*
*
*
CÁCH DÙNG ĐŨA
VÀ TRIẾT LÍ TỪ ĐƠI ĐŨA CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
MỤC LỤC
TỔNG QUAN ............................................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 2
2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu và tài liệu nghiên cứu: ...................................................... 3
NỘI DUNG .................................................................................................................... 4
I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn ............................................................................... 4
1. Cơ sở lý luận............................................................................................................... 4
2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................... 5
2.1. Nguồn gốc của đôi đũa ....................................................................................... 5
2.2 Chất liệu của đôi đũa ............................................................................................ 8
II. Cách sử dụng đũa .................................................................................................. 10
1. Các quy tắc khi dùng đũa ........................................................................................ 10
2. Văn hóa dùng đũa của người Việt ........................................................................... 11
III. Triết lí từ đơi đũa ................................................................................................. 16
1. Đơi đũa - hình ảnh thân thuộc trong văn hóa ẩm thực Việt Nam ........................... 16
2. Bản sắc dân tộc của người Việt qua đơi đũa ............................................................ 18
IV. Tính giá trị của văn hóa dân gian qua đơi đũa ................................................. 21
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 23
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 24
1
PHẦN TỔNG QUAN:
1. Lí do chọn đề tài:
Đơi đũa là vật dụng phổ biến tại các nước Á Đơng, hình dạng của nó cũng rất
phù hợp với thói quen ẩm thực tại xứ sở này. Do ảnh hưởng qua lại lẫn nhau về văn
hoá, Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên đều dùng đũa trong bữa ăn, nhưng
mỗi nơi lại có những thay đổi nhất định. Đặc biệt đối với người Việt Nam, đơi đũa đóng
góp một phần quan trọng trong văn hóa âm thực cũng như trở thành một nét đẹp truyền
thống trong đời sống hàng ngày của dân ta và nó chứa đựng trong đó khơng ít những
triết lí sâu sắc về cuộc sống, lễ nghi gia đình, về nếp nhà của mỗi người.
Đơi đũa đối với người Việt đã vượt qua các phạm vi vật chất vô cùng nhỏ bé,
khiêm nhường, vượt qua cả cái ý nghĩa, tập qn ăn uống thơng thường để trở thành
hình tượng sinh động, công cụ sắc bén trong diễn đạt những quan niệm về nhân sinh,
nhân tình thế thái. Hay nói khác hơn, nó đã hình thành “triết lý đơi đũa” ở Việt Nam.
Đề tài được tôi lựa chọn vô cùng gần gũi, đời thường và phổ biến bởi lẽ đôi đũa là một
phần không thể thiếu trong đời sống, nó đáp ứng nhu cầu ẩm thực và làm đẹp bản sắc
văn hóa dân tộc. Nhưng hiếm ai lại suy nghĩ đến giá trị của nó dù cho nó là một nét văn
hóa khơng thể thiếu. Ngồi ý nghĩa về văn hố, đề tài cịn đề cập đến vấn đền nét đẹp
về tình cảm cũng như tinh thần của người Việt. Xung quanh đơi đũa, từ cổ chí kim đã
có không biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu ý tưởng, biết bao triết lý cao siêu và
thấm đượm tình người, đem lại cho mỗi người một tình yêu trong sáng, một ý thức giữ
gìn trau chuốt những phẩm chất tốt đẹp, để mỗi người mãi là “đũa ngọc” trong “mâm
vàng” nghìn năm văn hiến.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
Nghiên cứu về đôi đũa của người Việt Nam nhằm để làm nổi bật giá trị của đôi đũa
cũng như ý nghĩa đơi đũa trong văn hóa ẩm thực. Từ đó giúp mọi người có cái nhìn rõ
hơn về vẻ đẹp bản sắc dân tộc của con người Việt Nam và những triết lí được đúc kết
2
ra từ hình ảnh đơi đũa – vật dụng quen thuộc hàng ngày. Qua đó phát huy tốt nét truyền
thống vốn có và đem giá trị của đơi đũa ảnh hưởng lớn trong bối cảnh xã hội hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đôi đũa – vật dụng quen thuộc của văn hóa
âm thực người Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và tài liệu nghiên cứu:
4.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: dùng để phân tích và xử lý số liệu, tài liệu đã
điều tra, bao gồm các thông tin số liệu được tổng hợp từ một số sách báo, mạng internet.
- Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Phân tích các thành tố để xem xét; nghiên cứu
đầy đủ quan hệ qua lại của các thành tố; xác định thành tố trung tâm hay hạt nhân; đặt
đối tượng trong mơi trường, hồn cảnh phát triển cụ thể, xác định những tác động, điều
kiện thuận lợi để đối tượng phát triển. Từ đó có cái nhìn tổng thể về vấn đề.
4.2. Tài liệu nghiên cứu
- Tài liệu thứ cấp: Tìm hiểu thêm các thơng tin bên ngồi sách vở và internet.
3
PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lý luận
Văn hoá dân gian là cụm từ được dùng để dịch thuật ngữ folklore của phương
Tây. “Folklore trong nguyên nghĩa tiếng Anh là trí tuệ (lore) dân gian (folk), với thời
gian trôi chảy đã bao hàm một trường ngữ nghĩa rộng lớn hơn nhiều” do vậy các nhà
nghiên cứu không thể dịch là “văn học dân gian” hay “văn nghệ dân gian” [Trần Quốc
Vượng 2003:169]. Đến nay, ở nước ta và trên thế giới có nhiều định nghĩa về văn hố
dân gian, thể hiện những quan niệm khác nhau của các nhà nghiên cứu.
Văn hoá dân gian là những sản phẩm phục vụ đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, những quy ước xã hội do người bình dân sáng tạo, gìn giữ qua nhiều thế
hệ.
Về mặt giá trị, văn hoá dân gian bao gồm tổng thể các giá trị do người bình dân
sáng tạo ra nhằm đáp ứng những đòi hỏi về mặt vật chất và thoả mãn những nhu cầu về
đời sống tinh thần của chính họ.
Bản chất văn hố dân gian thể hiện qua nguồn gốc, hình thức lưu truyền và đồi
tượng tiếp nhận, trong đó hình thức lưu truyền giữ vai trị quan trọng nhất.
Văn hố dân gian có phạm vi rất rộng, trong đó bộ phận nghệ thuật ngơn từ giữ
một vị trí đặc biệt. Nghệ thuật ngơn từ vừa là sản phẩm văn hoá, vừa là phương tiện
sáng tạo, lưu giữ và chuyển tải các giá trị văn hố (kinh nghiệm, tri thức, phong tục, tín
ngưỡng…). Ngồi ra, ngơn từ cịn là bộ phận của nhiều hiện tượng văn hố như: lễ hội,
tín ngưỡng, trị chơi, phong tục… Sở dĩ như vậy là do ngơn từ có khả năng biểu đạt
phong phú, đa dạng nhất. Ở Việt Nam, suốt thời kỳ Bắc thuộc, ngôn ngữ truyền miệng
trở thành cơng cụ chính yếu bảo lưu và chuyển giao văn hoá dân tộc.
4
Việt Nam là một trong các quốc gia Đông Nam Á có những nét văn hóa dân gian
đặc trưng. Đó là truyền thống văn hóa truyền miệng, khác với Trung Quốc và Ấn Độ là
truyền thống văn hóa chữ viết. Văn hóa dân gian Việt Nam có truyền thống hình thành,
và phát triển từ rất lâu đời, bắt nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự
chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chun nghiệp, cung đình thì
văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa
cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là với quần chúng lao động.
Đôi đũa - vật dụng quan trọng và quen thuộc với người dân Á Đơng, nó trở
thành một nét văn hóa của người Á châu như Việt Nam, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật
Bản ,... Đặc biệt, đối với người Việt, đôi đũa từ lâu đã trở thành vật dụng quen thuộc
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày và nó trở thành văn hóa ẩm thực khơng thể khơng
nhắc đến. Việc dùng đũa không chỉ đơn thuần chỉ là một công cụ để gắp thức ăn mà nó
cịn ẩn chứa những biểu tượng và bản sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam. Đôi đũa đi
theo con người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác mà chưa một lần bị loại bỏ.
Đũa truyền thống Việt Nam có thân trịn và để mộc, khơng sơn qt, trang trí,
đầu đũa cũng thường không quá nhỏ, thông dụng nhất là đũa tre, đũa gỗ vì Việt Nam
rất nhiều tre trúc, gỗ. Từ xa xưa đơi đũa hiện diện trong từng gia đình người Việt từ
danh gia vọng tộc đến kẻ bần hàn. Nó gắn bó mật thiết với đời sống, thậm chí đã trở
thành đặc điểm văn hóa khơng kém gì tà áo dài duyên dáng.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Nguồn gốc của đơi đũa
a. Lịch sử hình thành đơi đũa trên thế giới
Về nguồn gốc đôi đũa, nhiều học giả phương Tây cho rằng văn minh đôi đũa
(civilization des baguettes) xuất phát từ Trung Hoa. Tuy nhiên, theo sách Lịch sử văn
hóa Trung Quốc do Đàm Gia Kiện chủ biên năm 1993 thì người Trung Quốc “Thời
Tiên Tần khơng ăn dùng đũa, mà lấy tay bốc” (giống người Ấn Độ – đó là tập quán của
các cư dân trồng kê, mạch, ăn bánh mì, bánh bao và thịt). Họ chỉ bắt đầu dùng đũa từ
5
khi thơn tính phương Nam (đời Tần – Hán), ban đầu dùng một cách hạn chế để gắp
thức ăn cứng từ các món canh, mãi về sau đơi đũa mới trở thành phổ biến.
Thế kỷ VI, đôi đũa mới du nhập vào Nhật Bản, và có thể nói rằng đơi đũa là sản
phẩm của cái nôi trồng lúa nước Đông Nam Á – nơi có nền văn minh tre trúc là vật liệu.
Ăn bằng đũa là cách ăn đặc thù, mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát
từ thói quen ăn những thứ khơng thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào được (như cơm,
cá, nước mắm,…) của cư dân Đơng Nam Á.
b. Lịch sử hình thành đơi đũa ở Việt Nam
Nguồn: YAN News
Trong văn hóa Việt có một câu chuyện dân gian chứng minh cho sự ra đời
rất sớm của đơi đũa, đó là sự tích Trầu Cau. Câu chuyện ra đời từ thời vua Hùng,
trước cả thời nhà Tần và trước khi đến 1000 năm Bắc thuộc. Khi cô gái dọn cơm
cho anh em Tân và Lang, cô chỉ dọn một đôi đũa để thử lòng hai anh em xem ai
sẽ nhường ai trước. Tuy đến nay chưa thể khẳng định người Việt sáng tạo ra đũa
trước nhưng có thể thấy rằng đơi đũa trở thành một biểu tượng văn hóa của người
Việt Nam. Có người cho rằng động tác dùng đũa gắp thức ăn ở Việt Nam phỏng
6
theo con chim dùng mỏ để nhặt hạt. Những biểu tượng như chim hồng, chim hạc
ở Việt Nam đều là lồi có mỏ dài, sử dụng mỏ để mổ thức ăn.
Việt Nam vốn là nước nông nghiệp với lương thực chính là lúa gạo cùng nguồn thủy
hải sản dồi dào quanh năm. Bữa ăn của người Việt có hạt cơm dẻo thơm, có sợi rau dài,
có miếng cá trơn mềm nên chúng ta dùng đũa chứ không dùng tay hay dao, dĩa. Khắp
ba miền đều có những nét văn hóa ẩm thực độc đáo, riêng biệt nhưng có một điểm
chung là đều sử dụng đũa. Trong khi người phương Tây lúc ăn phải dùng một bộ đồ ăn
gồm dao, thìa, nĩa… mỗi thứ thực hiện một chức năng riêng biệt, thì người Việt chỉ
dùng một đơi đũa nhưng sử dụng một cách tổng hợp và cực kỳ linh hoạt với hàng loạt
chức năng khác nhau: gắp, xé, và, dầm, trộn, vét… Đơi đũa mộc cịn làm bữa cơm như
ngon hơn bởi hương thơm tự nhiên thoang thoảng trong đó. Và một miếng cơm trắng
tinh, nóng hổi vào miệng trong khi hương thơm của gạo cùng hương đũa mộc ứa ra,
quện chặt với nhau sẽ khiến cho ta cảm nhận trọn vẹn hơn mùi vị từ hương đồng, gió
nội q mình. Đã là người Việt thì từ làng quê cho đến phố thị, có mấy ai lại chưa từng
biết đến những đôi đũa tre mộc mạc, thân thương. Đôi đũa tre dường như đã trở thành
nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam bên cạnh chiếc nón lá bài thơ, tà áo dài duyên dáng
hay món canh chua, cá kho tộ…
Đối với người Việt thì đơi đũa khơng chỉ là một vật dụng, mà mang trong nó là
cả triết lý sống, tình nghĩa gia đình:
“Đơi ta làm bạn thong dong
Như đơi đũa ngọc nằm trong mâm vàng”.
Đơi đũa cịn là hình tượng ẩn dụ về tính đồn kết, là sức mạnh nội lực, thể hiện
truyền thống yêu trẻ kính già của người Việt. Theo tục lệ thì mỗi bữa cơm trong gia
đình Việt, người nhỏ tuổi nhất thường có nhiệm vụ so đũa cho cả gia đình và trước
tiên phải so đũa cho người lớn tuổi nhất nhà, hoặc cho khách quý, sau đó mới lần lượt
7
đưa cho từng thành viên trong gia đình. Khi ăn, người lớn tuổi cầm đũa thì người trẻ
tuổi hơn cầm sau. Điều này như thể hiện sự tôn trọng, phép tắc giữa người trên - kẻ
dưới trong mỗi gia đình.
2.2. Chất liệu của đơi đũa
Đũa, một cặp thanh có chiều dài bằng nhau, cỡ khoảng 15–25 cm, là dụng cụ ăn
uống cổ truyền ở Đông Á, thường làm bằng gỗ, tre, kim loại, xương, ngà voi, và ngày
nay cả bằng chất dẻo. Từ xa xưa thì việc sử dụng đũa trong ăn uống rất phổ biến và
thông dụng, nhất là đối với dân Việt. Vì vậy mà chất liệu làm nên cũng không kém phần
phong phú và đã dạng. Đôi đũa được làm từ những chất liệu từ thiên nhiên như tre, trúc,
gỗ rồi sau này là inox, nhựa. Ở nước ta, việc tận dụng thiên nhiên trong ẩm thực được
áp dụng một cách toàn diện, từ những thực phẩm hằng ngày đến dụng cụ ăn uống. Hình
ảnh chiếc đũa tre trong bữa cơm hằng ngày luôn gần gũi và gắn bó với mâm cơm gia
đình. Ngày xưa, thơng dụng nhất là đũa tre, đũa gỗ vì Việt Nam rất nhiều tre trúc, gỗ.
Thường người nơng dân tự vót đũa lấy bằng chẻ tre thành thanh vng rồi vót trịn một
phần và phần kia thì giữ hình vng theo như ca dao dạy:
Đời cha cho chí đời con,
Muốn vót cho trịn thì hãy đẽo vng.
Hễ là người Việt, dù giàu sang hay nghèo túng, không ai chưa từng biết đến đôi
đũa tre mộc mạc mang đầy ý nghĩa đậm đà trong linh hồn đất nước ViệtNam Đôi đũa
tre hầu như đã trở thành đặc điểm văn hóa Việt nam khơng kém gì chiếc bà ba thân
thương, tà dài duyên dáng hoặc món ăn thuần túy canh chua cá kho tộ. Từ đồng quê
cho đến thành thị, từ những ngôi nhà lá chênh vênh đến những căn nhà cao tầng lộng
lẫy, khơng có gia đình nào thiếu đơi đũa tre trong các bữa ăn. Trên quê hương Việt
Nam, tre là một hình ảnh thơ mộng, hầu như được mọc khắp nơi, từ đầu ngõ, sau hè,
bờ ao, cho đến bờ giậu hay đầu đình. Người dân Việt khi trồng tre, họ không nghĩ đến
kinh tế hay việc làm đẹp mà vì lũy tre xanh ấy là bản thân, là linh hồn và đất nước quê
8
hương của họ. Vì thế, khi cầm đến đơi đũa tre, người dân Việt cảm thấy gần gũi với
thiên nhiên và nguồn cội đất nước cha ông hơn.
Quan trọng nhất là chỉ ở Việt Nam mới có đũa cả dùng để xới cơm từ nồi ra bát.
Đũa cả lớn và dẹp làm bằng tre hay gỗ. Đũa cả to và dẹp phải nhúng vào nước trước
khi xới cơm cho khỏi dính. Xới xong dùng chiếc nọ gạt cơm khỏi chiếc kia chứ khơng
được gõ vào nhau thành tiếng động.
Nguồn: />
Có thông tin cho biết đũa và đồ dùng ăn uống bằng bạc được dùng cho vua quan
để phát hiện chất độc (ơxít kim loại) trong thức ăn; nếu có chất độc, đũa sẽ có màu xỉn
hay đen đi, do phản ứng thế. Đũa cũng là một đòn bẩy, tuy nhiên không đem lại lợi
thế về "lực" mà đem lại lợi thế về "đường đi", đầu đũa có thể thu hẹp hoặc mở rộng
được một khoảng cách khá lớn chỉ với một chuyển động nhỏ của các ngón tay. . Có
thể kể đến chất liệu kim loại (vàng, bạc, nhôm….) thường được vua chúa, quan lại
thời xưa sử dụng. Một phần để phân biệt giai cấp, phần khác có dụ ý để thử độc trong
đồ ăn khi nhìn thấy đũa bạc đổi màu.
9
Chương II. Cách sử dụng đũa
1. Các quy tắc sử dụng đũa
Người Việt ta không chỉ dùng đũa đơn thuần, mà cũng có những quy tắc, quy củ
khi dùng đũa phức tạp hệt như "văn hóa đũa" của các nước như Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc. Trước khi cầm đũa, phải xếp hai đầu đũa cho đều nhau, lúc sử dụng chỉ
động tới cạnh trên của đũa, dùng 3 đầu ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa nhẹ
nhàng cầm đũa. Móng tay của ngón áp út đặt dưới mặt đũa, ngón cái và ngón trỏ kẹp
chiếc đũa, cố định chúng lại, phần cuối đũa thừa ra khoảng 1 phân. Dưới đây là 4 bước
quan trọng giúp mọi người hình thành được thói quen dùng đũa cho đúng cách và dễ
dàng trong việc sử dụng:
Bước 1: Nhấc chiếc đũa đầu tiên lên và đặt nó ở khe giữa ngón trỏ và ngón cái
của bạn. Cây đũa này đóng vai trị là chỗ neo - bạn khơng được để nó di chuyển. Gồng
cứng bàn tay lại để nắm chắc hơn. Để đầu to của chiếc đũa nằm trong chỗ hõm tay, nơi
ngón tay cái và ngón trỏ của bạn nối với nhau. Đặt đầu nhỏ giữa gốc ngón tay cái và
cạnh ngón giữa của bạn. Cây đũa này sẽ hầu như cố định. Tương tự như cách bạn cầm
bút, nhưng thấp hơn một chút. Một số người có thể thích giữ đũa ở bên cạnh ngón đeo
nhẫn của họ, sử dụng đầu ngón tay đeo nhẫn để giữ cố định chiếc đũa. Cách này sẽ giải
phóng ngón giữa để giữ chiếc đũa kia chắc hơn và kiểm soát đũa tốt hơn. Đó là cách
cầm đũa trang trọng hơn.
Bước 2: Giữ chặt chiếc đũa thứ hai bằng ngón trỏ và ngón cái. Đây là chiếc đũa
có thể di chuyển. Đặt ngón tay cái của bạn vào bên cạnh của chiếc đũa thứ hai, dựa vào
phía trên chiếc đũa đầu tiên. Điều chỉnh cách cầm của ngón tay sao cho bạn thấy thoải
mái hơn. Hãy chắc chắn rằng đầu nhỏ của 2 cây đũa được xếp bằng với nhau để tránh
bị bắt chéo hoặc không thể "gắp" thức ăn. Để xếp đũa bằng nhau, bạn có thể gõ nhẹ
chúng trên bàn. Đũa khơng bằng nhau sẽ rất khó sử dụng.
10
Bước 3: Thực hành mở và đóng đũa. Hãy chắc chắn rằng đầu to của đũa không
tạo thành chữ "X" vì điều này sẽ khiến bạn khó lấy thức ăn. Nếu cần, hãy di chuyển
bàn tay lên và xuống dọc theo đũa, nhưng duy trì cùng một cách cầm, và thử nghiệm
các sức nắm khác nhau. Một số người thấy dễ dàng điều khiển nếu cầm sát đầu nhọn
của đũa, người khác thoải mái hơn khi cầm cao hơn.
Bước 4: Tập gắp thức ăn. Bắt đầu với góc cầm 45° là dễ dàng nhất tại thời điểm
này. Sau khi cầm đũa ổn định thì hãy nâng đũa cao hơn. Nếu cảm thấy chưa ổn, đặt nó
xuống và thử lại. Một khi đã gắp thuần thục một loại thức ăn, hãy chuyển sang thức ăn
có các kích cỡ và kết cấu khác nhau.
2. Văn hóa dùng đũa của người Việt
Người Việt các miền đều có nét văn hóa ẩm thực độc đáo riêng biệt, nhưng có
một điểm chung là chúng ta đều dùng đũa. Miền Bắc xưa thường có lũy tre làng, nên
người dân thường lấy thân tre già để làm đũa. Miền Nam lại được chở che bởi những
tán dừa, nên người miền Nam dùng chính cây dừa để làm nên đơi đũa. Thường thì đũa
miền Bắc có phần ngắn hơn một chút so với miền Nam. Nhưng nói chung, đũa truyền
thống Việt Nam có thân trịn và để mộc, khơng sơn qt, trang trí, đầu đũa cũng thường
khơng q nhỏ.
Ở nhiều quốc gia châu Á khác cũng dùng đũa, nhưng đũa Nhật Bản thường có
trang trí hoa văn, đũa Hàn Quốc thì thường dẹt và làm bằng kim loại. Đũa Nhật và đũa
Hàn có đầu khá nhỏ. Độ dài đũa ở từng nước cũng khác nhau. So sánh giữa các vật
dụng trên bàn ăn của phương Đông và phương Tây, thật khơng khó để nhận ra đơi đũa
là một thứ đồ dùng linh hoạt. Mặc dù học cầm đũa thì khó hơn cầm dao và dĩa, nhưng
đũa lại có thể thay thế cho hầu hết các vật dụng khác, và dùng cho hầu hết cách món
ăn.
11
H1: Đũa Nhật Bản
H2: Đũa Hàn Quốc
Nguồn: Du lịch Nhật Bản
Nguồn: Du lịch Hàn Quốc
Nói về cách cầm đũa, thì cũng có bài bản riêng của nó. Trước khi cầm đũa, phải
xếp hai đầu đũa cho đều nhau, lúc sử dụng chỉ động tới cạnh trên của đũa, dùng 3 đầu
ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa nhẹ nhàng cầm đũa. Móng tay của ngón áp
út đặt dưới mặt đũa, ngón cái và ngón trỏ kẹp chiếc đũa, cố định chúng lại, phần cuối
đũa thừa ra khoảng 1 phân. Trong gia đình, mỗi người có cách cầm đũa của riêng mình,
các em nhỏ lên 3, lên 4 đã được ông bà, bố mẹ dạy cách dùng đũa để ăn cơm, gắp thức
ăn.
“Học ăn, học nói, học gói, học mở” cũng chính là câu tục ngữ được cha ơng để
lại nhằm răn dạy, giáo dục mỗi con người ngay từ thuở còn thơ. Trẻ con được dạy rằng,
trước bữa ăn phải so đũa, chú ý đến đầu đũa có đúng hướng hay không, sau bữa ăn phải
đặt đũa xuống một cách ngay ngắn, không nên để đũa bị so le hay xô lệch. Nếu không
thể cầm đũa đúng cách, thì cũng phải chú ý đến ngón tay của mình, khơng nên duỗi
thẳng ngón tay trỏ ra khi cầm đũa vì như vậy trơng như bạn đang chỉ thẳng vào người
đối diện. Khi còn bé, người lớn cũng đã dạy rằng, khơng nên ngậm đũa và mút đũa vì
đó là điều bất lịch sự trên bàn ăn; khi gắp thức ăn thì khơng được xới tung cả đĩa thức
ăn để tìm thứ mình thích; hoặc khi trị chuyện trong bữa ăn không được vừa nhai nhồm
12
nhồm vừa nói, vừa cầm đũa vừa hoa tay múa chân kể chuyện… Khi chấm thức ăn thì
cũng nên chú ý không để đũa chạm vào nước chấm, và cần chú ý không để nước chấm
dây bẩn ra bàn, cũng khơng nên dùng đũa của mình để khuấy nước chấm hay khuấy
vào bát canh. Những điều đó tuy nhỏ nhặt, nhưng nếu khơng để ý thì cũng khiến bạn
xấu đi trong mắt người khác.
Trong văn hóa dân gian, người Việt Nam kiêng không gõ đũa vào nhau, không
gõ đũa vào bát, cũng không nên tạo nên tiếng “động bát động đũa” ồn ào, càng khơng
nên có tiếng nhai tóp tép… Khởi đầu bữa ăn, đặc biệt là trong những bữa cỗ truyền
thống, trước khi gắp đồ cho chính mình, người ta dùng đơi đũa cịn sạch để gắp đồ ăn
mời người khác. Trong suốt bữa ăn, khi muốn mời ai món gì đó, thường theo phép lịch
sự, người ta phải đảo đầu đũa để gắp bằng đầu còn lại. Đũa khơng chỉ là một dụng cụ
trên bàn ăn, văn hóa dùng đũa còn thể hiện sự quan tâm, chia sẻ một cách tinh tế của
người Việt. . Qua cách dùng đũa trong bữa ăn, ta cũng có thể nhận thấy ngay những kẻ
thô tục, phàm phu bằng câu: "Gắp thức ăn mời khách mà không giở đầu đũa". Người
Việt Nam tế nhị nên luôn ý thức rằng giở đầu đũa gắp cho khách là thể hiện sự tôn
trọng, lịch sự. Việc cứ để đầu đũa đang ăn mà gắp cho khách, nhất là những người kỹ
tính có thể gây khó chịu cho họ.
Văn hóa ẩm thực phải bắt đầu từ giáo dục gia đình, từ những chi tiết nhỏ nhoi
như cách cầm và xử dụng đôi đũa. Phong cách của người cầm đơi đũa trong bữa cơm
gia đình cũng như ngồi ở bữa tiệc biểu hiện trình độ văn hóa giáo dục của người đó.
Khi ngồi vào mâm cơm gia đình, người nhỏ tuổi sẽ so đũa và so trước tiên cho người
lớn nhất nhà hoặc khách quí. Người vai vế lớn nhất cầm đũa trước nhất và gắp ăn đầu
tiên, con cháu gắp theo những món nào người lớn đã gắp có nghĩa con cháu khơng được
gắp trước ơng bà một món ăn. Đơi đũa gắp thức ăn từ đĩa để vào bát rồi mới ăn, trong
bát vẫn còn đồ ăn không nên gắp thêm vào, thiếu phong cách văn hóa khi dùng đũa bới
đĩa tìm miếng ngon, chọc đũa vào bát canh, vừa cầm đôi đũa vừa chan canh hay chỉ
chỏ.
13
Tránh lấy đũa gẩy gón đĩa thức ăn chọn miếng ngon để gắp, miếng khác đẩy sang
bên, không được chọn bằng kiểu gà bới mà phải chọn bằng mắt trước khi gắp, gắp
miếng nào ăn miếng đó. Mỗi mâm có một chén nước mắm chấm chung, nhưng chấm
miếng thịt, miếng cá thì phải chấm bên cạnh bát nước mắm, đã cắn ăn rồi thì khơng
được chấm trở lại; Khơng được dùng đũa vẽ bét nhát cá ra mà phải chờ người lớn vẽ
gọn gàng trước.
Người Việt cũng đề ra những phép lịch sử trong văn hóa sử dụng đũa là vậy.
Chẳng hạn như khi so đũa thì đơi đũa phải ngay thẳng, dài bằng nhau, không đặt đũa
chéo, ngậm đũa, đánh rơi đũa khi ăn. Tối kỵ là so đôi đũa lệch hay vênh đã khơng đẹp
mắt cịn mang lại xui xẻo như câu ca dao: “ Vợ dại không hại bằng đũa vênh”. Đôi đũa
lệch dài ngắn khác nhau dùng để chỉ vợ chồng khơng xứng đơi về kích thước hay tuổi
tác; cũng không nên đặt đũa chéo, ngậm đũa hay làm rơi đũa khi ăn. Khi chấm thức
ăn thì cũng nên chú ý khơng để đũa chạm vào nước chấm, và cần chú ý không để nước
chấm dây bẩn ra bàn, cũng khơng nên dùng đũa của mình để khuấy nước chấm hay
khuấy vào bát canh. Những điều đó tuy nhỏ nhặt, nhưng nếu khơng để ý thì cũng khiến
bạn xấu đi trong mắt người khác. Qua cách dùng đũa trong bữa ăn, ta cũng có thể nhận
thấy ngay những kẻ thô tục, phàm phu bằng câu: "Gắp thức ăn mời khách mà không
giở đầu đũa". Người Việt Nam tế nhị nên luôn ý thức rằng giở đầu đũa gắp cho khách
là thể hiện sự tôn trọng, lịch sự. Việc cứ để đầu đũa đang ăn mà gắp cho khách, nhất là
những người kỹ tính có thể gây khó chịu cho họ.
Ngồi ra, đơi đũa cịn được xem là thể hiện của tính tập thể, tính cộng đồng trong
sinh hoạt văn hố. Bó đũa mang biểu tượng của sức mạnh đồn kết. Nó được thể hiện
trong chuyện ngụ ngơn“Câu chuyện bó đũa” – nói về sức mạnh của sự đoàn kết trong
cộng đồng. Trong cuộc sống thường ngày, người Việt còn đặc biệt kiêng kỵ với hiện
tượng bị gãy đũa, ném đũa…vì nó thể hiện sự khơng may mắn. Với người Việt
Nam, đơi đũa là hình ảnh của một nét văn hóa lâu đời cần được trân trọng và phát huy.
14
Nguồn: />
Như vậy, văn hố dùng đũa có nhiều điểm thật phong phú và thú vị. Quan niệm
văn hóa dùng đũa cũng như cách dùng đũa của mỗi nước lại có những nét vừa tương
đồng vừa khác biệt nhau. Tuy nhiên, về bản chất, văn hố dùng đũa có thể được hiểu
chung là : nó khơng chỉ đơn thuần là việc giúp người ta ăn sao cho tiện, cho ngon, nấu
món ăn sao cho hợp khẩu vị, mà cịn làm cho bữa ăn thi vị hơn, qua bữa ăn mà gần gũi,
gắn bó nhân ái với nhau hơn. Đó chính là bản chất của văn hố ẩm thực Á Đơng. Đũa
khơng chỉ là một cơng cụ để ăn. Văn hóa dùng đũa còn thể hiện sự khéo léo, quan tâm
và tinh tế của một nền văn minh.
15
Chương III. Triết lí từ đơi đũa
1. Đơi đũa – nét đẹp tâm hồn Việt
Đôi đũa đối với người Việt đã vượt qua các phạm vi vật chất vô cùng nhỏ bé,
khiêm nhường, vượt qua cả cái ý nghĩa, tập qn ăn uống thơng thường để trở thành
hình tượng sinh động, công cụ sắc bén trong diễn đạt những quan niệm về nhân sinh,
nhân tình thế thái. Hay nói khác hơn, nó đã hình thành “triết lý đơi đũa” ở Việt Nam.
Đơi đũa cũng là một sản phẩm văn hóa ẩm thực Việt Nam được chọn làm “nhân
vật” đưa lên tem bưu chính. Nó đem lại những thơng điệp mà người xưa đã âm thầm
gửi gắm về quan hệ ứng xử, nhân cách tự trọng, khiêm nhường, nhân nghĩa thủy chung,
sự đoàn kết và giàu bản lĩnh của tâm hồn người Việt.
Trước khi có mặt trên tem thì chỉ cần làm phép thống kê đơn giản (từ tuyển tập
ca dao, tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam) sẽ được một tập hợp khá thú vị về hình
tượng đơi đũa – phản ánh nhiều chiều cạnh của triết lý nhân sinh. Bản tính, phong cách
của người Việt vốn cẩn trọng, chu đáo, tế nhị. Từ tấm bé, cầm đôi đũa là khắc biết “so”
để “sánh” cho bằng, ngay thẳng, đôi nào ra đôi ấy, đầu nào ra đầu nấy. Việc nhỏ nhặt
ấy cứ ăn sâu vào tâm thức, ý thức để rồi lớn lên vào đời trở thành người ý tứ, biết suy
nghĩ, nói năng, hành xử “ra đầu ra đũa”, “đến đầu đến đũa”. Trong đối nhân xử thế, lối
nhìn nhận sự việc, đánh giá con người một cách hồ đồ, thiếu quan sát, không cân nhắc
phân biệt, cứ “vơ đũa cả nắm” là vô cùng tai hại, hậu quả không lường. Đặc biệt là
“triết lý về lứa đôi”, hình tượng đơi đũa đã thể hiện khá “trịn vai”. Thật là éo le, khốn
khổ, day dứt trong cảnh: “Bây giờ chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho
bằng”. Muốn cho hạnh phúc lứa đôi, vợ chồng khơng chỉ phải mơn đăng hộ đối, đồng
cảnh đồng tình giữa hai nhà, hai họ: “Xứng đôi vừa lứa, chọn nơi. Hay gì đũa mốc địi
chịi mâm son”. May mắn và hạnh phúc biết bao khi “Hai ta làm bạn thong dong, như
đơi đũa ngọc nằm trong mâm vàng”.
Có người cho rằng, viết “đũa mộc” thì đúng hơn “đũa mốc”. Với lập luận: “Mộc”
và “Mốc” là hai trạng thái, hai phẩm chất hoàn toàn khác nhau. Người Việt vốn bản
16
tính chất phác, nhân hậu, trong sinh hoạt thường nhật thích dùng đồ “mộc”, khơng ưa
son, nhuộm, tơ điểm, màu mè. Đặc biệt với đôi đũa là thứ đồ dùng đơn giản nhất, ai
cũng có thể tự túc làm được từ “cây nhà lá vườn”, nên đũa mộc là tốt nhất. Nó phù hợp
với tâm lý thực tế, trọng thực chất của các đồ gia dụng ở người Việt. Nhưng ở quan
niệm khác thì cho rằng, việc sử dụng từ “đũa mốc” – mâm son mới đủ sức lột tả sự trái
khối ngược đời, để chỉ sự khơng xứng đơi vừa lứa (về tài sắc, của cải, địa vị, tuổi tác,..)
của từng đôi “Mốc này đâu ngại chọc mâm son/ Mốc đành chịu vậy, chẳng địi mâm
son”,…
Khơng chỉ trong văn học dân gian, mà tiếp mạch nguồn cảm xúc truyền thống
đó, đơi đũa lại xuất hiện trong thơ ca hiện đại, với nhiều hình ảnh sinh động mới mẻ:
“Bếp tập thể đậu kho và rau luộc, Em gắp cho tôi bằng đôi đũa cau rừng” (Phạm Tiến
Duật). Đặc biệt, động tác so đũa đã cho ta thưởng thức nhiều tứ thơ hay cảm động:
“…Bữa ăn sum vầy bên bếp lửa, Mẹ so đũa thừa lại nhớ đến ta” (Thu Bồn). Bên cạnh
tính cặp đơi mà hình tượng đơi đũa thể hiện thì nó cịn phản ánh tính tập thể: bó đũa là
biểu hiện của sự đồn kết, của tính cộng đồng (trong câu chuyện dân gian về bó đũa chỉ
sự đồn kết là sức mạnh). Đơi đũa cịn là minh chứng của sự thiêng liêng, khi thề độc,
người xưa thường bẻ gãy đũa để thề. Thậm chí khi chết đi, cịn có đơi đũa cắm trên quả
trứng, bát cơm đặt lên áo quan đưa tiễn người về nơi an nghỉ cuối cùng… Tất cả những
điều này, khi đưa đôi đũa lên tem cũng tạo nên những sức mạnh, sự độc đáo của nó.
Tem về đơi đũa khơng nhiều, người sưu tầm bắt gặp nó là nâng niu như báu vật.
Đơi đũa tre đơn sơ mộc mạc của văn hoá đất Việt luôn hiện diện trong mọi nhà
người Việt, luôn âm thầm nhắc nhở họ về tình yêu quê hương đất nước, về sự đồn kết
và bình đẳng trong xã hội Việt nam. Mỗi giờ ăn, trước khi ta dùng cơm, ta hãy nhìn vào
đơi đũa tre thân thương kia mà nhận ra ý nghĩa sâu sắc về tình gia đình, tình chồng vợ
trong mối quan hệ hài hịa, thuận thảo. Nhìn thật sâu vào đơi đũa tre, ta sẽ biết mình
nên làm gì trong bổn phận và trách nhiệm của một người con dân đất Việt.
17
Nguồn: YAN News
2. Bản sắc dân tộc của người Việt qua đôi đũa
Quả thật, dùng đũa trong bữa ăn là một nét văn hóa- văn hóa ẩm thực của người
dân tộc ta. Tre Việt hay đũa Việt cũng vậy là một phần của bản sắc dân tộc Việt . Tập
quán dùng đũa đã khiến cho ở người Việt Nam hình thành cả một triết lý: triết lý đơi
đũa. Đó là triết lý về tính cặp đơi và triết lý về tính số đơng. Dân gian nói về triết lý cặp
đơi rất hay như: “Vợ chồng như đũa có đơi; Bây giờ chồng thấp vợ cao/ Như đôi đũa
lệch so sao cho vừa”… và ở thời Lê, bẻ gãy đôi đũa là dấu hiệu ly hơn.
Với cách nhìn mang tính triết luận, ta sẽ thấy đũa ln ln đi có đơi. Điều ấy
đâu chỉ bởi vì nó dễ dàng trong việc sử dụng mà nó cịn mang một giá trị văn hóa sâu
xa. Âm- dương kết hợp tạo sự cân bằng trong xã hội: đũa vợ đũa chồng tương xứng lứa
đôi. Từng chiếc đũa tuy rất nhỏ đấy, ấy thế mà khi bó chung vào lại tạo thành một sự
đồn kết rất bền vững như sức mạnh đồng lòng của một đoàn quân. Trẻ nhỏ cũng dần
dần được mẹ dạy cho cách cầm đũa khi ăn và khi đã nhắm mắt xi tay, trong đám ma
đó cũng có đơi đũa vót với bát cơm quả trứng ném theo huyệt người đã mất và suốt bốn
18
chín ngày sau đó vẫn phải có bát cơm, đơi đũa, quả trứng, muối... cho người đã khuất.
Nói thế để thấy đũa cũng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của chúng ta như
là một vật dụng không thể thiếu, không thể quên.
Trong nền văn minh hiện đại như ngày nay, cùng với sự thay đổi của cuộc sống
thì đũa vẫn tồn tại, vẫn mang bản sắc dân tộc và vẫn mộc mạc, giản dị đến thế. Người
phương Tây dùng thìa rĩa, người Ân Độ lấy tay để bốc thức ăn. Người Trung Quốc
cũng dùng đũa nhưng chắc chắn đũa của họ sẽ mang bản sắc, đặc trưng Trung Quốc.
Đâu phải dễ gì mà một ơng Tây mũi lõ có thể khéo léo cầm đơi đũa để gắp quả cà pháo
giòn tan kia ăn cùng với rau muống chấm tương bần hay bát canh cua đồng. Cho dù có
đi nơi đâu, trong tiềm thức của người Việt chắc rằng vẫn còn giữ được trong lòng những
đồ vật đơn sơ, giản dị mang đậm đà bản sắc quê hương với những món ăn cổ truyền
dân tộc. Khơng chỉ là vật dụng trong mỗi bữa ăn, đơi đũa cịn chứa đựng những giá trị
sâu sắc về tình cảm cũng như tinh thần của người Việt. Đầu tiên là tình cảm lứa đơi, vì
đũa chỉ làm trọn nhiệm vụ khi có cặp có đơi, cũng như nên dun người cần có đơi có
cặp. Kế đó là tình gia đình, đơi đũa khơng chỉ dùng gắp thức ăn cho mình mà cịn gắp
thức ăn mời người thân, điều đó hồn tồn hiếm gặp trong văn hóa phương Tây. Trước
khi ăn cơm, con cháu còn phải so đũa cho cả nhà, lễ phép kính cẩn đưa người lớn tuổi
trước. Trong bữa ăn, việc ai gắp trước, gắp sau cũng được ngầm quy định rõ ràng, theo
tơn ti trật tự, thể hiện tính văn hóa nhân văn rõ nét.
Sau tất cả, đơi đũa quen thuộc tới mức trở thành hình ảnh ẩn dụ cho nhiều vấn
đề trong cuộc sống. Làm bất cứ việc gì cũng phải “đến đầu đến đũa”, chọn bạn đời thì
nên chọn người phù hợp chứ đừng “đũa mốc mà chòi mâm son” để rồi giống như “đôi
đũa lệch so sao cho bằng”. Đánh giá, nhìn nhận một con người, một hiện tượng phải
bao quát chứ đừng “vơ đũa cả nắm”… Hay trong các câu chuyện kể Việt Nam, không
thiếu những câu chuyện gắn liền với đũa. Mà nổi bật nhất là câu chuyện “bó đũa” mà
người cha đã răn dạy cùng các con của mình về sự đồn kết, u thương trong gia đình.
Để rồi mỗi ngày khi bưng trên tay chén cơm đầy cùng đôi đũa mộc mạc, thân quen ta
19
sẽ nhận ra mình nên làm gì trong bổn phận và trách nhiệm của mỗi con người khi được
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất dấu yêu này.
Nguồn:
Nguồn: />20
Chương IV. Tính giá trị của văn hóa dân gian qua đôi đũa
Khái niệm giá trị được dùng trong nhiều lĩnh vực. Ở mỗi lĩnh vực, nội hàm của
khái niệm giá trị cũng khác nhau. Trong lĩnh vực văn hoá, khi đặt trong các mối quan
hệ cụ thể, khái niệm giá trị cũng được hiểu theo những hướng khác nhau. Giá trị không
chỉ được nhận diện thông qua những biểu hiện của các thuộc tính mà cịn phụ thuộc vào
q trình nhận diện đối tượng. Vì vậy, nhận diện giá trị của một đối tượng phải đặt nó
trong tất cả những mối quan hệ thực tại; cả về nguồn gốc và q trình phát triển của nó.
Nhận diện giá trị văn hố dân gian khơng nằm ngồi ngun tắc đó.
Có những điều đơn giản nhưng hàm chứa thật nhiều ý nghĩa, có những thứ nhỏ
nhoi lại ẩn trong mình giá trị văn hóa lớn, đơi đũa mộc mạc đã xuất hiện trên mâm cơm
người Việt không biết từ bao giờ và trở thành nét đẹp truyền thống trong ẩm thực Việt.
Dân tộc ta ba miền đều mang trong mình những phong tục tập quán riêng, nét văn hoá
mang bản sắc vùng miền. Âm sắc cũng cịn chưa chuẩn cách nói, với cách phát âm nặng
nhẹ, thế nhưng trên khắp đất nước người dân đều sử dụng đũa trên mâm cơm để gắp
thức ăn, đây quả thực là sợi dây liên kết kỳ lạ. Lâu dần đơi đũa khơng cịn chỉ là thói
quen hàng ngày, mà nó đã trở thành vật dụng không thể thay thế được trong mâm cơm
người Việt. Bởi nó khơng chỉ đơn thuần là vật dụng dùng để gắp thức ăn trong bữa cơm
hàng ngày mà còn thể hiện nét đẹp văn hóa và bản sắc tốt đẹp của người Việt ta. Có ai
thắc mắc rằng nếu như người Việt không sử dụng đôi đũa trên bàn ăn, thì chúng ta sẽ
dùng cái gì? Cũng sẽ có người vội vàng mà trả lời rằng, không dùng đũa thì dùng thìa,
nhưng để hiểu được thấu đáo cũng cần nhìn lại và tìm hiểu về đặc trưng ẩm thực của
người Việt. Rau, thịt, cá, cơm là món ăn chủ đạo trong bữa ăn của người Việt, ta không
thể dùng dao hay dĩa hay thìa lấy rau, thịt, cá để ăn.
Chất liệu làm nên đôi đũa cũng rất phong phú và đa dạng, từ chất liệu kim loại
(vàng, bạc, nhôm….) thường được vua chúa, quan lại thời xưa sử dụng để phân biệt
giai cấp, hay đến các loại chất liệu là nhựa, thiên nhiên (tre, trúc….). Những chiếc đũa
21
bằng tre, trúc gắn liền với văn hóa ẩm thực của Việt Nam, với đời sống thường nhật
của người Việt, cũng bởi một phần lý do biểu tượng của làng q Việt chính là hình
ảnh của cây tre, cây trúc. Hai chiếc đũa được dùng thành cặp, một chiếc làm trụ trong
khi chiếc còn lại di chuyển để gắp thức ăn. Điều này phản ánh sự tinh thông về âm
dương tương ứng với các yếu tố chủ động và thụ động, hình thành khái niệm về một
tổng thể vận động khơng ngừng. Hình dáng phổ biến của đơi đũa thường là một đầu
trịn và một đầu vng, tượng trưng cho trời và đất. Những ngón tay đặt ở giữa tượng
trưng cho con người được nuôi dưỡng bởi trời và đất. Bởi tượng trưng cho sự hòa hợp
của trời và đất nên đôi đũa được xem là điềm lành và thường được gói kèm vào của hồi
mơn để chúc phúc cho đôi lứa trong ngày thành hôn. Theo nhiều nhà văn hóa giải thích
thì cách người châu Âu sử dụng dao, dĩa, là cách ăn bắt chước lại những loài vật ăn thịt
sống dưới đất. Còn cách sử dụng đũa trên bàn ăn của người châu Á, trong đó có người
Việt là học cách ăn của những loài chim. Việt Nam là đất nước nhiệt đới, là nơi thích
hợp cho các lồi chim sinh sống như sếu, vạc, cị…. Những lồi chim này gắn bó với
cuộc sống của người nơng và đi vào trong những bài hát, những câu ca dao, đồng dao,
trở thành hình tượng khắc trên trống đồng, biểu tượng của nền văn hóa cổ đại. Chính
nhờ những mối liên hệ như thế, đôi đũa đã xuất hiện trên mầm cơm của người Việt và
trở thành nét đẹp văn hóa mà người Việt vơ cùng tự hào.
Đơi đũa nhỏ xinh, mộc mạc và giản dị đã đi vào văn hóa của người Việt từ thời
xa xưa. Và nó cũng mang trong mình ý nghĩa khác nhau, những triết lý về đời sống con
người từ lúc sinh ra cho đến khi trở về với đất mẹ, về mối quan hệ vợ chồng. Dù cho
đời sống văn hóa ẩm thực ngày càng trở nên đa dạng với sự du nhập của các loại đồ ăn
đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng người Việt chúng ta vẫn giữ gìn và tơ đẹp hơn cho
hình tượng đơi đũa trong mâm cơm gia đình, trong văn hóa ẩm thực của dân tộc. Ngày
nay, đất nước chúng ta đang trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, cả nước
đang phấn đấu thực hiện những mục tiêu của Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
về "Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc".
22
Trong bối cảnh chung như vậy, một lần nữa chúng ta thấy nổi bật vai trị của văn hóa
dân gian trong văn hóa dân tộc và trong đời sống xã hội. Văn hóa dùng đũa và những
giá trị mà đơi đũa mang lại cho con người cần được phát huy tốt đẹp và đem nó trở
thành vẻ đẹp văn hóa cần được gìn giữ dù trong bất kì thời đại nào.
KẾT LUẬN
Ăn uống khơng chỉ đơn thuần duy trì sự sống mà cịn là nét văn hóa gọi là văn
hóa ẩm thực. Từ cách ăn uống, có thể phần nào thấy được trình độ văn hóa, trình độ
nhận thức thẩm mỹ của một cá nhân, một gia đình, một vùng miền và một dân tộc.
Người Việt ba miền đều có riêng cho mình nét văn hóa ẩm thực độc đáo, riêng biệt
nhưng có một điểm chung là đều sử dụng đũa. Đôi đũa không chỉ là vật dụng không thể
thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày mà còn chứa đựng giá trị sâu sắc về tình cảm cũng
như tinh thần người Việt. Đơi đũa là hình ảnh rất đỗi quen thuộc trong mâm cơm của
gia đình Việt, nó khơng chỉ là dụng cụ được sử dụng trong bữa cơm hằng ngày mà cịn
mang đậm triết lí sống của người dân đất Việt. Đôi đũa tạo ra những giá trị văn hóa tốt
đẹp, thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn người dân Việt Nam và là công cụ sắc bén trong
diễn đạt những quan niệm về nhân sinh, nhân tình thế thái. Một lần nữa ta phải khẳng
định lại tầm quan trọng của thứ vật dụng nhỏ bé, bình dị, thân thuộc này mang lại. Bài
tiểu luận này mang cái nhìn tổng quan về văn hóa dân gian của đơi đũa nhằm giúp mọi
người có cái nhìn rõ hơn về vẻ đẹp bản sắc dân tộc của con người Việt Nam và những
triết lí được đúc kết ra từ hình ảnh đôi đũa – vật dụng quen thuộc hàng ngày. Qua đó
phát huy tốt nét truyền thống vốn có và đem giá trị của đôi đũa ảnh hưởng lớn trong bối
cảnh xã hội hiện nay.
Những giá trị dân gian của đôi đũa Việt ngày càng đóng một vai trị lớn đối với
văn hóa âm thực. Văn hóa dùng đũa và những giá trị mà đôi đũa mang lại cho con người
cần được phát huy tốt đẹp và đem nó trở thành vẻ đẹp văn hóa cần được gìn giữ dù
trong bất kì thời đại nào.
23
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Th.s. Thân Trung Dũng, Chuyện đôi đũa và văn hoá dùng đũa.
/>- Thái Văn Sinh, Văn hóa trong bữa ăn gia đình Việt.
/>- Dung - Thế Giới Trẻ, Nguồn gốc của văn hoá dùng đũa.
/>- Nhi Tuyết, Văn hóa dùng đũa khi ăn của một số quốc gia ở châu Á.
/>- Phương , Triết lý đôi đũa ở Việt Nam.
/>- Trần Vân Hạc, Đôi đũa Việt và triết lý cuộc đời.
/>- MonngonHanoi, Đôi đũa trong văn hóa ẩm thực Việt.
/>- Taky food, Câu chuyện đơi đũa Việt.
/>- Lạp Chúc Nguyễn Huy, Đôi đũa.
/> />
24