TRƯỜNG ĐẠI HỌC FPT ĐÀ NẴNG
BỘ MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TỔ VÕ VOVINAM
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
Lịch sử và chặng đường 80 năm
hình thành và phát triển của Vovinam
Đề tài:
Giảng viên hướng dẫn: Hồng Ngọc Hùng
Sinh viên thực hiện: Trần Đình Triều
Lớp: Su1617 Năm học:2021
Đà Nẵng. 26 Tháng 6 năm 2021
1
Phụ bìa
2
Nhận xét của giáo viên phản biện
3
Lời cảm ơn
4
MỤC LỤC
Chương 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.
Tính cấp thiết của đề tài (hoặc lý do chọn đề tài)
1.2.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài
1.3.
Mục đích/mục tiêu nghiên cứu (hoặc yêu cầu nghiên cứu).
Chương 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1.
Cơ sở lý thuyết về…:
2.2.
…
Chương 3: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.1.
GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH VOVINAM
3.1.1.
Truyền thống võ thuật Đất Sơn Tây
3.1.2.
Thực dân Pháp và tuổi thơ của sáng tổ Nguyễn Lộc
3.1.3
Ấp ủ cuộc cách mạng thân và tâm cho người Việt
3.1.4
Vovinam từ gia đình sáng tổ
3.1.5
Vovinam đến với cơng chúng
Kết luận 1
3.2.
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN MÔN PHÁI VOVINAM VIỆT VÕ ĐẠO
3.2.1.
Giai đoạn 1936 - 1954
3.2.2.
GĐ 1954 - 1964:
3.2.3.
GĐ 1964 – 1975
3.2.4
GĐ 1964 – 1975
3.2.5
GĐ 2002 – 2010
3.2.6
GĐ 2010 – 2021
5
3.2.7
Vovinam ở nước ngoài hiện nay
Kết luận 2
3.3.
Nội dung 3
3.3.1.
Vấn đề 1
3.3.2.
Vấn đề 2
3.3.3.
…
Kết luận 3
3.4.
NỘI DUNG…
Chương 4: Kết luận, đề nghị.
4.1.
Kết luận chung
4.2.
Đề nghị
6
DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT, THUẬT NGỮ
7
DANH SÁCH BẢNG, HÌNH VẼ, ẢNH
8
TRẦN ĐÌNH TRIỀU – 80 NĂM VOVINAM
(1) Theo hướng dẫn (chi tiết mẫu tiểu luận)
(2) Xem từ trang có bìa xanh – trang cuối phụ lục
(3) Tiếp tục điều chỉnh, bổ sung, chú ý ảnh minh họa.
Giai đoạn hình thành Vovinam
Truyền thống võ thuật Đất Sơn Tây
Sơn Tây (nay thuộc tỉnh Hà Tây) được tạo nên bởi phù sa của ba dịng sơng lớn: sơng Nhị
(Hồng Hà), sơng Đà (Hắc Giang) và sông Lô; và hai nhánh sông nhỏ: sông Con (Tích
Giang) bắt nguồn từ Ba Vì chảy quanh vùng và sơng Đáy (Hát Giang) chạy ven địa giới
phía Đơng của tỉnh đã góp phần tạo cho Sơn Tây thành một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ.
Bên cạnh đó, Sơn Tây cịn có ngọn Ba Vì hùng vĩ. Gần Ba Vì là hệ thống núi lửa Đa
Chơng trùng điệp và một dãy núi đá vôi lớn ở phủ Quốc Oai (Phong Châu cũ) chiếm cứ
một dãy đất rộng lớn từ bờ sông Đáy đến sông Đà. Tuy thuộc vùng châu thổ tiếp giáp với
đồi núi nhưng khí hậu của Sơn Tây lại gần giống với các tỉnh vùng cao, nên người dân
vừa có tinh thần khống đạt của người miền núi, vừa có nếp sống văn minh của cư dân
các tỉnh đồng bằng. Địa linh này đã sản sinh nhiều nhân kiệt như Nguyễn Tuấn (Sơn
Tinh), Bố Cái Đại Vương, Trưng Vương, Ngô Quyền, Từ Đạo Hạnh, Vũ Công Duệ,
Phùng Khắc Khoan, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu... Và tại làng Hữu Bằng, huyện Thạch
Thất, ngày mồng tám tháng tư năm Nhâm Tý (ngày 24 tháng 5 năm 1912), cậu bé
Nguyễn Lộc đã cất tiếng khóc chào đời.
Ơng là trưởng nam trong một gia đình có 5 người anh em (Nguyễn Thị Thái, Nguyễn
Dần, Nguyễn Hải và Nguyễn Thị Bích Hà). Thân sinh là cụ ơng Nguyễn Đình Xuyến và
thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Hịa. Gia tộc cụ ơng từng sinh sống, làm ăn lâu đời tại làng
Hữu Bằng. Một thời gian sau, vì sinh kế, cụ ơng chuyển gia đình về Hà Nội và ngụ trong
một ngơi nhà bình dị tại đường Harmand Rousseau (phía sau chợ Hơm). Khi người con
trai đầu lòng cắp sách đến trường, cụ ông đã nhờ một vị lão võ sư khai tâm cho con mình
những thế võ và vật dân tộc để rèn luyện sức khỏe và phòng thân.
9
Thực dân Pháp và tuổi thơ của sáng tổ Nguyễn Lộc
Ông Nguyễn Lộc trưởng thành trong thảm cảnh quê hương Việt Nam bị thực dân Pháp đô
hộ hơn nửa thế kỷ. Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ đang bị chi phối bởi hai khuynh
hướng: Một bên là hy sinh dấn thân vào con đường cách mạng cứu nước; còn một bên kia
là bng mình theo lớp vỏ văn minh hào nhoáng của phương Tây mà những thú vui sa
đọa, những phong trào thể thao của lớp thượng lưu trưởng giả được thực dân Pháp
khuyến khích để ru ngủ các tầng lớp thanh niên. Là một thanh niên yêu nước, ông
Nguyễn Lộc vô cùng đau lòng trước thực trạng quê hương. Tất nhiên, ơng khơng bằng
lịng và lên án gắt gao dã tâm của bọn thực dân thống trị và tay sai. Theo ông, một trong
những yếu tố đưa cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đến thành cơng là cần phải xây
dựng cho người thanh niên một lòng yêu nước sâu sắc, một tinh thần tự hào dân tộc, một
ý thức cách mạng, ý chí quật cường và nghị lực quả cảm; tất cả những điều đó phải được
chứa đựng trong một thân thể khỏe mạnh, đanh thép, sức lực dẻo dai, chịu đựng được
mọi gian khổ, có khả năng tự vệ và chiến đấu. Vì thế, ơng có ước vọng góp phần nung
đúc và cống hiến cho tổ quốc những người con u có đạo đức, ý chí quyết thắng sự hèn
yếu, bạc nhược về tâm hồn và thể xác hầu vươn lên đến một lối sống tốt đẹp hơn: "Sống,
giúp người khác sống và sống vì người khác."
10
Ấp ủ cuộc cách mạng thân và tâm cho người Việt
Mang hoài bão ấy, ngoài việc tu dưỡng đạo đức trau giồi học vấn, ơng cịn dành thời gian
sưu tầm, nghiên cứu nhiều môn võ khác. Ngày đêm ông thường bầu bạn với nhiều loại
sách báo khác nhau từ Triết học, Văn học, Sử học... đến cả Y học, Cơ thể học. Tất cả
những ý tưởng quan trọng về võ học và những vấn đề liên quan đều được ông ký chú,
phân loại cụ thể. Khu vực bờ đê sông Hồng từ bến Phà Đen đến Viện Bác cổ, nhà Hát
Lớn đều có dấu chân ơng chạy nhảy, đi quyền, múa cơn... từ lúc mặt trời chưa tỉnh giấc.
Ngồi ra, ông còn đến tham quan các võ đường, dự khán những trận tỉ thí võ đài hoặc
mạn đàm cùng một số võ sư thời danh hầu tìm hiểu thêm các đòn thế hay, đẹp, hiệu quả
11
của các môn võ Trung Quốc, Nhật, Xiêm, Quyền Anh...
Qua đó, ơng nhận thấy mơn nào cũng có ưu điểm. Có mơn thiên về cương, kỹ thuật cứng
và mạnh; có môn thiên về nhu, kỹ thuật linh hoạt, khéo léo, uyển chuyển, ít dùng sức.
Riêng các mơn võ Việt Nam rất độc đáo, không theo cương hay nhu nhất định mà biến
hóa, linh động tùy theo thể tạng mỗi người, mỗi địa phương. Do sáng tạo từ lâu đời, võ
Việt Nam cũng có một số kỹ thuật khơng cịn phù hợp với thời đại mới nhưng ông cũng
nhận thấy rằng các kỹ thuật đó vẫn phát triển được những tố chất của cơ thể như thăng
bằng, chính xác, khéo léo... mà con người ở thời đại nào cũng cần. Vấn đề cốt lõi là thông
qua những bài bản xưa, đào sâu tinh nghĩa, tìm ra phương pháp huấn luyện mới, đáp ứng
được tính dân tộc. Từ việc nhận ra thực chất của những kỹ thuật, bài võ đi đến việc nhận
rõ giá trị đặc thù của từng môn võ, đồng thời đối chiếu với đặc điểm tâm lý và thể tạng
của người Việt Nam: ông nhận thấy cần phải xây dựng một mơn võ mang tính dân tộc,
khoa học và hiện đại để giúp thanh niên có một phương pháp rèn luyện sức khỏe, tự vệ và
chiến đấu mang danh dân tộc vì trong mọi cuộc chiến đấu, vấn đề tinh thần và danh dự là
hai yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành bại.
Năm 1945, ơng NGUYỄN LỘC lập gia đình cùng cơ NGUYỄN THỊ MINH (THANH) ,
học sinh trường Felix Faure, con gái thứ hai một đại điền chủ ở Thái Nguyên, là cụ ông
Nguyễn Ngọc Hoán và cụ bà Bùi Thị Ngọ với 6 ngườ ianh em (Nguyễn Ngọc Liệu,
Nguyễn Thị Lich, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Ngọc Văn. Nguyễn Ngọc Chương, Nguyễn
Thị Ðiền,Nguyễn Ngọc quỳnh, Nguyễn Thị Viên).
12
Vovinam từ gia đình sáng tổ
Ơng có 9 người con (3 trai 6 gái) là Nguyễn Ðạo, Nguyễn Chính, Nguyễn Quang,
Nguyễn Thanh Phương, Thanh Mai, Thanh Nga, Thanh Phú, Thanh Bình và Thanh Mỹ.
Tuy là một nhà võ nhưng ơng cốt cách, dáng vẽ của một văn nhân: Người dong dõng cao,
mắt sáng, trán rộng, cằm nở, gương mặt trầm tư, giọng nói ấm áp chân tình, nụ cười hiền
hịa cởi mở. Thường nhật phải khắc khổ luyện tập để đạt tới đỉnh cao của võ thuật, nhưng
trong con người ông vẫn tuôn chảy một dòng máu nghệ sĩ. Bên bình trà và bao thuốc lá,
ơng thường mãi mê, ngồi đàm luận thơ, văn, hội họa, nghệ thuật, nhiếp ảnh .... suốt buổi
sáng hoặc trọn đêm với môn đệ, bạn bè. Ơng thân mật, hịa đồng, giản dị, với tất cả mọi
người. Những học trị sống cận kề ơng đều được hưởng những cảm tình đơn hậu và sự
chăm lo chu đáo tận tình. Tuy vậy, khi bắt tay vào công việc, học tập, ông Nguyễn Lộc lại
rất nghiêm túc, cẩn trọng , luôn đặt yêu cầu cao đối với bản thân và các cộng sự. Giao lưu
rộng rãi, tính tình hào hiệp, con thiếu sữa vẫn mang gạo tiền giúp đỡ bạn bè khi gặp cơn
13
bĩ cực, vì thế ơng đã có một ảnh hưởng lớn lao và được mọi người chung quanh tin yêu,
quý trọng, gắn bó.
Vovinam đến với cơng chúng
Một trong những mục tiêu quan trọng của Liên đoàn Vovinam Việt Nam là hỗ trợ, quảng
bá, phát triển phong trào Vovinam trên thế giới; từng bước đưa Vovinam trở thành mơn
thi đấu chính thức và ổn định tại các giải thể thao của khu vực và châu lục.
Liên đoàn Vovinam Việt Nam thường xuyên hỗ trợ, giao lưu và mở rộng mối quan hệ tốt
đẹp với nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế như: Liên đoàn Vovinam Thế giới, Liên đoàn
Vovinam châu Á, Liên đồn Vovinam châu Âu, Liên đồn Vovinam Đơng Nam Á, Liên
đoàn Vovinam châu Phi… bằng nhiều giải đấu tổ chức tại các châu lục và cừ đội ngũ
chuyên gia, trọng tài, huấn luyện viên (HLV), vận động viên (VĐV) tới giao lưu, tập
huấn chuyên môn, điều lệ, luật thi đấu... cho các đội tuyển.
14
2.
Các giai đoạn phát triển môn phái Vovinam Việt Võ Đạo
Giai đoạn 1936 – 1954
Khoảng mùa thu năm 1938, khi việc nghiên cứu hồn thành, ơng mang ra huấn luyện thể
nghiệm cho một số thân hữu cùng lứa tuổi. Trong thời gian này, Vovinam lại được ông
tiếp tục sửa chữa, bổ sung về lý luận lẫn kỹ thuật. Ngót một năm sau, ông đem lớp môn
sinh đầu tiên công khai ra mắt quần chúng tại nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc biểu diễn thu
hút đông đảo người xem và thành công rực rỡ.
Để tạo thuận lợi trong việc truyền bá và phát triển "người con tinh thần" của mình, Sáng
Tổ nhận lời mời của bác sĩ Đặng Vũ Hỷ - Hội Trưởng Hội Thân Hữu Thể Thao - tổ chức
các lớp dạy Vovinam dành cho thanh niên. Lớp võ công khai đầu tiên khai giảng vào mùa
xuân năm 1940 tại trường Sư phạm (École Normale) ở phố Cửa Bắc, Hà Nội. Sau đó,
nhiều lớp võ liên tục được mở ra.
Nhớ lại những sự việc có ý nghĩa sâu sắc, các môn đệ ở thời kỳ 1938-1940 thường kể lại
tấm gương "uy vũ bất năng khuất" của vị Sáng Tổ môn phái. Trong buổi biểu diễn vào
mùa thu 1940, có một viên chức cao cấp của thực dân Pháp là Trung tá Maurice Ducoroy
chủ tọa; vì hắn ta là biểu tượng cho thực dân thống trị ngồi trên khán đài nên Sáng Tổ
không cho các môn sinh "Nghiêm Lễ" (lối chào của Vovinam) khán giả như thường lệ mà
đưa môn sinh vào hậu trường nghiêm mình làm lễ trước bàn thờ tổ quốc đã được lập sẵn.
Giữa cuộc biểu diễn, ông Đặng Vũ Hỷ mời ông lên khán đài để Ducoroy tặng huy
chương. Biết không thể từ chối, ông đành phải lên nhận, nhưng khi rời "khán đài danh
dự," ông điềm nhiên gỡ huy chương bỏ vào túi và ung dung điều khiển tiếp cuộc biểu
diễn. Hành động trên không những làm bẽ mặt chức quyền thực dân mà còn gây xúc
động sâu xa về lòng yêu nước và ý thức dân tộc trong giới thanh niên và nhất là các mơn
sinh Vovinam thời đó.
Từ đó, Vovinam ln ln châm ngịi cho phong trào cơng khai chống Pháp. Phong trào
đó được phát động mạnh vào năm 1942, từ vụ đụng độ chính thức giữa hai giới sinh viên
15
Việt-Pháp tại trường Đại Học Hà Nội và công chức tại Sở Canh Nông, đều do các sinh
viên và viên chức mơn sinh Vovinam chủ xướng. Vì thế, chính quyền thực dân Pháp ra
lệnh đình chỉ các lớp võ thuật tại trường Sư Phạm, cấm chỉ Sáng Tổ hoạt động. Đây
chính là giai đoạn thử thách quan trọng nhất của mơn phái Vovinam. Sáng Tổ vẫn bí mật
dạy một số môn đệ tâm huyết ở nhà riêng và phát động phong trào cơng khai chống Pháp
trong quảng đại quần chúng
Ít lâu sau, Vovinam cộng tác với các đoàn thể ái quốc tổ chức các ngày Giỗ Tổ Hùng
Vương, kỷ niệm Hai Bà Trưng, các công cuộc cứu tế xã hội, triệt hạ tượng đồng thực dân
tại các vườn hoa Paul Bert, Canh Nông... Đồng thời nhiều lớp võ tự vệ được mở ra tại
nhiều nơi ở Hà Nội đã thu hút hàng chục ngàn môn sinh.
Sự hâm mộ Vovinam trong quần chúng thời đó được bộc lộ bằng những khẩu hiệu:
"Người Việt học võ Việt", "Không học Vovinam không phải là người yêu nước"... Tinh
thần ái quốc và tiềm lực dân tộc được khơi dậy.
Ở thời kỳ này, việc đấu tranh giành độc lập là nhu cầu bức thiết của đất nước. Do đó, kỹ
thuật võ phát xuất từ nghiên cứu sáng tạo của Sáng Tổ rất đơn giản, hữu hiệu mà dễ tập,
dễ áp dụng nhưng rất cương mãnh, dữ dội, đặt nặng tính tốc chiến tốc thắng với phương
pháp huấn luyện chú trọng nhiều về ngoại công thân thép, tốc lực, sức chịu đựng và sức
bền bỉ. Chương trình tuy có phân cấp sơ, trung, và cao đẳng nhưng khơng mấy ai học q
ba năm, một phần vì thời cuộc, vì nhu cầu ứng phó cấp thiết; một phần đôi lúc do nhà
cầm quyền Pháp cấm cản, hàng ngũ cốt cán phải tập luyện bí mật. Các lớp võ công khai
lúc bấy giờ thường chỉ kéo dài ba tháng với những đòn cận chiến đơn giản.
Tháng 4-1945, từng đợt võ sư Vovinam được tung đi khắp toàn quốc để quảng bá và giúp
cho thanh niên có một lợi khí chống xâm lăng hữu hiệu.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Võ Sư Sáng Tổ lãnh đạo các
mơn đệ cùng tồn dân tham gia kháng chiến chống Pháp. Một số môn đồ đã trở thành
những chỉ huy nổi tiếng, và một số đã hy sinh cho Tổ Quốc.
Khi Việt Minh bắt đầu thao túng cuộc kháng chiến và lộ bản chất là những con người
Cộng Sản khát máu, Ơng đã ngưng mọi sự giúp đỡ của Mơn Phái cho Việt Minh. Với chủ
trương tiêu diệt những sự chống đối, Việt Minh đã ra lệnh lùng bắt Võ Sư Sáng Tổ cùng
các môn đồ. Bị lùng bắt bởi hai lực lượng đối nghịch là Việt Minh và chính quyền Pháp,
Ơng đã ra lệnh cho các mơn đồ phân tán mỏng về các địa phương để ẩn tránh. Còn một
số ít mơn đồ tâm huyết theo Ơng lên mạn ngược trở về quê hương ông.
16
Tại làng Hữu Bằng, Sáng Tổ đã mở lớp võ cho thanh niên huyện Thạch Thất và cử môn
đệ phụ trách lớp võ thuật cho Sinh Viên Sĩ Quan trường Qn Chính Trần Quốc Tuấn.
Sau đó Ơng lại lên đường phiêu bạt, mở rải rác các lớp Huấn Luyện cho Đại và Trung
Đội Trưởng Dân Quân Du Kích ở làng Chế Lưu, Ẩm Thượng, Thanh Hương, Đan Hà,
Đan Phú...
Vào tháng 3 năm 1948, Ơng xi Phát Diệm, đến khu ăn tồn của giáo xứ Phát Diệm.
Ơng cử mơn đệ phụ trách huấn luyện cho Tổng Bộ Tự Vệ Công Giáo Phát Diệm của
Tổng Chỉ Huy Trần Thiện.
Tháng 8-1948, Ông hồi cư về Hà Nội, tái mở những lớp võ cho thanh niên để gây dựng
lại phong trào học Vovinam, kiến thiết lại đời sống xã hội, khơi lại lòng tin yêu của thanh
niên trong việc tu dưỡng tinh thần và rèn luyện thân thể.
Năm 1951, Ông cộng tác với một số nhân sĩ thành lập Việt Nam Võ Sĩ Đoàn với những
lớp võ đại chúng tại sân trường Hàng Than, Hà Nội.
GĐ 1954 - 1964:
Ngày 20-7-1954, Hiệp Ước Genève phân chia Việt Nam bằng vĩ tuyến 17 ra làm hai
nước: miền Bắc Cộng Sản và miền Nam Quốc Gia. Đây là một cơ hội thử thách mới cho
mơn phái nói chung, và Sáng Tổ nói riêng. Nếu Sáng Tổ ở lại miền Bắc thì mơn phái
Vovinam sẽ bị khống chế bởi Cộng Sản. Nếu Sáng Tổ quyết định ra đi, tất nhiên sẽ ảnh
hưởng ngay tới một số môn đệ tâm huyết vì miền Bắc là quê hương của đại đa số môn
sinh ruột thịt, và sẽ bỏ lại đất Bắc một số môn đệ khác đã dày công lao đào tạo, vì các
mơn đệ này cịn bị liên hệ nhiều tới gia đình, quyến thuộc và quê hương tại miền Bắc.
17
Ngược lại, miền Nam vẫn còn là giải đất xa lạ, chưa được hiểu biết gì nhiều. Nếu vào
Nam thì phải trả bằng một giá rất đắt: lại trở về từ khởi điểm, trong lúc Sáng Tổ mỗi ngày
một lớn tuổi, các tầng lớp môn đệ cũ đã bị thời cuộc và sinh hoạt chính trị làm băng hoại
rất nhiều. Vào miền Nam với chương trình xây dựng lại từ đầu, khơng ai có thể trắc
lượng trước được những khó khăn và triển vọng trong những năm sắp tới.
Cuối cùng Võ Sư Sáng Tổ lại một lần nữa quyết định sáng suốt: vượt lên khỏi những khó
khăn, trở ngại, để quyết định vào Nam tạo dựng lại từ đầu, trong những điều kiện khơng
thuận lợi. Vì vậy cho nên vào tháng 7-1954, Sáng Tổ cùng các môn đồ tâm huyết di cư
vào Nam, mở võ đường tại đường Thủ Khoa Hn (Sài Gịn). Sáng Tổ đã cử các võ sư
mơn đệ phụ trách các lớp võ cho Hiến Binh Quốc Gia tại Sài Gòn và Thủ Đức...
Giữa năm 1957, Sáng Tổ nằm bệnh phải tạm nghỉ dạy một thời gian. Ông ủy quyền cho
người môn đệ trưởng tràng là Vs. Lê Sáng tạm thời thay thế việc phụ trách các lớp võ.
Tuy không trực tiếp giảng dạy Vovinam nhưng Sáng Tổ vẫn khơng ngừng tìm tịi, phân
tích các kỹ thuật lẫn tài liệu của Vovinam, hầu phát huy môn phái. Sáng Tổ vẫn thường
xuyên theo dõi các môn đệ tiếp tục hoạt động theo đường lối mà Ông đã đề ra.
Cũng vào thời điểm này, căn cứ vào các ý niệm tiên khởi về Cách Mạng Tâm Thân do
Sáng Tổ giảng dạy, Vs. Lê Sáng đã hình thành hệ thống hóa kỹ thuật võ học, lý thuyết võ
đạo và đường hướng, tơn chỉ và mục đích của mơn phái. Đồng thời Vs. Lê Sáng quy tụ
lớp môn đệ đã theo tập Sáng Tổ từ năm 1955, bồi dưỡng thành lớp võ sư cốt cán chung
tay phát triển môn phái.
Năm 1958, Vs. Lê Sáng được bầu vào chức vụ Tổng Thư Ký Tổng Cuộc Quyền Thuật
Việt Nam và đảm nhiệm chức vụ này cho đến năm 1968. Trong thời kỳ này, Vs. Lê Sáng
đã nghiên cứu, tìm hiểu sâu về các môn võ cổ truyền, và ông đã rút ra được tinh túy và
tìm cách bổ túc, cùng chỉnh lại phần phân thế thất truyền của những bài võ xưa mà lập ra
một hệ thống mới "một phát triển thành ba" cho môn phái sau này.
Trong lúc công việc phát triển mơn phái vừa mới bắt đầu và cịn đầy khó khăn thì vào
ngày 30-4-1960 (ngày 4 tháng 4 năm Canh Tý 1960), vị Sáng Tổ Vovinam đã đột ngột tạ
thế tại Sài Gòn. Trước khi tạ thế, Võ Sư Sáng Tổ đã trao quyền Chưởng Môn lại cho Vs.
Lê Sáng và nhắn nhủ Vs. Lê Sáng tiếp tục hoàn thành tâm nguyện của mình. Sau đó di
18
hài Sáng Tổ được an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Sài Gòn. Cứ mỗi năm, vào ngày
4 tháng 4 âm lịch, các môn sinh đến "Nghiêm Lễ" trước mộ Sáng Tổ.
Ngày 11-11-1960, nhân có Vs. Phạm Lợi (mơn Judo) tham gia đảo chính của tướng
Nguyễn Chánh Thi, chính quyền Ngơ Đình Diệm đã cấm chỉ tất cả các môn phái, kể cả
Vovinam, hoạt động. Tất cả các võ đường đều phải bị giải tán, các vị võ sư lãnh đạo thì
lưu lạc, bị chi phối vì quân ngũ, học hành, gia đình, và kinh tế.
Tuy nhiên, Vs. Trần Huy Phong, một trong những võ sư môn đệ của Sáng Tổ, vẫn bất
chấp khó khăn, tiếp tục khai phá sự nghiệp của mơn phái. Vốn là giáo sư Tốn, ông đã
phát triển Vovinam tại các trường trung học ở Sài Gòn như Thăng Long, Hồ Vũ, Thánh
Thomas với tư cách là bộ môn thể dục thể thao trong khuôn khổ học đường. Ông âm
thầm đơn phương đào tạo những cán bộ nồng cốt cho phong trào Thanh Niên Khỏe
Luyện Tập Vovinam, với đầy đủ cả ba đức tính: Trí, Đức, Thể. Nhờ đó, phong trào
Vovinam trong giai đoạn này khơng những khơng bị gián đoạn mà trái lại cịn đuợc phát
triển rộng rãi. Số môn sinh tăng lên rất đông, kết quả ông đã đào tạo đuợc một đội ngũ
huấn luyện viên trẻ và tâm huyết, một tầng lớp cán bộ nền tảng cho việc mở rộng phong
trào cho những giai đoạn 1964-1975.
Ngày 1-11-1963, lực lượng quân nhân đã đứng lên đảo chánh, lật đổ chính quyền Ngơ
Đình Diệm, và dựng lên nền Đệ Nhị Cộng Hòa. Sau khi lệnh cấm hoạt động được bãi bỏ,
các phái võ không còn bị giới hạn và đã bừng lên như một lò lửa sau bao ngày âm ỉ.
Đầu năm 1964, Võ Sư Chưởng Môn Lê Sáng từ Quảng Đức trở về Sài Gòn và đã cùng
với Vs. Trần Huy Phong và các võ sư khác khởi sự vạch ra một chương trình hành động
để đặt nền tảng mới cho Vovinam. Chẳng bao lâu, Hội Đồng Môn Phái Vovinam-Việt Võ
Đạo được thành lập, đồng thời chuyển danh xưng Vovinam thành Vovinam-Việt Võ Đạo.
19
GĐ 1964 - 1975
Năm 1965, Vs. Phùng Mạnh Chữ (tự Mạnh Hồng), Trưởng Ban Ngoại Vụ của mơn phái,
đã thành cơng trong việc đưa Vovinam-Việt Võ Đạo vào chương trình Học Đường Mới
của Bộ Quốc Gia Giáo Dục, khởi đầu là bốn trường Trung Học thí điểm tại Sài Gịn: Chu
Văn An, Pétrus Trương Vĩnh Ký, Trưng Vương và Gia Long, và liền sau đó là các trường
cơng lập khác như Nguyễn Trãi, Võ Trường Toản, Lê Văn Duyệt, Trần Lục, Hồ Ngọc
Cẩn, Mạc Đỉnh Chi... và cả luôn những học sinh của các trường tư thục tại Sài Gòn - Gia
Định. Cũng trong năm này, chương trình huấn luyện mới được bổ túc hoàn chỉnh với hệ
thống bài bản rõ ràng từ Nhập Môn tới Chuẩn Hồng Đai. Hệ thống lý thuyết võ đạo được
giảng dạy kèm theo chương trình huấn luyện ở các cấp.
Cũng nhờ tài ngoại giao khéo léo, ngay từ năm 1965, Vs. Mạnh Hoàng đã thu dụng về
cho Vovinam-Việt Võ Đạo được hai cơ sở lớn, lập võ đường làm nơi sinh hoạt động đảo
của Việt Võ Đạo Sinh cho tới tháng 4-1975, đó là võ đường ở vận động trường Hoa Lư
(sau này được Vs. Trần Huy Phong đặt tên là Trung Tâm Sinh Hoạt và Giáo Dục Thanh
Niên) số 2 Bis đường Đinh Tiên Hoàng và một võ đường nữa nằm cạnh sân vận động
Lam Sơn đường Trần Bình Trọng, đằng sau trường trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký.
Phong trào học sinh theo tập Vovinam-Việt Võ Đạo tiến quá nhanh, quá mạnh, chỉ trong
thời gian ngắn, hàng trăm lớp võ đã được khai giảng thu nhận hàng ngàn thanh niên học
sinh riêng tại Sài Gòn, chưa kể các tỉnh theo tập, nên thiếu huấn luyện viên một cách trầm
trọng, nhiều võ sư, huấn luyện viên phải đứng lớp 10-11 tiếng một ngày suốt tuần, đến
nỗi phải trưng dụng luôn cả các môn sinh trình độ Sơ Đẳng Lam Đai để đi dạy, tuy vậy
vẫn chưa đủ thỏa mãn, nhu cầu và phải đi đến tình trạng tiêu cực là từ chối ghi danh cũng
như mở thêm lớp võ mới.
20
Đầu năm 1966, Vs. Mạnh Hoàng cũng thuyết phục được giới chức lãnh đạo trong ngành
Cảnh Sát Quốc Gia, nên Vovinam đã trở thành bộ mơn võ thuật chính của ngành. Mở đầu
là nhiều khóa liên tiếp đào tạo Huấn Luyện Viên Võ Thuật Cảnh Sát Quốc Gia cho toàn
quốc được tổ chức. Chính Võ Sư Chưởng Mơn Lê Sáng và các Vs. Nguyễn Văn Thông,
Phan Quỳnh, Trịnh Ngọc Minh, Lê Công Danh, Trần Văn Bé... đã giảng dạy và điều động
các lớp võ này, đồng thời môn phái cũng đã thu được một ngân khoản đáng kể vì các
nhân viên cảnh sát thụ huấn đều được ngành trả học phí. Phong trào đang phát triển mạnh
và đào tạo được 3 khóa Huấn Luyện Viên thì bị đình chỉ vì có sự thay đổi cấp lãnh đạo
của ngành Cảnh Sát.
Tuy Tổng Nha Cảnh Sát Quốc Gia đình chỉ huấn luyện Vovinam-Việt Võ Đạo, nhưng
những huấn luyện viên Việt Võ Đạo thuộc ngành Cảnh Sát Quốc Gia sau khi tốt nghiệp
đã là những hạt nhân tốt trong việc phát triển môn phái bề rộng, đưa Vovinam-Việt Võ
Đạo về địa phương cấp tỉnh, cấp quận tại khắp miền Nam Việt Nam với những lớp võ
thuật huấn luyện trong quần chúng thanh thiếu niên nam nữ, học sinh tại địa phương.
Giữa năm 1966, do sự vận động và ngoại giao của chính phủ Nam Hàn, Bộ Tổng Tham
Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hịa ra quyết định đưa mơn võ Thái Cực Đạo
(Taekwondo) vào độc quyền dạy trong quân đội Việt Nam. Trước quyết định này,
Vovinam-Việt Võ Đạo đã nhận định rằng đây là một sự tủi nhục vì Việt Nam vốn có một
truyền thống võ học lâu dài, có một nền văn minh trên bốn ngàn năm, thế mà nay lại đưa
môn võ khá mới của nước bạn Nam Hàn vào dạy trong qn đội mà khơng nói gì đến các
mơn võ Việt Nam.
Nhân ngày Quốc Hận 20 tháng 7 năm 1966, môn phái đã tổ chức Đại Hội Vovinam-Việt
Võ Đạo và cắm trại, đốt lửa trại thức qua đêm không ngủ với hàng ngàn môn sinh tham
dự trong khuôn viên Thảo Cầm Viên, Sài Gòn. Các võ sư đã lên diễn đàn phản kháng,
đưa kiến nghị yêu cầu Quân Đội Việt Nam không nên chỉ vay mượn các môn võ của
nước ngồi mà qn đi những mơn võ Việt Nam, vì võ Việt Nam không thua kém bất cứ
môn võ nào trên thế giới. Sự kiện này đã được giới truyền thông tiếp tay ủng hộ, cổ võ,
đã gây xúc động lớn trong dân chúng cũng như trong quân đội, nhưng một mặt cũng bị
Nha An Ninh Quân Đội và Sở Nghiên Cứu Chính Trị Phủ Tổng Thống (Hai cơ quan anh
ninh, tình báo cao cấp của Việt Nam Cộng Hịa) nghi ngờ, theo dõi điều tra. Chính các
Vs. Mạnh Hồng, Trần Huy Phong, Phan Quỳnh... đã bị chính Đại Tá Thăng, Giám Đốc
21
Nha An Ninh Quân Đội, trực tiếp phỏng vấn. Nhưng nhờ tinh thần kiên trì, và khả năng
thuyết phục có chính nghĩa của các võ sư, về sau Bộ Tổng Tham Mưu đã ra một quyết
định thứ hai cho phép ba môn võ vào dạy trong quân đội là Vovinam-Việt Võ Đạo, Nhu
Đạo và Thái Cực Đạo. Bắt đầu từ đó, các đơn vị trong qn đội ưa thích Vovinam-Việt
Võ Đạo ngày càng lan rộng và dần dần trở thành một phong trào luyện võ trong Quân
Lực Việt Nam Cộng Hịa.
Đầu năm 1967, do vận động móc nối, Vs. Mạnh Hoàng đã liên hệ với Trung Tá Thủy,
Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Quân Cảnh Quân Đoàn 3 để thành lập và tổ chức những lớp
đào tạo huấn luyện viên võ thuật cho Lực Lượng Quân Cảnh tại Biên Hòa. Chương trình
này đã đào tạo được một số võ sư, huấn luyện viên Vovinam-Việt Võ Đạo.
Cuối năm 1967, Vs. Mạnh Hoàng đột ngột qua đời vì bị thương hàn nhập lý và bị bệnh
tiểu đường cấp tính. Vs. Mạnh Hồng mất đi lúc chưa tròn 30 tuổi đời nhưng đã để lại
một sự nghiệp lớn trong môn phái.
Từ năm 1968, cao trào Việt Võ Đạo Hóa đến Quân Binh Chủng được phát động tại Bộ
Tổng Tham Mưu, Sư Đoàn 18 Bộ Binh, Qn Cảnh Qn Đồn III, trường Khơng Qn
và Hải Quân Nha Trang, Quân Đoàn IV, Tiếp Vận IV, Thiết Đoàn 16, Liên Đoàn 81 Biệt
Cách Dù, các Tiểu Khu và Chi Khu, Sư Đoàn 21 Bộ Binh, Trung Tâm Huấn Luyện Sư
Đoàn 9, Hải Quân Long Xuyên, Hải Quân Bình Thủy, Sư Đồn 3 Bộ Binh... Cùng năm
này, cao trào Việt Võ Đạo Hóa Cán Bộ Phát Triển Nơng Thôn được phát động với hàng
chục ngàn Cán Bộ Nông Thơn tham dự tại Sài Gịn và tại các Tỉnh Đoàn và Quân Đoàn.
Đầu năm 1968, ngay khi biến cố Tết Mậu Thân đang diễn ra, môn phái Vovinam-Việt Võ
Đạo đã tổ chức cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến cuộc, tổ chức các trung tâm tiếp cư tại
các trường học tại Sài Gịn như: trường Phạm Đình Hổ, Minh Phụng, Khải Tú, Hồng
Bàng, Bình Tây... để giúp đỡ hàng chục ngàn đồng bào tị nạn hay cháy nhà có được chổ
ăn chổ ở, và các nhu cầu hằng ngày của các gia đình trong cơn ly loạn, thất cơ khổ cực.
Công tác này đã gây được một tiếng vang lớn trong dân chúng toàn quốc.
22
Cũng trong năm 1968, Tổng Cục Huấn Luyện được thành lập và đặt tại số 30 Trần Hoàng
Quân (nay là số 31 Sư Vạn Hạnh), song song với việc thành lập Tổng Hội Việt Võ Đạo
và Tổng Đoàn Thanh Niên Việt Võ Đạo được đặt tại số 2 Bis Đinh Tiên Hồng. Võ Sư
Chưởng Mơn đã chỉ định Vs. Trần Huy Phong đảm nhiệm chức vụ Tổng Đoàn Trưởng
Tổng Đoàn Thanh Niên Việt Võ Đạo.
Tiếp theo, hàng loạt các võ sư, huấn luyện viên được tung đi các tỉnh để xây dựng và phát
triển phong trào Vovinam-Việt Võ Đạo như: Trịnh Ngọc Minh (Nha Trang), Trần Tấn Vũ
(Phú Yên), Ngô Kim Tuyền (Bình Dương), Nguyễn Văn Chiếu (Quy Nhơn), Nguyễn Văn
Nhàn và Nguyễn Văn Sen (Cần Thơ), Trần Văn Mỹ (Hậu Giang), Dương Minh Nhơn
(Kiên Giang), Nguyễn Tôn Khoa (An Giang), Nguyễn Văn Vang (Vĩnh Long), Nguyễn
Văn Ít (Mỹ Tho)...
Sau đó ít lâu, Cục Huấn Luyện Miền Đơng được đặt tại Long Khánh do Vs. Trần Đức
Hợp đảm nhiệm và Cục Huấn Luyện Miền Trung được đặt tại Khánh Hòa do Vs. Trịnh
Ngọc Minh đảm trách. Năm 1969, Cục Huấn Luyện Miền Tây được thành lập tại Long
Xuyên sau đổi về Cần Thơ do Vs. Nguyễn Văn Nhàn đảm trách. Năm 1970, Cục Huấn
Luyện Miền Tây Bắc được đặt tại Bình Dương do Vs. Ngơ Kim Tuyền phụ trách.
Hàng năm, vào dịp Lễ Tưởng Niệm Cố Võ Sư Sáng Tổ, các võ sư đại diện phong trào
khắp nơi đều tập trung về Sài Gòn dự lễ, cũng như tập huấn, thi cử, tạo thành một truyền
thống đoàn kết, thân ái tốt đẹp. Võ Sư Chưởng Môn và một số võ sư cao cấp cũng thường
xuyên đi thăm hỏi, chấm thi ở các nơi để hỗ trợ, động viên và kiểm tra phong trào. Bên
cạnh việc giáo dục đạo đức và huấn luyện võ thuật cho môn sinh, môn phái Vovinam-Việt
Võ Đạo cịn tham gia một vài cơng việc xã hội như cứu trợ đồng bào bị bão lụt, thiên
tai...
Đầu năm 1970, Vs. Trần Huy Phong thành lập làng Cộng Đồng Việt Võ Đạo tại xã Tân
Tạo, quận Bình Chánh, tỉnh Gia Định với diện tích trên 3 cây số vng, đào hàng chục
cây số hệ thống kinh đào thoát nước giải phèn, thành lập trên một ngàn đơn vị gia cư bán
trả góp giá rẻ cho mơn sinh và thân hữu, đồng thời ông cùng một số thân hữu thành lập
Hợp Tác Xã Nông Nghiệp Việt Võ Đạo để khai thác nông sản phẩm của khu cộng đồng
23
này. Sau ngày 30-4-1975, nhà cầm quyền Cộng Sản đã tịch thu khu gia cư này của Tổng
Đoàn Thanh Niên Việt Võ Đạo để biến thành vùng Kinh Tế Mới Dương Minh Xuân.
Cuối năm 1970, môn phái Vovinam-Việt Võ Đạo đã cùng nhiều đồn thể văn hóa, xã hội,
chính trị và các tổ chức tôn giáo lớn cùng các thân hào nhân sĩ tại miền Nam thành lập
Ủy Ban Vận Động Dựng Đền Thờ Quốc Tổ Hùng Vương, mà bàn thờ và trụ sở đặt tại võ
đường Hoa Lư. Hằng năm, vào dịp tổ chức Lễ Giỗ Quốc Tổ, từ Tổng Thống, các nhà lập
pháp ở Quốc Hội đến các cơ quan chánh quyền các cấp, các đoàn thể và nhân dân mọi
nơi đều trở về võ đường Hoa Lư để dâng hương, lễ bái trong nhiều ngày liên tiếp. Năm
1973, cao trào Việt Võ Đạo Hóa Cán Bộ Quốc Gia, với nhiều khóa Huấn Luyện đặt tại
Trung Tâm Chí Linh, Vũng Tàu.
Mùa hè năm 1972, Vs. Phan Hoàng từ Pháp tìm gặp Vs. Trần Huy Phong tại võ đường
Hoa Lư. Vs. Phan Hoàng là Huyền Ðai tứ đẳng Karaté, là một trong các sáng lập viên của
Hội Võ Thuật Việt Nam (KungFu Vietnamien) tại Pháp, trong đó có các Vs. Nguyễn Dần
Phú, Phạm Xuân Tòng, Trần Phước, Nguyễn Trung Hoa và ơng Bùi Văn Thịnh. Vs. Phan
Hồng ngỏ ý muốn xin gia nhập vào Mơnphái vì thích lý tưởng Việt Võ Ðạo. Sau đó, VS
Phan Hồng được hướng dẫn tập luyện 2 buổi tại võ đường Hoa Lư.
Mùa hè năm 1974, VS Phan Hoàng dẫn một phái đoàn về Việt Nam, trong đó có VS
Nguyễn Dần Phú, cùng khoảng 20 môn sinh người Pháp. VS Lê Công Danh được giao
trách nhiệm phụ trách huấn luyện cho phái đoàn. Sau đó VS Phan Hồng được cơng nhận
làm đại diện chính thức cho Mơn phái tại Pháp và Âu Châu.
Liên Đồn Việt Võ Đạo Pháp Quốc được thành lập với một Ban Điều Hành gồm các Vs.
Phan Hoàng (Chủ Tịch), Phạm Xn Tịng, Nguyễn Dân Phú, Hồng Nam, Nguyễn
Trung Hịa, Trần Phước Tastayre, và ơng Bùi Văn Thịnh. Liên Đồn Vovinam-Việt Võ
Đạo Pháp Quốc cung có trách nhiệm phát triển Vovinam-Việt Võ Đạo đến toàn Âu Châu.
Ngoài ra hai HLV Dương và Nguyễn Thị Huệ cũng được cử sang Pháp để hỗ trợ phong
trào mới thành lập
24
Sau đó, mơn phái Vovinam-Việt Võ Đạo cũng theo chân các du học sinh như Trần
Nguyên Đạo, Trần Đại Chiêu, Dương Quan Việt, Hà Chí Thành... du nhập vào một số
nước Âu Châu như Pháp, Ý, Đức, Thụy Sĩ...
Tháng 7-1974, Võ Sư Chưởng Môn trao quyền Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Huấn Luyện
cho Vs. Trần Huy Phong với nhiệm kỳ 2 năm, đồng thời kiêm nhiệm Giám Ðốc Văn
Phòng Phát Triển Việt Võ Ðạo Quốc Tế. Vs. Nguyễn Văn Thông được tuyển định làm tân
Tổng Đoàn Trưởng Tổng Đoàn Thanh Niên Việt Võ Đạo cũng với nhiệm kỳ như trên.
Sau 30-4-1975, Dù có rất nhiều điều kiện và cơ hội để ra nước ngồi nhưng Võ Sư
Chưởng Mơn và các võ sư cao cấp khác vẫn cương quyết, dũng cảm lựa chọn ở lại trong
nước, để tiếp tục con đường phát triển môn phái
Ngày 27-5-1975, Võ Sư Chưởng Môn bị đi cầm tù ... sau đó đến VS Trần Huy Phong
cũng chịu nạn
Trong thời kỳ này, môn phái Vovinam-VVÐ bị cấm đoán và gần như tan rã, các võ sư
lãnh đạo người thì bị cầm tù, người thì thu hình lo củng cố lực lượng, người bị lưu lạc tại
hải ngoại, mỗi người tản mát một phương trời. Nhưng Võ Đạo khơng vì thế mà bị ly tán,
trái lại đang âm ỉ chuyển sang một giai đoạn phát triển rộng lớn gay go hơn, đó là giai
đoạn phát triển quốc tế.
25