Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phong tục "ăn trầu" và " hút thuốc lào" của người Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.97 KB, 20 trang )

Lời nói đầu
Việt Nam là một đất nước được hình thành từ nền văn hóa văn minh
lúa nước, bởi vậy nền văn hóa lúa nước ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt lối
sống, cách ăn măc, sản xuất, giao lưu cho tới phong tục tập quán được hình
thành từ rất sớm và rất đa dạng. Cùng với quá trình lao động sản xuất những
cư dân trồng lúa nước đã taọ ra cho mình những phong tục tập quán riêng
mang đậm đà tính bản sắc của mình. những điều đó đã tạo nên những giá trị
văn hóa mà cho tới nay vẫn còn tồn tại ở các làng quê nông thôn vùng văn
hóa đồng bằng Bắc Bộ đó là : hình thái xã hội, gia đình, họ hàng, cấu trúc
nhà ở, quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất, cho tới văn hóa , phong tuc
tập quán… vì văn hóa nông thôn Việt rất đa dạng phong phú nên ở đây tôi
xin nói về một phong tục tập quán của nông thôn Việt Nam có trong cuộc
sống đời thường đó là phong tục “trầu cau” và “hút thuốc lào”.
Thông qua bài viết tôi muốn giới thiệu về nguồn gốc sự ra đời và qua
trình phát triển của hai phong tục này. Để đóng góp thêm một số kiến thức
cho nhưng người muốn tìm hiểu về văn hóa về đất nước con người việt
Nam.
Do còn thiếu kinh niệm nên bài viết chưa được hay, còn sơ sài, thiếu
sót. Vì vậy mong đựợc sự thông cảm và đóng góp ý kiến của thầy cô và bạn
đọc.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !
Từ lâu đời, Trầu cau đã gắn liền với đời sống của người Việt. Trầu
cau được dùng để tiếp khách hàng ngày, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui
buồn của làng quê. Ngày xưa, trầu cau là vật lễ trong các lễ tế thần, tế gia
tiên, lễ tang, lễ cưới, hỏi, lễ thọ, lễ mừng... Ngày nay, trầu cau vẫn là thứ
không thể thiếu trong việc giao hiếu, kết thân, cưới hỏi..., bởi miềng trầu tuy
đơn giản nhưng mang bao ý nghĩa sâu đậm trong đời sống văn hóa của
người Việt Nam.
Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt và phổ biến ở vùng
nhiệt đới châu Á, châu Đại Dương (ở Miến Điện trầu gọi là "kun-ya", Ấn Độ
trầu gọi là "paan", Philippines trầu gọi là "nga-nga"...). Ở mỗi nơi, mỗi vùng,


vật liệu ăn trầu có khác nhau nhưng sự khác nhau đó không đáng kể, về cơ
bản là dùng hỗn hợp lá trầu không, cau, vôi.
Với người Việt Nam, trầu cau còn là biểu hiện nét văn hóa độc đáo
của cộng đồng. Miếng trầu tuy rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm, ý
nghĩa, giàu nghèo ai cũng có thể có, vùng nào cũng có. Dân gian có câu
"Miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng trầu thắm têm vôi nồng luôn là sự
bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu đi đôi với lời chào, lời thăm hỏi
hay làm quen:
"Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là".
Quý nhau mời trầu, ghét nhau theo phép lịch sự cũng mời nhau ăn trầu
nhưng "cau sáu bổ ra thành mười". Đối với các nam nữ thanh niên xưa thì
miếng trầu là nguyên cớ để bắt đầu một tình yêu, một cuộc hôn nhân "Miếng
trầu nên dâu nhà người". Trong việc cưới xin, nhận lễ vật trầu cau là đồng
nghĩa với việc nhận lời cầu hôn, là giao ước giữa hai họ. Trong mâm lễ vật
cưới hỏi của nhà trai không thể thiếu buồng cau, tệp trầu và vôi. Đó là một
nghi thức độc đáo của người Việt.
Tục ăn trầu ở Việt Nam có khi nào thì chưa ai xác minh được một
cách chính xác, Ăn trầu là phong tục cổ truyền của người Việt. Tương truyền
có từ thời Hùng Vương và gắn liền với một câu chuyện cổ tích nổi tiếng:
Chuyện Trầu Cau.
Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể
hiện tình cảm dân tộc độc đáo.Miếng trầu là đầu câu chuyện. Với thôn dân
Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám bổ tư , vỏ chay rể
quạch luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm. Miếng trầu làm người với
người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên
trong những ngày đông lạnh giá, làm nguôi vợi bớt nỗi buồn khi nhà có tang,
có buồn được sẻ chia cảm thông bởi họ hàng bạn bè làng xóm. Và với các
nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu
hát, để vào với hội làng hội nước


Tráp đựng trầu
Cây cau thẳng, dây trầu mềm, khắp xứ sở Việt Nam đâu mà không thấy,
hàng cau phía trước bên bể nước mưa và giàn trầu trong mỗi ngôi nhà nơi
thôn dã luôn là biểu hiện của sự thái bình. Trong Nam có 18 thôn vườn trầu,
tổng diện tích hàng trăm cây số vuông. Ngoài Bắc, dọc các thôn xóm ven
sông Hồng, ngày xưa tới đâu mà chẳng nghe câu hát :
"Ru con con ngủ cho rồi
Để mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Nam phố, mua trầu chợ Dinh."
Và ở miền Trung, đâu đâu cũng thấy thấp thoáng bóng cau bên cạnh bóng
dừa và văng vẳng đâu đây câu hát :
" Bồng em mà bỏ vô nôi,
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán , chợ Cầu
Mua cau Bát Nhị , mua trầu Hội An."
Sách xưa thì ghi: "Ăn trầu làm thơm miệng, hạ khí, tiêu cơm" những
vật dụng cho việc ăn trầu hôm nay vẫn thấy, đó là cơi trầu (gắn liền với câu:
đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu), là dao bổ cau (gắn liền với câu: mắt sắc
dao cau), là chiếc âu trầu, là bình vôi, chìa vôi, ống vôi, là khăn, là túi đựng
trầu.Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp .
Như thế đủ thấy trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và
lâu đời biết dường nào.
Tục ăn trầu được chia làm hai loại :
+Thứ nhất là được dùng trong cuộc sống hàng ngày mang giá trị đời
thường dùng tiếp khách hàng ngày, như bát chè xanh, như điếu thuốc lào.Ở
vùng nông thôn miền Bắc miếng trầu trở thành món ăn tinh thần không thể
thiếu được, đặc biệt là các bà các mẹ tuổi đã cao răng đã rụng nhưng lúc nào
trong miệng cũng móm mém nhai trầu, nhai hết miếng này tái miếng khác

suốt ngày. Những người ăn trầu lâu trở nên nghiện , người ghiện trầu đôi khi
run tay dù đói no phải ăn một miếng trầu cau.
+ Ngoài ra trầu cau còn được biết tới là một nét văn hóa tinh thần
không thể thiếu. Là một thứ đầu của các sự lễ nghĩa, trầu làm sính lễ trong
buổi lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang ,đám hỏi, lễ thọ, lễ mừng...trầu thay cho
thiệp báo, thiệp mời trước ngày hôn lễ, trầu có mặt trong mỗi cuộc vui buồn
của làng quê, Xuân đến, Tết về, trầu cau còn là quà tặng.
Thơ Nguyễn Khuyến có câu :
"Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ
Xin đôi câu đối để mừng ông."
Trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ. Dân gian có câu:
"Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ"
Để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc
tiền nhân. Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt như thế nên hiển
nhiên nó cũng trở thành hình tượng của văn học dân gian. Sự tích Trầu
Cau là một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó
quên cây cau-người chồng, dây trầu-người vợ và hòn đá (vôi) - đứa em
trai chồng...
Trầu cau trong triết lý người Việt Nam
Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương hài
hoà. Khái niệm “âm dương” có thể gặp trong nhiều lĩnh vực : xin âm
dương ( tung hai đồng xu sao cho một sấp, một ngửa. ) , ngói âm dương
( ngói lợp nhà kiểu viên sấp, viên ngửa). Người Việt Nam từ tư duy đến
cách sống , từ các dấu vết cổ xưa đến thói quen hiện đại, khắp nơi đều toát
lên tính cách quân bình âm dương như một đặc trưng chung nhất.
Tục ăn trầu cau tiềm ẩn một triết lý về sự tổng hợp của nhiều chất khác
nhau : Cây cau vươn cao là biểu tượng của trời (dương) , vôi đất đá biểu
tượng của đất (âm) , dây trầu mọc lên từ đất , quấn quýt lấy thân cau ,
biểu tượng cho vai trò trung gian hoà hợp . Trầu cau nhai làm một , miếng
trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau , cái cay của lá trầu, cái nồng nàn của vôi,

cái bùi của rễ...tất cả tạo nên một chất kích thích , làm cho thơm mồm, đỏ
môi .
Miếng trầu còn tàng ẩn, tiềm ẩn tình nghĩa anh em ở nơi sự tích trầu - cau
- vôi: Sống chia rẽ anh em là chết. Sự hối hận đền bù cho cái chết, bằng
cái chết... Chết rồi nhưng vì biết hối hận nên lại sống lại, hóa thân nơi trầu
- cau - vôi, hòa hợp nơi miếng trầu. Một triết lý nhân sinh huyền nhiệm,
tuyệt vời, không cần rao giảng rườm lời như triết lý Tây, không cần "thiên
kinh địa nghĩa" như triết lý Tàu. Triết lý Việt Nam thường là "triết lý vô
ngôn" mà hay. Mà mầu nhiệm. Mà đầy tính "hiệu quả". ngôn" mà hay.
Mà mầu nhiệm. Mà đầy tính "hiệu quả".
Nét đẹp và giá trị của văn hoá trầu cau:
Tục ăn trầu cũng là một trong những yếu tố cấu thành nền văn hoá Việt
Nam, hơn thế nữa, nó chính là một nét giao tiếp đặc sắc của người Việt,
mang nặng tình người và chở nặng tính người nhất.
Trầu cau gần gũi với sinh hoạt của người Việt nên hiển nhiên nó cũng trở
thành hình tượng của văn học dân gian. Sự tích Trầu Cau là một câu
chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó quên cây cau-
người chồng, dây trầu-người vợ và hòn đá (vôi)-đứa em trai chồng...
Rồi đến cả trăm câu ví, câu đố, ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian mà tập
trung nhất là những bài, những câu của trai gái nói, hát với nhau gọi là
những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu. Hát mời trầu có tới hàng trăm
câu hát khác nhau nhưng câu nào cũng nói tới trầu, cau, vôi, vỏ hoặc nói
về cái tài của người bổ cau, têm trầu. Câu hát mời trầu cũng là câu hát bày
tỏ lòng mình. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng",
"cau bổ bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu
phượng, trầu tôi trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu
ngãi"... để rồi thành "trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng". Tục ăn
trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng răng
đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào. Người thôn nữ má hồng răng
đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai, như câu

ca xưa:
"Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen."

Đối với người Việt Nam, trầu cau là biểu tượng của tình cảm. Gặp nhau
sau câu chào, người ta mời trầu. Mời trầu để làm quen, và để tỏ lòng tin
cậy... Một người phương Tây đến Việt Nam thế kỷ 17 nhận xét: Người
Việt Nam đi đâu cũng có túi trầu mang theo. Gặp nhau, sau câu chào hỏi,
cởi túi trầu, người nọ lấy miếng trầu ở túi người kia, rồi vừa ăn trầu "của
nhau" vừa trò chuyện... Mến yêu, tin cậy, lịch sự biết bao!
Cau trầu còn biểu đạt tình yêu nam nữ một cách rất tinh tế và ý nhị.
Này đây là miếng trầu tỏ tình của người con gái đưa cho người con trai:
Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu
Trầu này trầu tính, trầu tình,
Trầu loan, trầu phượng, trầu mình lấy ta.
Hay khi người con gái cầm miếng trầu do người bạn trai trao, hiểu rõ đó
không chỉ đơn giản là trầu :
Miếng trầu ăn nặng bằng chì
Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn.

Cái "bạo dạn" của người thôn nữ xưa không đi "quá" đến sự "trâng tráo"
mà được "cân bằng" lại bằng sự "giữ gìn", giữ lấy cái mà phương Tây
xem là "nữ tính" hơn cả: tính e thẹn:
Sáng nay em đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
Hai anh đứng dậy hỏi han
Miệng nói tay cởi túi trầu mời ăn.

Thưa rằng: Bác mẹ em răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người...
Phép biện chứng vừa bạo dạn, vừa e thẹn đúng nơi, đúng lúc, là nghệ
thuật sống của người thanh nữ...Đó là nghệ thuật chối từ mà giờ đây ít ai
chịu học vì đã quá quen với sự "thu nhận".

×