"Nhân công giá rẻ chỉ giữ đất nước ở mức nghèo"
11:29' 04/07/2005 (GMT+7)
(VietNamNet) - Tại ĐH Harvard, nhà báo Nguyễn Anh
Tuấn đã có cuộc trao đổi với GS. Michael E.Porter xung
quanh chiến lược tăng sức cạnh tranh cho Việt Nam.
"Tăng cường năng lực cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hoá"
là nội dung thuyết trình hơn 1 giờ đồng hồ của Giáo sư Michael
Porter với Thủ tướng Phan Văn Khải và các vị Bộ trưởng, Thứ
trưởng kinh tế nhân dịp phái đoàn Việt Nam đến thăm ĐH
Harvard.
Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn đã có cuộc trao đổi với Giáo sư
Michael E.Porter xung quanh chiến lược cạnh tranh của Việt
Nam nhân dịp này:
Nhân công rẻ sẽ chỉ giữ đất nước ở mức nghèo
- Ông đã có một buổi trình bày với Thủ tướng về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ông đã đề cập đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
Việt Nam với Thủ tướng như thế nào?
GS. Michael E.Porter: Việt Nam đã đạt được những
thành tích kinh tế ngoạn mục trong vài năm qua, với tỷ
lệ giảm nghèo, xuất khẩu và thu hút FDI đạt tới tầm cao
mới.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế này chủ yếu do khai
thác nguồn nhân công giá rẻ của đất nước, chứ không
phải bằng những cải thiện sâu xa trong năng lực cạnh
tranh của Việt Nam.
Vì vậy, Việt Nam vẫn tiếp tục xếp trong danh sách
những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người rất
thấp. Điều này là bởi vì năng suất thấp và môi trường
kinh doanh ở VN hầu như không được cải thiện nhiều.
Việt Nam cần phải tiến hành các bước đi nhằm nâng cao
năng suất và giảm bớt phụ thuộc vào lợi thế nhân công
rẻ. Nhân công rẻ sẽ chỉ giữ đất nước ở mức nghèo.
- Theo ông, việc Việt Nam chưa là thành viên của WTO
có thể ảnh hưởng như thế nào đến năng lực cạnh tranh
Giáo sư Michael
E.Porter.
Michael Porter là Giáo sư
Trường Kinh doanh
Harvard (Harvard Business
School), đồng thời là Giám
đốc Trung tâm Chiến lược
và Cạnh tranh.
Là tác giả của 17 cuốn
sách và trên 125 bài báo,
Michael Porter là một giáo
sư hàng đầu về chiến lược
cạnh tranh, năng lực cạnh
tranh và phát triển kinh tế
của các quốc gia và khu
vực.
Ông giữ vai trò tích cực
trong chính sách chiến
lược kinh tế của Hoa Kỳ.
Ông cũng dẫn đầu các
nghiên cứu chủ yếu về
kinh tế của nhiều quốc gia.
Ông được đánh giá là giáo
sư kinh doanh nổi tiếng
nhất thế giới hiện nay.
của Việt Nam?
GS. Michael E.Porter: Trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới là
một bước đi quan trọng đối với Việt Nam. Vì thế, chính phủ nên kết thúc thành công
các cuộc đàm phán càng sớm càng tốt. Quy chế thành viên của WTO sẽ giúp tạo ra
nhiều thay đổi chính sách quan trọng và cần thiết.
Tuy vậy, điều quan trọng là chúng ta cần hiểu rằng tác động chính của việc gia nhập
WTO là tạo ra những cơ hội mới, chứ không phải sẽ giúp tăng cường khả năng cạnh
tranh của Việt Nam một cách trực tiếp. Việt Nam sẽ cần phải nâng cao năng lực
cạnh tranh cơ bản của mình để tận dụng triệt để những cơ hội mà việc gia nhập
WTO đem lại.
Tăng sức cạnh tranh trước "cơn lũ" toàn cầu hoá
- Một số người quan ngại rằng các công ty của Việt
Nam có thể thua thiệt khi phải đối mặt với sự cạnh
tranh gay gắt từ phía các tập đoàn lớn của nước
ngoài khi VN là thành viên WTO. Ông nghĩ sao về
nhận xét này? Theo ông, Việt Nam cần áp dụng
những chính sách nào để hạn chế tối đa những thua
thiệt có thể xảy ra?
GS. Michael E.Porter:
Thực tế là Việt Nam vẫn chưa phát triển được khu
vực kinh tế tư nhân mạnh. Khi Việt Nam gia nhập
WTO, nhu cầu tăng cường sức mạnh cho khu vực tư
nhân sẽ trở nên vô cùng cấp bách.
Vì thế, Việt Nam cần phải cải thiện các điều kiện để phát triển một khu vực tư nhân
trong nước mạnh và độc lập. Tiến trình tư nhân hoá cần được đẩy mạnh và các bước
đi cần được thực hiện để phát triển khu vực tài chính nhằm khơi thông nguồn vốn
cho các công ty tư nhân.
Việt Nam đã tiến hành một số bước đi tích cực nhằm tạo điều kiện cho các công ty
nhỏ đăng ký và hoạt động. Tuy nhiên, những doanh nghiệp nhỏ này không thể lớn
mạnh thành những doanh nghiệp vừa hay thậm chí là các công ty lớn một khi mà hai
rào cản chủ yếu vẫn chưa được gỡ bỏ.
Một là, tiến trình cổ phần hoá hiện nay đối với các công ty nhà nước vẫn nằm dưới
sự kiểm soát của Chính phủ và vẫn chưa thực sự chịu áp lực thị trường. Điều này
Nhà báo Nguyễn Anh Tuấn
và GS. Michael
E.Porter trong một buổi học
tại Trường Kinh doanh
Harvard. Ảnh: VietNamNet.
làm tổn hại đến khu vực tư nhân và kìm giữ lao động ở những công ty không có khả
năng cạnh tranh.
Hơn nữa, quyền sở hữu của nhà nước đối với đất đai cũng như quyền kiểm soát nhà
nước đối với khu vực ngân hàng rõ ràng đã khước từ quyền tiếp cận vốn của các
công ty nhỏ chỉ bởi vì họ không thể thế chấp.
Cho đến khi nào hai trở ngại mà tôi đã đề cập ở trên chưa được giải quyết thì Việt
Nam vẫn sẽ phải đối mặt với nền kinh tế ba nhánh: các công ty tư nhân nhỏ, doanh
nghiệp Nhà nước lớn và chi nhánh của các công ty nước ngoài. Cơ cấu này sẽ kiềm
giữ năng lực cạnh tranh.
- Việt Nam hiện đang đứng trước sự lựa chọn những ngành mũi nhọn để tập trung
phát triển. TLời khuyên của ông?
GS. Michael E.Porter: Tôi nghĩ rằng Việt Nam nên xây dựng trên nền tảng tất cả
những ngành đang có và mới xuất hiện, thay vì lựa chọn một vài ngành trong số
đó.Nên chú ý những ngành mới nổi lên như du lịch, dệt may, giày dép, thuỷ sản, dầu
khí.
Những ngành mới nổi này sẽ là những động cơ kinh tế quan trọng cũng như những
động lực mạnh mẽ khi nền kinh tế tiến sang một giai đoạn mới.
Thực tế thì sự phát triển của những ngành trên hiện nay còn mới sơ khai và tập trung
bó hẹp trong một số phân ngành nhỏ. Trong khi đó, Việt Nam đang có tiềm năng để
mở rộng hoạt động trong những ngành dịch vụ hỗ trợ cũng như tăng cường các
ngành công nghiệp phụ trợ, trong đó có linh kiện và dịch vụ.
Việt Nam cũng cần tập trung nâng cấp công nghiệp nội địa. Trong khi các ngành
kinh tế xuất khẩu là quan trọng thì hầu hết việc làm của người Việt Nam thuộc nền
kinh tế trong nước. Sử dụng những ngành này như một công cụ để nâng cao năng
suất sẽ có ý nghĩa mấu chốt đối với sự tăng trưởng bền vững và cân bằng.
- Trong bối cảnh toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, theo ông Việt
Nam có thể lựa chọn 1 chiến lược như thế nào để tăng sức cạnh tranh?
GS. Michael E.Porter:Như tôi đã nói, điều quan trọng nhất là Việt Nam cần giảm
bớt phụ thuộc vào lợi thế nhân công giá rẻ.
Những điểm yếu trong môi trường kinh doanh của Việt Nam cũng cần được giải
quyết nhanh chóng. Theo tôi, Việt Nam có thể đặt ưu tiên vào việc giảm bớt tham
nhũng, tệ quan liêu cũng như những khâu sản xuất đình trệ trong cơ sở hạ tầng.
Cuối cùng, Việt Nam phải xây dựng một chiến lược phát triển cho mỗi vùng trên đất
nước, như miền Bắc và miền Nam.
Khoảng cách thu nhập quá lớn hiện nay giữa hai miền Nam Bắc đòi hỏi phải có
chiến lược phát triển kinh tế khác nhau cho từng miền.
Bốn phẩm chất tạo nên sức cạnh tranh
15:13' 16/01/2003 (GMT+7)
Theo Giáo sư Michael Porter thuộc Đại học Harvard, có 4 phẩm chất tổng
quát giúp các công ty có khả năng cạnh tranh đó là: các yếu tố trời cho; sức
cầu nội địa; sự tồn tại hay thiếu vắng các ngành công nghiệp có tính hỗ trợ
hoặc có liên quan; chiến lược, cơ cấu cùng sự cạnh tranh nội địa của các công
ty.
Giáo sư Porter cho rằng 4 phẩm chất này tạo thành một viên
kim cương và sẽ thúc đẩy hay cản trở việc tạo ra lợi thế
cạnh tranh của quốc gia ấy trên thương trường quốc tế. Các
phẩm chất này còn tương tác với nhau, cái nọ tuỳ thuộc vào
cái kia. Chẳng hạn một sức cầu cao vẫn không là một lợi thế
nếu không cạnh tranh ở một mức nào đó để buộc các doanh
nghiệp phải đáp ứng nhu cầu. Sản phẩm của các xí nghiệp
quốc doanh của Việt Nam ngày xưa là một bằng chứng.
Chúng không hề tạo ra sự cạnh tranh mà chỉ là sự xếp hàng
chờ. Bên cạnh đó, còn có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng
đến những phẩm chất này, đó là cơ hội hay thời cơ và chính
sách của Nhà nước. Chính sách của chính quyền có thể làm tăng hay giảm lợi thế
cạnh tranh của quốc gia.
Thứ nhất là các yếu tố trời cho. Các yếu tố này được chia thành hai loại: căn bản và
tiên tiến. Yếu tố căn bản gồm tài nguyên, địa lý, nhân chủng... Yếu tố tiên tiến gồm
cơ sở hạ tầng về viễn thông, tay nghề, lao động lành nghề, các phương tiện nghiên
cứu, kỹ năng, công nghệ. Các yếu tố tiên tiến đóng vai trò quan trọng trong lợi thế
cạnh tranh vì khác với yếu tố căn bản, chúng là kết quả của sự đầu tư của chính
quyền và dân chúng.
Thứ hai là sức cầu nội địa. Đây là yếu tố rất quan trọng để thúc đẩy lợi thế cạnh
tranh. Các công ty thường nhạy bén với nhu cầu của khách hàng ở sát mình. Yêu cầu
của người tiêu thụ nội địa sẽ thúc đẩy công ty phải đáp ứng rồi phải cạnh tranh về
mặt chất lượng và đổi mới. Các công ty sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh nếu người tiêu
dùng nội địa tỏ ra khó tính trong việc chọn hàng.
Thứ ba, một ngành công nghiệp nào đó mà có những nhà cung cấp hay những ngành
Nhân lực cao cấp là
yếu tố vô cùng quan
trọng trong cạnh
tranh.
công nghiệp liên quan có khả năng cạnh tranh quốc tế thì chúng sẽ giúp cho ngành
đó có lợi thế cạnh tranh. Đây là hiệu ứng tiếp nối trong sản xuất. Các lợi ích thu
được từ một sự đầu tư vào các yếu tố tiên tiến của một ngành nào đó mà ngành này
lại hỗ trợ hay có liên quan đến một ngành khác thì ngành sau sẽ được hưởng lợi từ
ngành trước. Ví dụ, sự dẫn đầu về công nghệ chất bán dẫn của Mỹ vào những năm
giữa thập kỷ 80 đã thúc đẩy việc sản xuất máy vi tính cá nhân cùng một loạt các sản
phẩm điện tử cao cấp. Một hệ quả của việc này là các ngành công nghiệp thành công
trong một nước sẽ dính chùm vào nhau
Thứ tư là chiến lược, cấu trúc và sự cạnh tranh nội địa của các công ty. Phẩm chất
này của các công ty ảnh hưởng nhiều đến lợi thế cạnh tranh của họ. Ví dụ ở Đức và
Nhật, tầng lớp lãnh đạo cao cấp của các công ty là kỹ sư vì các công ty này quan tâm
đến việc cải tiến quy trình sản xuất thiết bị sản phẩm. Trái lại, tầng lớp lãnh đạo ở
Mỹ là các nhà tài chính vì vào những năm 1970-1980 Mỹ chú ý nhiều vào việc thu
lời ngắn hạn (chứng khoán). Kết quả là sau này họ thua hai nước Đức và Nhật về
công nghiệp chế tạo xe hơi.
Ngoài ra, khi các công ty bị buộc phải cạnh tranh để giành khách hàng trong nước
thì họ cũng bị thúc đẩy phải nâng cao chất lượng, giảm giá thành, cải tiến quản lý...
Khi ấy, họ sẽ có sức cạnh tranh với bên ngoài.
Đồng thời, khi điểm qua các phẩm chất giúp các doanh nghiệp có sức cạnh tranh
trên trường quốc tế, người ta nhận ra vai trò rất quan trọng của chính quyền. Chính
quyền có ảnh hưởng tiêu cực hay tích cực đối với các phẩm chất trên qua các biện
pháp áp dụng như trợ cấp, tín dụng ưu đãi, giáo dục... Chính quyền có thể tạo nên
khuôn khổ cho nhu cầu trong nước khi quy định về tiêu chuẩn chất lượng, an toàn;
đồng thời hỗ trợ ngành này, điều hướng ngành khác bằng các chính sách thuế, thúc
đẩy hay giảm bớt cạnh tranh.
10 viên gạch xây nên bức tường chiến lược
NTTH
Thông thường, những người chịu trách nhiệm soạn thảo chiến lược cho công ty
luôn cho rằng công tác hoạch định chiến lược là một quá trình phức tạp. Thật ra,
đó là do họ đã không nắm bắt được sự đơn giản và rõ ràng của các khái niệm về
chiến lược, cũng như không biết chính xác đâu là những nhân tố chính để đạt được
thành công. Michael Porter, nhà hoạch định chiến lược có uy tín nhất trên thế giới,
đã đi nhiều nơi để thuyết trình về vấn đề này. Chúng tôi xin giới thiệu tóm tắt nội
dung bài viết 10 yếu tố cơ bản, rõ ràng và dễ hiểu nhất của Michael Porter về các