinh tế về tích luỹ tiêu dùng, tiết kiệm - đầu tư, năng lượng, lương thực, lao động - việc làm… tiếp
10
tục được bảo đảm, góp phần củng cố vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mơ. Tính
theo chuẩn nghèo chung, tỷ lệ nghèo giảm mạnh từ hơn 70% năm 1990 xuống
cịn dưới 6% năm 2018; hơn 45 triệu người thốt nghèo trong giai đoạn từ năm
2002 đến năm 2018. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2020
được xếp thứ 42/131 nước, đứng đầu nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập.
Xếp hạng về phát triển bền vững của Việt Nam đã tăng từ thứ 88 năm 2016 lên
thứ 49 năm 2020, cao hơn nhiều so với các nước có cùng trình độ phát triển kinh
tế.
2.Mặt hạn chế
Việc hồn thiện thể chế, đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế,
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cịn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản về
mơ hình tăng trưởng; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế chưa cao. Trong bối cảnh công nghệ số tác động đến sự phát triển của nền
kinh tế nói chung, việc đổi mới mơ hình tăng trưởng có tính đến các yếu tố mới
như xu hướng công nghệ là hết sức quan trọng. Thể chế, chính sách đối với phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam còn nhiều bất cập. Trong
điều hành, quản lý nền kinh tế, các khuôn khổ pháp lý vẫn chưa theo kịp để điều
chỉnh sự phát triển nhanh chóng của các mơ hình kinh doanh gắn với công nghệ
số, nên gây ra những khó khăn cho cộng đồng doanh nghiệp và thất thu thuế đối
với ngân sách nhà nước. Mức độ chủ động tham gia phát triển nền kinh tế số
nước ta còn khơng ít hạn chế, có phần tự phát.
Năng lực và trình độ cơng nghệ của nền kinh tế cịn thấp. Khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực phát triển kinh tế – xã hội; hệ
thống đổi mới sáng tạo quốc gia mới được hình thành, chưa đồng bộ và hiệu quả.
Cơng nghiệp vẫn chủ yếu gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng không cao; công
nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, tham gia vào chuỗi giá trị
11
tồn cầu hiệu quả cịn hạn chế. Đây là một trong những vấn đề cần hết sức quan
tâm khi mà hiện nay, theo nhận xét của giới chuyên gia, giá trị đóng góp cho
tăng trưởng kinh tế chủ yếu là các DN có vốn đầu tư nước ngồi, trong khi các
DN trong nước phần lớn chỉ làm gia công, mà ít tạo được giá trị gia tăng.
Trình độ ứng dụng công nghệ vào các hoạt động quản lý điều hành, sản xuất –
kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam tuy được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu trong thời bi dịch bệnh Covid-19. Bên cạnh đó, cịn một số
hạn chế, thách thức khác, như: thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN còn
nhiều vướng mắc, bất cập chưa được tháo gỡ; năng lực xây dựng thể chế cịn hạn
chế; chất lượng luật pháp và chính sách còn thấp; cơ cấu và chất lượng nguồn
nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu… Những vấn đề này cũng đều có tác động
đến phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN tại Việt Nam.
III.Một số vấn đề đặt ra và giải pháp
Dưới tác động của dịch bệnh, một số các hình thức kinh doanh sản xuất bị đình
chệ địi hỏi nhà nước phải đưa ra các chính sách phù hợp để tiếp tục phát triển
kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng đại dịch Covid-19 và cơng
nghệ số sẽ thúc đẩy q trình phát triển kĩ thuật số đi nhanh hơn. Nổi bật trong
số đó là hoạt động thương mại điện tử, giao dịch kinh tế không tiền mặt ngày
càng phát triển tại Việt Nam.
Thực tế này đặt ra những yêu cầu mới trong quản lý, điều hành nền kinh tế
để phù hợp xu thế phát triển chung, đồng thời đặt ra một số vấn đề cần giải
quyết, cụ thể:
Thứ nhất, quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa diễn ra chậm, nhất là nhận thức về bản chất và nguyên tắc vận hành
của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên đã tạo ra sự thiếu đồng
12
bộ, thiếu nhất quán và những bất cập trong quá trình hồn thiện thể chế kinh tế
thị trường; do vậy, chưa huy động được tối đa tiềm lực để phát triển kinh tế. Mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội chưa được xử lý phù hợp, rõ ràng,
minh bạch.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa bền vững, vẫn ở dưới mức tiềm
năng, lực lượng sản xuất chưa được giải phóng triệt để, năng suất lao động thấp,
khả năng cạnh tranh quốc tế chưa cao.
Thứ ba, việc phân bổ các nguồn lực cho phát triển còn dàn trải, lãng phí, chưa
cơng bằng, chưa đem lại hiệu quả cao; vấn đề phân hóa giàu nghèo, bất bình
đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống vật chất và tinh thần
của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa chậm
được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ.
Do vậy, đã xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng
đồng tiền, xem thường truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.
Để hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, cần tập trung vào những nội dung sau:
1. Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội”. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc
tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có
sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng
13
giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh
tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế
hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích
phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng đế
Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy
phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ
theo cơ chế thị trường.
2. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản
trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy
phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế
số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ
hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng
chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các
ngành.
3. “Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các
thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ
quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường”. Xây dựng, hoàn
14
thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc
đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mơ hình kinh tế mới,
khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi
trường... Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực
theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự
do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy
định của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn lực, cơng cụ điều tiết, cơ
chế, chính sách phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và
bảo vệ môi trường.
KẾT LUẬN
Như vậy, quan điểm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng được nhận thức rõ hơn. Trong thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng
và quản lý Nhà nước có ảnh hưởng quan trọng để đảm bảo nền kinh tế định
15
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước sử dụng có hiệu quả luật pháp, các chính
sách, kế hoạch và các công cụ khác, đặc biệt là thực lực kinh tế của Nhà nước để
tác động vào thị trường nhằm phát huy mặt tích cực của thị trường, ngăn ngừa,
hạn chế sự sa sút về lối sống, đạo đức, tệ nạn và các xu thế tự phát khác.
Sau gần 35 năm thực hiện đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng
kể, đưa đất nước thoát ra khỏi các cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội. Tuy nhiên
nền kinh tế vẫn cịn nhiều khó khăn, yếu kém. Để vượt qua được bước đường đó,
chúng ta cịn khơng ít những thách thức lớn và gay gắt. Đồng thời chúng ta cũng
có những cơ hội mới để phát triển. Vấn đề đặt ra là phải chủ động nắm thời cơ,
kiên quyết đẩy lùi các nguy cơ nhằm vươn lên phát triển nhanh, vững chắc và
đúng hướng cà cụ thể tại thời điểm này thì chúng ta cần vượt qua được dịch
covid 19 đang tác động vô cùng mạnh mẽ đến nền kinh tế nước ta. Điều đó địi
hỏi phải nâng cao hơn nữa vai trò quản lý của Nhà nước hướng vào chức năng
định hướng và chỉ đạo sự phát triển, dẫn dắt nỗ lực phát triển, tạo khuôn khổ
pháp luật thống nhất, môi trường ổn định, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường… đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh, ổn định vững chắc và công bằng
xã hội.Trên hết là phải xử lí được việc bị đình trệ sản xuất cũng như kinh doanh
trong thời kỳ covid 19 hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2001, tr. 25
16
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 59-60
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 31
4. Võ Hồng Phúc: “Những thành tựu về kinh tế - xã hội qua 20 năm đổi mới
(1986 - 2005)”, in trong sách: Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội, 2006, tr. 141, 143
5.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 37, 43, 53-54,
128, 223
6. />7. />8. “Kinh tế Việt Nam 2020: một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh”,
http:/ww.gso.gov.vn
9. Dẫn theo Ngân hàng thế giới tại Việt Nam:
/>10.
11. />12.
13. />
17