Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ PHÂN TÍCH SỰ RA ĐỜI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HÓA, BẢN CHẤT CỦA HÀNG HOÁ, LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HOÁ VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LƯỢNG GIÁ TRỊ CỦA HÀNG HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.81 KB, 24 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MARX LENIN

ĐỀ TÀI
Phân tích sự ra đời của sản xuất hàng hóa, bản chất của hàng hố, lượng giá trị hàng hoá và
những nhân tố ảnh hưởng lượng giá trị của hàng hoá.Ý nghĩa thực tiễn.
Giảng viên:
Mã lớp học phần:
Sinh viên thực hiện:
1.

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021

MỤC LỤC

I. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
1


1. Định nghĩa của chủ nghĩa Marx Lenin về sản xuất hàng hóa
2. Sơ lược về sự phát triển sản xuất hàng hóa
3. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
4. Ưu thế và mặt trái của sản xuất hàng hóa
5. Ý nghĩa thực tiễn về áp dụng sản xuất hàng hóa đối với Việt Nam

II. Bản chất của hàng hóa
1.



Khái niệm hàng hóa

2.

Thuộc tính của hàng hóa:

3.

Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa

4.

Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa:

III. Lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng lượng giá trị hàng hóa
1.

Lý luận của Marx về lượng giá trị hàng hóa

2.

Cấu thành nên lượng giá trị hàng hóa

3.

Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

4.


Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá trị hàng hóa

IV. Ý nghĩa thực tiễn việc áp dụng gía trị hàng hóa vào sản xuất ở Việt Nam
nhằm nâng cao sức cạnh tranh

2


I.

Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa

1. Định nghĩa của chủ nghĩa Marx Lenin về sản xuất hàng hóa
Trước hết, từ lý luận của Karl Marx về sản xuất hàng hóa, ta có thể hiểu sản xuất hàng hóa
là một kiểu tổ chức kinh tế mà trong đó sản phẩm làm ra chủ yếu để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của xã hội thông qua các hoạt động trao đổi, mua bán chứ không phải để phục vụ cho
nhu cầu của người trực tiếp làm ra sản phẩm đó.

2. Sơ lược về sự phát triển sản xuất hàng hóa
Xun suốt lịch sử phát triển, xã hội lồi người đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế
cơ bản. Đó là kiểu sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.
a.

Sản xuất tự cung tự cấp
Trong đó, sản xuất tự cung tự cấp tồn tại chủ yếu trong thời kỳ nguyên thủy. Ở kiểu

sản xuất này, mỗi người sản xuất tồn tại độc lập, thậm chí biệt lập với nhau. Điều này được
thể hiện qua vịng trịn hoạt động khép kín của các chủ thể sản xuất: tự sản xuất - tự tiêu
dùng. Nếu trong cuộc sống phát sinh thêm nhu cầu cần được thoả mãn, họ phải tự tìm cách
làm ra các sản phẩm và sử dụng sao cho đáp ứng được những nhu cầu đó. Ví dụ: muốn có

lương thực cho bản thân và gia đình thì con người phải tự tìm cách trồng trọt, săn bắt, chăn
ni; muốn có quần áo để mặc thì họ phải tìm cách trồng dâu ni tằm, dệt vải.
Giữa các chủ thể sản xuất không phát triển quan hệ trao đổi, mua bán các sản phẩm lao
động. Do đó, cũng khơng tồn tại sự phân cơng lao động và ràng buộc về lợi ích kinh tế giữa
những chủ thể này. Đó là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm lao động tạo ra để thỏa mãn nhu
cầu của người sản xuất. Sản xuất tự cấp tự túc là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế tự nhiên tức là nền kinh tế mà họat động sản xuất của con người bị lệ thuộc và giới hạn bởi các yếu
tố môi trường tự nhiên quanh họ.
3


Trong quá khứ và đến tận ngày hôm nay, ta vẫn thấy đâu đó ý muốn làm sống dậy lý
tưởng xây dựng nền kinh tế có thể tồn tại được hay thậm chí là trở thành siêu cường với
năng lực tự cung tự cấp. Đặc biệt trong bối cảnh đại dịch toàn cầu Covid-19 đã để lại những
hậu quả nghiêm trọng khi nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam, đã phải thực hiện
các đợt đóng cửa, dựng lên những rào cản đối với sự lưu thông của cả con người và hàng
hóa. Đứng trước một thách thức lớn, khi nền kinh tế sản xuất hàng hóa bị đình trệ, hồn
tồn dễ hiểu khi người ta đặt ra nhiều câu hỏi về khả năng tự lập của một nền kinh tế. Tuy
vậy, lý tưởng “tự cường tuyệt đối” không những không thể vượt qua nền kinh tế sản xuất
hàng hóa mà cịn bộc lộ nhiều khó khăn hơn trong thời đại này.
Hãy quay ngược thời gian về năm 2019 để làm một phép so sánh nhỏ. Trong năm 2019,
theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, sản lượng lúa gạo nước ta là khoảng 43,8 triệu tấn,
trong đó xuất khẩu là 6,3 triệu tấn, tức tiêu thụ trong nước là 37,5 triệu tấn (bao gồm cả gạo
dự trữ). Nếu chỉ dừng lại ở đây, thì Việt Nam đủ sức tự cường về lương thực, và chừng nào
cịn gạo thì chừng ấy ta vẫn cịn có thể tiếp tục giãn cách xã hội. Tuy nhiên, để sản xuất ra
lúa gạo với năng suất như vậy, người nông dân cần phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, máy
móc cơ giới hóa nông nghiệp... Hầu hết những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất gạo
ngày nay đều cần nguyên phụ liệu, máy móc, bao bì, hay chất liệu làm bao bì... nhập khẩu.
Chỉ nói riêng về phân bón, giá trị nhập khẩu mặt hàng này tuy giảm dần trong những năm
gần đây, vẫn duy trì ở mức gần 1 tỉ USD vào năm 2019, theo số liệu của Bộ Công thương.
b. Sản xuất hàng hóa

Theo đà phát triển của nhân loại thì sự dư thừa một số sản phẩm nhất định từ quá trình
sản xuất tự cung tự cấp và sự phát sinh những nhu cầu mới của chủ thể sản xuất đã dẫn
chúng ta đến hoạt động trao đổi, mua bán các sản phẩm lao động. Kiểu tổ chức sản xuất
hàng hóa nghĩa là giữa những người sản xuất khơng tồn tại độc lập với nhau mà họ có quan
hệ trao đổi, mua bán trên thị trường. Hoạt động trao đổi, mua bán như vậy diễn ra ngày càng
thường xuyên và phổ biến. Các sản phẩm lao động lúc này đã trở thành hàng hóa. Từ đó nền
kinh tế hàng hóa, hay sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại từ đây, đánh dấu bước ngoặt lớn
trong lịch sử phát triển xã hội lồi người, thúc đẩy xóa bỏ nền kinh tế tự nhiên để đẩy nhanh
sự phát triển của lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội.
4


3. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Theo lý luận của Karl Marx, có hai điều kiện để làm xuất hiện kiểu tổ chức kinh tế sản xuất
hàng hóa.
a. Phân cơng lao động xã hội: là sự phân chia lao động vào các ngành, các lĩnh vực sản
xuất khác nhau của nền sản xuất xã hội. Trước kia, trong nền kinh tế tự nhiên thì người ta
phải làm tất cả các công việc từ trồng trọt, chăn nuôi đến hái lượm, may vá...để đáp ứng
được cùng lúc nhiều nhu cầu cá nhân của chủ thể sản xuất.
Khác với sản xuất tụ cung tự cấp, nền kinh tế sản xuất hàng hóa sẽ phân cơng mỗi
người chỉ chun mơn hóa sản xuất một cơng việc nhất định. Khi chia q trình sản xuất
thành nhiều mảng cơng việc đặc thù khác nhau - tức là tạo điều kiện tối đa cho một người
tiếp cận và thực hiện cơng việc đó với mức thành thục cao thì năng suất lao động tăng lên,
số lượng sản phẩm làm ra nhanh chóng vượt xa so với nhu cầu cá nhân người sản xuất. Sản
phẩm dư thừa khi đó được mang ra trao đổi với nhau. Đây là điều kiện cần để dẫn đến việc
trao đổi hàng hóa. Về vấn đề phân cơng lao động, cũng có thể hiểu theo hướng, khi xã hội
đã phân chia những ngành nghề độc lập với nhau như vậy, thì những người sản xuất này
khơng thể tồn tại biệt lập xa cách nhau. Phân công lao động xã hội sẽ làm cho các chủ thể
sản xuất phụ thuộc vào nhau. Sở dĩ có mối quan hệ phụ thuộc này vì khi ấy chủ thể sản xuất
chỉ thành thạo một cơng việc hay vài cơng việc, từ đó chỉ có thể sản xuất một hay vài loại

hàng hóa. Số lượng hàng hóa đó chỉ giải quyết được một số nhu cầu nhất định, chứ không
thể bao quát được hết nhu cầu của người sản xuất đó. Ta có thể lấy một ví dụ đơn giàn như
sau: một người nơng dân chuyên trồng lúa sẽ có kinh nghiệm tạo ra thóc lúa với trình độ tay
nghề cao. Tuy nhiên, dù người nơng dân ấy có giỏi làm ra nhiều thóc gạo đế đâu, thì gạo
cũng chỉ mới thỏa mãn cho nhu cầu ăn của họ thôi. Cuộc sống của anh ta hẳn cịn vơ vàn
những nhu cầu khác: nhu cầu mặc, uống, vui chơi...Ngay cả trong ăn uống thì cũng khơng
phải chỉ ăn mỗi gạo là có thể sống từ ngày này sang ngày khác. Anh ta cần rau, thịt, cá, trái
cây để thỏa mãn nhu cầu ăn uống hàng ngày. Điều đó có nghĩa là anh ta phải ở với người
chuyên nuôi lợn, nuôi cá, trồng rau để dùng gạo của mình trao đổi, mua bán các loại hàng

5


hóa ấy. Tóm lại, vì nhu cầu cuộc sống cần rất nhiều loại sản phẩm trong khi một người chỉ
tạo ra một hay một số loại sản phẩm, nên chủ thể sản xuất khơng thể tồn tại một mình.

b. Sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất
Phân công lao động xã hội là một điều kiện cần để xuất hiện sản xuất hàng hóa, tuy vậy
có một thực tế là từ xã hội cộng sản ngun thủy đã có sự phân cơng lao động ở mức độ
nhất định nhưng chưa xuất hiện trao đổi sản phẩm. Lịch sử đã cho thấy, trong những thị tộc,
bộ tộc thì việc lao động được chia ra cho các đối tượng khác nhau, như thanh niên mạnh
khỏe sẽ tham gia săn bắt thú rừng, đào hang dựng nhà. Trong khi đó người cao tuổi và phụ
nữ mềm yếu sẽ chịu trách nhiệm trồng trọt, hái lượm, chăm sóc trẻ nhỏ...
Như vậy ở đây đã có sự phân chia lao động xã hội, dù chỉ ở mức độ cơ bản, nhưng ta
không thấy xuất hiện hoạt động trao đổi sản phẩm lao động. Đó là bởi vị trong xã hội cộng
sản nguyên thủy, sản phẩm do sức lao động của một người tạo ra cũng được xem là của cải
chung của tồn bộ cộng đồng. Họ khơng cần phải trao đổi, vì mọi thứ đều thuộc sở hữu
chung. Đây là lúc điều kiện thứ hai của tồn tại sản xuất hàng hóa ra đời.
Sự tách biệt về lợi ích kinh tế làm cho người sản xuất thành chủ thể sản xuất độc lập tức là họ có quyền sở hữu, sử dụng, khai thác đối với sản phẩm do mình làm ra. Người khác
nếu muốn tiêu dùng hàng hóa của họ thì bắt buộc phải thơng qua hoạt động trao đổi mua

bán chứ không thể tùy tiện sử dụng.
Quyền sở hữu của từng chủ thể sản xuất dẫn đến hiện tượng những người sản xuất tồn
tại độc lập với nhau đối diện với nhau trên thị trường. Nếu ta muốn lấy sản phẩm của người
khác thì phải có sản phẩm tương đương để trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Chính điều
kiện thứ hai, kết hợp với điều kiện thứ nhất làm nảy sinh quan hệ trao đổi sản phẩm giữa
người sản xuất này với người sản xuất khác. Từ đó, sản xuất hàng hóa ra đời.

4. Ưu thế và mặt trái của sản xuất hàng hóa
a. Ưu thế của sản xuất hàng hóa:

6


Thực tế đã cho thấy, sản xuất hàng hóa giúp giải phóng sức sản xuất của xã hội, mở
đường cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Trong sản xuất tự cấp tự túc thì mỗi
người đi theo vịng trịn khép kín: tự sản tự tiêu. Chính nhu cầu tiêu dùng của người sản
xuất đã hạn chế việc tái sản xuất, dù nguồn lực còn dồi dào. Do mục đích chính của họ là
sản xuất để phục vụ cho nhu cầu của người trực tiếp làm ra sản phẩm nên họ có xu hướng
chỉ sản xuất đủ ăn đủ dùng, chứ khơng có dư để mang đi trao đổi với người khác.
Khi sản xuất hàng hóa ra đời, các chủ thể lao động đã được cởi sợi dây mang tên “nhu cầu”
để tiếp tục cho hoạt động sản xuất diễn ra một cách tích cực, bởi họ đã biết cần phải làm gì
với số lượng hàng hóa dơi dư.
Sản xuất hàng hóa ra đời cũng thúc đẩy lực lượng sản xuất yên tâm phát triển mà không cần
lo lắng về các yếu tố đầu vào của sản xuất. Trong sản xuất tụ cung tự cấp, nếu một người có
con trâu cái cày thì ngồi làm ruộng ra họ khơng biết phải làm gì. Chính bởi vì tiềm năng
sản xuất của họ bị giới hạn bới các yếu tố đầu vào như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu.
Với sản xuất hàng hóa thì khác, yếu tố đầu của sản xuất vào có thể trao đổi với người khác
hoặc dễ tìm thấy trên thị trường, nên chỉ cần có ý tưởng sản xuất, có sức lao động thì tất cả
nguồn lực khác đều có thể được bổ sung. Giờ đây, nếu trong tay một người chỉ có con trâu
và cái cày, họ vẫn hồn tồn có thể bắt tay vào mở một cửa hàng điện tử, nhờ vào nền kinh

tế sản xuất hàng hóa tạo điều kiện cho anh ta bán trâu, gây vốn để nhập về nguồn hàng mới.
Ngoài ra, sản xuất hàng hóa cịn có các ưu thế khác, như khai thác hiệu quả lợi thế về tự
nhiên, xã hội dựa trên phân công lao động xã hội và chun mơn hóa; hay k inh tế hàng hóa
cịn tạo điều kiện và thúc đẩy việc nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu nghiên cứu
khoa học vào sản xuất, qua đó thúc đẩy sản xuất phát triển; s ản xuất hàng hóa là mơ hình
kinh tế mở, thúc đẩy giao lưu kinh tế, giao lưu văn hóa, tạo điều kiện nâng cao, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của xã hội. Bất kỳ quốc gia nào có nền sản xuất hàng hóa đều mở
cửa kinh tế. Mở của kinh tế cho phép tận dụng được các nguồn lực mà trong nước cịn yếu.
Ví dụ như: Việt Nam mở cửa hội nhập quốc tế và khu vực có thể tận dụng được nguồn lực
về vốn, về cơng nghệ thậm chí học hỏi được các phương thức quản lý tiên tiến từ bên ngoài.
b. Mặt trái của sản xuất hàng hóa
Trong qúa trình phát triển sản xuất hàng hóa, vẫn cịn nhiều hạn chế, ví dụ như vấn đề
phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đời sống
7


vật chất và tinh thần của một bộ phân dân cư, nhất là nông dân ở nông thôn, vùng sâu, vùng
xa chậm được cải thiện, ít được hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Yếu tố vật chất được đề cao, yếu tố tinh thần, đạo đức có lúc, có nơi bị xem nhẹ. Do vậy, đã
xuất hiện những biểu hiện của chủ nghĩa vị kỷ, cá nhân, coi trọng đồng tiền, xem thường
truyền thống đạo lý, tác động xấu tới đời sống xã hội.

5. Ý nghĩa thực tiễn về áp dụng sản xuất hàng hóa đối với Việt Nam
a. Thực trạng nền sản xuất hàng hóa
Từ nền sản xuất hàng hóa giản đơn thời phong kiến tới nền kinh tế hàng hóa
sau này, nền sản xuất hàng hóa của nước ta đã khơng ngừng biến đổi và phát triển.
Thời kì phong kiến, trình độ lao động, năng suất lao động nước ta chưa cao,
chính sách bế quan ở một số triều đại kìm hãm sự lưu thơng hàng hóa. Sở hữu về tư
liệu lao động nằm trong tay một số ít người ở tầng lớp trên. Tóm lại, ở thời kì này,
nền sản xuất hàng hóa ở nước ta mới chỉ xuất hiện, chưa phát triển.Trong thời kì bao cấp

trước đổi mới, nền kinh tế hàng hóa đồng thời là nền kinh tế kế hoạch. Cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp kìm hãm sự phá triển của nền sản xuất hàng hóa. Biến hình thức
tiền lương thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực sản xuất, thủ tiêu cạnh tranh và lưu thông
thị trường. Sự nhận thức sai lầm của nước ta thời kì này đã khiến nền kinh tế suy sụp, sức
sản xuất hàng hóa xuống dốc khơng phanh. Từ năm 1976 đến 1980, thu nhập quốc dân tăng
rất chậm, có năm cịn giảm: Năm 1977 tăng 2,8%, năm 1978 tăng 2,3%, năm 1979 giảm
2%,
năm 1980 giảm 1,4%, bình quân 1977-1980 chỉ tăng 0,4%/năm, thấp xa so với tốc
độ tăng trưởng dân số, thu nhập quốc dân bình quân đầu người bị sụt giảm 14%.
b. Chuyển biến tích cực của nền kinh tế
Từ năm 1986, sau khi Đảng và Nhà nước đã kịp thời chuyển đổi nền kinh tế
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế sản xuất hàng
hóa nước ta đã có bước phát triển mạnh mẽ. Thời kì này chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1986 - 2000: Giai đoạn chuyển tiếp của nền kinh tế Việt Nam
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự
8


quản lý của Nhà nước. Thị trường và nền kinh tế nhiều thành phần được công nhận
và bước đầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam bắt đầu trên cơ sở đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện. Phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, thời kì này nền
kinh tế Việt Nam vẫn cịn nhiều tồn tại chưa giải quyết được. Điều này khiến nền
kinh tế chậm phát triển chiều sâu.
Giai đoạn 2000 - 2007: đây là giai đoạn nền kinh tế hàng hóa ở nước ta
phát triển mạnh mẽ. GDP liên tục tăng mạnh. Tốc độ tăng trưởng năm 2007 là
8,5%, cao nhất kể từ năm 1997 đến nay. Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam phát
triển nền kinh tế hàng hóa dễ dàng hơn khi có cơ hội mở rộng thị trường ra thế giới.
Giai đoạn 2007 - nay: kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại. Tăng trưởng GDP

giảm tốc và tăng bình quân là 6,2% trong khi mức tăng trưởng bình quân của CPI là 11,8%.
Lạm phát kéo dài trong 2 năm 2012 và 2013. Các chính sách đưa ra dường như không đem
lại
hiệu quả mong muốn.
II. Bản chất của hàng hóa
1. Khái niệm hàng hóa
Theo quan điểm của Karl Marx “hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn
nhu cầu nào đó của con người được sản xuất ra để trao đổi, mua bán.”
Hàng hóa có thể tồn tại dưới dạng vật thể hoặc phi vật thể. Từ đó, ta kết luận được để có thể
trở thành cần đáp ứng đủ yếu tố:
- Là sản phẩm của lao động.
- Được tạo ra nhằm mục đích trao đổi, mua bán trên thị trường.
- Đáp ứng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất.
2. Thuộc tính của hàng hóa:

9


“Dù khác nhau về hình thái tồn tại, song mọi hàng hóa đều có hai thuộc tính là giá trị sử
dụng và giá trị.”
a. Giá trị sử dụng:
- Giá trị sử dụng là cơng dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn một số nhu cầu nào đó
của con người. (có thể là nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần, nhu cầu cá nhân, nhu cầu tiêu
dùng cho sản xuất…).
- Giá trị sử dụng hàng hóa có các đặc điểm như sau:
+ Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của hàng hóa đó quy định. Hàng hóa
khơng nhất thiết chỉ có một giá trị sử dụng duy nhất. Khi khoa học kỹ thuật càng phát
triển người ta càng phát hiện ra nhiều thuộc tính mới của hàng hóa và sử dụng chúng
cho nhiều mục đích khác nhau,
+ Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh viễn vì nó tồn tại trong mọi phương thức hoặc mọi

kiểu tổ chức sản xuất.
+ Giá trị sử dụng không dành cho bản thân người sản xuất hàng hóa mà cho người tiêu
dùng hàng hóa (xã hội). Người mua có quyền sở hữu và sử dụng hàng hóa theo mục đích
của họ. Vì vậy , sản phẩm hàng hóa ngày một hồn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu của xã
hội.
b. Giá trị

:

Theo Karl Marx “giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất ra
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.”
Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Karl Marx viết: “Giá trị trao
đổi trước hết biểu hiện ra như là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị
sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác”.
Ví dụ: ta có sự trao đổi 1 con gà = 10 cân táo
Câu hỏi đặt ra là tại sao gà và táo, vốn là hai loại hàng hóa khác nhau, lại trao đổi được
với nhau?
Câu trả lời là nếu gạt giá trị sử dụng của sản phẩm sang một bên, thì giữa gà và táo chỉ
có một cái chung: chúng đều là sản phẩm của lao động. Để nuôi được gà và trồng được táo,
những nguời nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra chúng. Hao phí lao động là
cơ sở chung để so sánh gà với táo, để trao đổi giữa chúng với nhau.
10


Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, (1 con gà = 10 cân táo), vì người ta cho
rằng lao động hao phí ni 1 con gà bằng lao động hao phí để trồng ra 10 cân táo. Lao động
hao phí để sản xuất ra hàng hóa ẩn giấu trong hàng hóa chính là giá trị của hàng hóa. Từ sự
phân tích trên, chúng ta thấy được quan điểm của Karl Marx đã đúng: giá trị là lao động xã
hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Như vậy, chất của giá trị là lao động, vì vậy, sản phẩm nào khơng có lao động của

người sản xuất kết tinh trong đó thì nó khơng có giá trị. Sản phẩm nào lao động hao phí để
sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao. Giá trị hàng hóa là biểu hiện quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa. Giá trị là một phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất
hàng hóa. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi, còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức
biểu hiện của giá trị. Nếu giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, thì giá trị là thuộc tính xã
hội của hàng hóa.

3.

Mối quan hệ giữa giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa:
a. Mặt thống nhất:
Hai thuộc tính này tồn tại đồng thời trong một sản phẩm, hàng hóa. Phải có đủ hai

thuộc tính này sản phẩm, vật phẩm đó mới được gọi là hàng hóa. Nếu thiếu một trong hai
thuộc tính, thì sản phẩm, vật phẩm khơng được coi là hàng hóa.
b. Mặt mâu thuẫn:
Người sản xuất làm ra hàng hóa để bán, mục đích của họ là mặt giá trị - lợi nhuận
chứ không phải là giá trị sử dụng. Trong tay người bán có giá trị sử dụng, tuy nhiên cái mà
họ quan tâm là giá trị hàng hóa. Ngược lại, đối với người mua, họ lại rất cần giá trị sử dụng.
Nhưng để có giá trị sử dụng, trước hết họ cần thực hiện giá trị hàng hóa sau đó mới có thể
chi phối giá trị sử dụng. Vì vậy mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này chính là quá trình thực
hiện giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa là hai q trình khác nhau về thời gian và khơng
gian. Q trình thực hiện giá trị lưu thông trước trên thị trường và giá trị sử dụng xảy ra sau
trong lĩnh vực tiêu dùng, nếu giá trị của hàng hố khơng được thực hiện thì sẽ dẫn đến
khủng hoảng sản xuất, khủng hoảng kinh tế.
Do đó, giá trị sử dụng và giá trị hàng hóa vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
11


4.


Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa:
Hàng hóa có hai thuộc tính là do lao động của người sản xuất hàng hóa có tính hai mặt,

là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
a. Lao động cụ thể:
Là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể có một chun mơn nhất định.
Lao động cụ thể có các đặc trưng như sau:
+ Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định bởi mỗi lao động cụ thể sẽ
có một mục đích riêng, cơng cụ lao động riêng, đối tượng lao động riêng. Chính những cái
riêng đó đã làm cho lao động cụ thể này khác với lao động cụ thể kia.
Ví dụ: Lao động cụ thể của người thợ may cần các nguyên vật liệu là vải vóc, kim
chỉ, máy may... mục đích là để tạo ra những sản phẩm may mặc như quần áo,...
Lao động cụ thể của người thợ xây cần các nguyên vật liệu là gạch, đá, xi măng, sắt,
thép... để tạo ra các cơng trình xây dựng.
Lao động cụ thể của người thợ cơ khí để tạo ra các sản phẩm bằng kim loại.
Lao động cụ thể của người thợ mộc để tạo ra các sản phẩm bằng gỗ...
+ Lao động cụ thể phản ánh trình độ phân cơng lao động xã hội. Trong xã hội, khơng
một ai có thể đảm nhận tồn bộ các cơng việc, người ta chỉ có thể đảm nhiệm một công
việc, một lao động cụ thể nhất định. Bởi vậy cần có sự phân cơng lao động xã hội. Hay nói
cách khác, càng xuất hiện nhiều lao động cụ thể thì phân cơng lao động xã hội càng chi tiết,
sản xuất hàng hóa càng phát triển.
+ Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn. Lao động cụ thể tồn tại độc lập và khơng
phụ thuộc vào bất kỳ hình thái kinh tế xã hội nào.
Ví dụ:
Lao động cụ thể của người thợ làm bánh là tạo ra các loại bánh và chắc chắn nó
khơng thể tạo ra quần áo, sản phẩm kim loại khi ở các hình thái kinh tế xã hội khác.
Thứ tư, lao động cụ thể ngày càng trở nên đa dạng, phong phú và có tính chun mơn hóa
cao.
12



b. Lao động trừu tượng
- Lao động trừu tượng chỉ xét về mặt hao phí lao động nói chung. Bao gồm có hao phí
về cơ bắp, về thần kinh và về sức lực của người sản xuất hàng hóa. Có nghĩa là chúng ta gạt
bỏ đi mọi hình thức cụ thể của sản xuất lao động hàng hóa và chỉ xét ở góc độ hao phí lao
động. Chẳng hạn như, lao động của người thợ may, thợ xây, thợ mộc hay thợ làm bánh ta
không xét đến việc họ sản xuất sản phẩm gì, sản xuất cho ai, với mục đích gì mà chỉ cần
quan tâm đến hao phí lao động trong công việc của họ như thế nào mà thôi.
- Đặc trưng của lao động trừu tượng
+ Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa. Khi xét về mặt lao động trừu
tượng, người ta có thể so sánh giá trị của hàng hóa này với các hàng hóa khác.
Ví dụ: Lao động trừu tượng của người sản xuất tivi sẽ cao hơn lao động trừu tượng
của người ni gà do hao phí lao động xã hội để làm ra một chiếc tivi sẽ cao hơn đối với
việc ni một con gà. Và vì thế, giá cả của chiếc tivi cũng sẽ cao hơn so với giá của một con
gà.
+ Lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa.
Do lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa cho nên khi hai hàng hóa khác nhau trao
đổi với nhau thì cần căn cứ theo nguyên tắc trao đổi ngang giá.
Ví dụ như 1 con gà có thể đổi lấy 5kg gạo do có cùng hao phí lao động như nhau.
Lao động trừu tượng tạo ra giá trị, là cơ sở cho sự ngang bằng trong việc trao đổi. Nếu
khơng có sản xuất hàng hóa, khơng có trao đổi thì khơng cần phải quy các lao động cụ thể
về lao động trừu tượng.
c. Mối quan hệ giữa lao động cụ thể và lao động trừu tượng
- Xét về lao động cụ thể, mỗi người sản xuất hàng hóa sản xuất cái gì, sản xuất cho
ai, sản xuất như thế nào và việc riêng của họ. Vì vậy, lao động cụ thể mang tính chất tư
nhân.

13



- Xét về lao động trừu tượng, khi gạt bỏ các hình thức cụ thể thì lao động của người
sản xuất hàng hóa chỉ được xét là một bộ phận của tồn bộ lao động xã hội nên nó có tính
chất xã hội.
- Phân cơng lao động xã hội sẽ tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản
xuất hàng hóa, họ làm việc cho nhau thơng qua trao đổi hàng hóa. Từ đó, tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa sẽ phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của lao
động của người sản xuất hàng hóa.
- Tính chất tư nhân và tính chất xã hội có tính mâu thuẫn:
+ Sản phẩm của người sản xuất hàng hóa tư nhân tạo ra có thể khơng ăn khớp với
nhu cầu của xã hội.
+ Mức tiêu hao hao phí lao động cá biệt cao hơn mức tiêu hao mà xã hội có thể
chấp nhận được.
+ Hậu quả của việc mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động xã hội là cuộc
khủng hoảng sản xuất thừa. Đây có thể được coi là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền
sản xuất hàng hóa. Chính vì những mâu thuẫn đó mà sản xuất hàng hóa vừa vận động vừa
tiềm ẩn khả năng khủng hoảng.

III. LƯỢNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA & NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG LƯỢNG
GIÁ TRỊ HÀNG HÓA
1.

Lý luận của Marx về lượng giá trị hàng hóa

a. Khái niệm lượng giá trị hàng hóa
Giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng
hóa.
Về mặt giá trị, hai hàng hóa có thể so sánh được với nhau. Khi so sánh hai hàng hóa
với nhau, nghĩa là chúng ta đang so sánh mặt lượng giá trị của hàng hóa, biểu hiện của điều
đó là giá cả.

Về mặt giá trị, bản chất của lượng giá trị hàng hóa bao gồm mặt chất - do lao động
hao phí của người sản xuất tạo ra, mặt lượng - do lượng lao động hao phí để sản xuất hàng
14


hóa đó. Qua nghiên cứu, Marx phát hiện ra rằng lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng
hóa tỉ lệ thuận với thời gian lao động dài hay ngắn để một người lao động sản xuất ra một
đơn vị hàng hóa. Vậy lượng lao động tiêu hao ấy được đo bằng thời gian lao động: giờ,
phút, ngày tháng. Tuy nhiên có nhiều người cùng sản xuất loại hàng hóa như nhau, nhưng
do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề và năng suất lao động khác nhau nên thời gian hao
phí để sản xuất ra hàng hóa đó khác nhau.
Ví dụ: Cùng sản xuất áo, nhưng có người mất 5h để làm ra cái áo, người khác lại mất
6h, nhưng có người chỉ mất 4h do sự khác nhau về trình độ tay nghề, cách thức sản xuất,
dây chuyền máy móc…
Vậy nếu chỉ căn cứ vào thời gian lao động để quy ra giá trị hàng hóa thì không hợp lý:
người lười biếng tay nghề kém làm mất nhiều thời gian hơn.Từ đó, Karl Marx cho rằng,
nhân tố để quy định giá trị hàng hoá là thời gian lao động xã hội cần thiết để đo lường giá trị
của hàng hóa.
b. Thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian hao phí trung bình của tồn xã hội để
tạo ra hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật
trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hồn
cảnh xã hội nhất định. Karl Marx viết: “Chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời
gian lao động xã hội cần thiết để sản ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng
giá trị của giá trị sử dụng ấy.”
c. Thời gian lao động cá biệt là thời gian hao phí của từng người sản xuất, từng chủ thể cá
biệt. Trong thực tế, một loại hàng hóa đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất
ra, nhưng mỗi người sản xuất trong điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là khơng giống
nhau, nên thời gian sản xuất của họ là không giống nhau. Thời gian lao động cá biệt
quyết định lượng giá trị cá biệt của hàng hóa mà từng người sản xuất ra.
Thường thì thời gian lao động xã hội cần thiết bằng với thời gian lao động cá biệt của người

cung cấp đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
d. Bài tập cách tính thời gian lao động xã hội cần thiết:
Có 4 nhóm người sản xuất cùng làm ra một loại mũ thời trang.
Nhóm I hao phí sản xuất cho 1 đon vị mũ là 3 giờ và làm được 100 đơn vị sản phẩm
15


Nhóm II là 5 giờ và 600 đơn vị sản phẩm
Nhóm III là 6 giờ và 200 đơn vị sản phẩm
Nhóm IV là 7 giờ và 100 đơn vị sản phẩm .
Hãy tính thời gian lao động xã hội cần thiết để làm ra một đơn vị hàng hóa.
Ta

thấy

rằng:

Theo khái niệm trên, thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản
xuất ra 1 đơn vị hang hóa trong điều kiện sản xuất trung bình. Thời gian lao động xã hội
cần

thiết

được

xác

định

bằng


công

thức:

T/g lao động xã hội cần thiết = Tổng thời gian lao động cá biệt / tổng sản phẩm
Do đó, thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất mũ ở trường hợp này là: 5.2 giờ

Việc xác định thời gian lao động xã hội cần thiết có ý nghĩa rất quan trọng, tích cực đổi mới,
sáng tạo nhằm giàm thời gian hao phí lao động cá biệt xuống thấp hơn mức hao phí trung
bình cần thiết. Từ đó mới có ưu thế trong cạnh tranh.

2.

Cấu thành nên lượng giá trị hàng hóa
Bất kỳ q trình sản xuất đều có các yếu tố cơ bàn: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị

nhà xưởng, hao phí sức lao động.
Dưới góc độ kinh tế chính trị, Marx xác định cấu thành gồm hai phần giá trị cũ
(những sản phẩm đã có hao phí lao động q khứ ở đó, trong q trình sản xuất nó sẽ
chuyển dần giá trị đó sang sản phẩm) và mới (lao động sống của người sản xuất tạo ra). Là
cơ sở để nghiên cứu tiếp nguồn gốc bản chất của giá trị thặng dư.
Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất có vai trị bảo tồn và di
chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm
(ký hiệu là c), còn lao động trừu tượng (biểu hiện ở sự hao phí lao động trong quá trình sản
xuất ra sản phẩm) có vai trị làm tăng thêm giá trị trong sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới
trong sản phẩm (ký hiệu là v + m). Vì vậy, cấu thành lượng giá trị hàng hóa bao gồm hai bộ
phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị mới.
16



3.

Những nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa
Lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất

ra hàng hóa. Vậy yếu tố nào ảnh hưởng đến lượng thời gian thì nó sẽ ảnh hưởng đến lượng
giá trị hàng hóa. Có những nhân tố chủ yếu sau:
a. Năng suất lao động: là năng lực sản xuất của người lao động, tính bằng số lượng sản
phẩm sản xuất ra trong 1 đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra 1
đơn vị sản phẩm. Nếu tăng năng suất lao động thì lượng giá trị hàng hóa sẽ như thế nào?
Nếu tăng, nghĩa là trong thời gian không đổi mà sản xuất được nhiều hơn = thời gian hao
phí lao động cho một sản phẩm ít đi, suy ra giá trị 1 đơn vị hàng hóa giảm. Do quy trình sản
xuất được cải thiện, máy móc hiện đại, năng suất lao động được cải thiện. Giá trị của hàng
hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như:
+ Trình độ khéo léo (thành thạo) trung bình của người cơng nhân.
+ Mức độ phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.
+ Mức độ ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất.
+ Trình độ tổ chức quản lý.
+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.
+ Các điều kiện tự nhiên.
Muốn tăng năng suất lao động phải hồn thiện các yếu tố trên.
Ví dụ:
+ Năng suất lao động bình thường: 1h sản xuất được 2 sản phẩm, nghĩa là tổng sản
phẩm tạo ra trong 1h là 2 sản phẩm và tổng giá trị của 2 sản phẩm là 1h. Như vậy ta có giá
trị của một đơn vị sản phẩm là 0,5h.
+ Năng suất lao động tăng gấp đôi: 1h sản xuất được 4 sản phẩm, nghĩa là tổng sản
phẩm tạo ra trong 1h là 4 sản phẩm và tổng giá trị của 4 sản phẩm là 1h. Như vậy ta có giá
trị của một đơn vị sản phẩm là 0,25h.

Như vậy, năng suất lao động tăng thì tổng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian
tăng trong khi đó tổng giá trị của hàng hóa là khơng thay đổi nên giá trị của một đơn
vị hàng hóa là giảm.
17


b. Cường độ lao động là đại lượng chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời
gian, nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Cường
độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời
gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên.
Nếu cường độ lao động tăng lên thì số lượng (hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra
tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị
hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời gian
lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm khơng đổi.
Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau là đều dẫn đến lượng sản
phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên. Nhưng chúng khác nhau là tăng năng
suất lao động làm cho lượng sản phẩm (hàng hóa) sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
tăng lên, nhưng làm cho giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống.
Tăng năng suất lao động có thể phụ thuộc nhiều vào máy móc, kỹ thuật, do đó, nó gần như
là một yếu tố có “sức sản xuất” vơ hạn, cịn tăng cường độ lao động, làm cho lượng sản xuất
ra tăng lên trong một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa khơng đổi.
Tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do
đó, nó là yếu tố của ‘sức sản xuất” có giới hạn nhất định. Chính vì vậy, tăng năng suất lao
động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.
Ví dụ:
+ Cường độ lao động bình thường: 1h hao phí 3000 calo sản xuất được 2 sản phẩm,
nghĩa là tổng sản phẩm tạo ra trong 1h là 2 sản phẩm và tổng giá trị của 2 sản phẩm là 3000
calo. Như vậy ta có giá trị của một đơn vị sản phẩm là 1500calo.
+ Cường độ lao động tăng gấp đôi: 1h hao phí hết 6000 calo sản xuất được 4 sản
phẩm, nghĩa là tổng sản phẩm tạo ra trong 1h là 4 sản phẩm và tổng giá trị của 4 sản phẩm

là 6000 calo. Như vậy ta có giá trị của một đơn vị sản phẩm là 1500 calo.
c. Tính chất của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo
tính chất của lao động, có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức
tạp.
18


+ Lao động giản đơn là lao động mà một người lao động bình thường khơng cần phải
trải qua đào tạo cũng có thể làm được.
+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể làm
được.
Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.
“Lao động phức tạp thực chất là lao động giản đơn được nhân lên.” Trong quá trình trao
đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy về lao động đơn giản trung bình, và điều
đó được quy đổi một cách tự phát sau lưng những hoạt động sản xuất hàng hóa, hình thành
những hệ số nhất định thể hiện trên thị trường.
Ví dụ: Trong một giờ lao động, người thợ sửa chữa xe máy tạo ra nhiều giá trị hơn
người rửa bát.
Bởi vì lao động của người rửa bát là lao động đơn giản, có nghĩa là bất kỳ một người
bình thường nào khơng cần trải qua đào tạo, không cần sự phát triển đặc biệt nào cũng có
thê làm được.
Cịn lao động của người thợ sửa chữa xe máy là lao động phức tạp đòi hỏi phải có sự
đào tạo, học hỏi và phải có thời gian huấn luyện tay nghề.
Vì vậy, trong cùng một thời gian lao động như nhau thì lao động phức tạp tạo ra được
nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức tạp là lao động
giản đơn được nhân lên.

4.

Ý nghĩa của việc nghiên cứu giá trị hàng hóa

Việc nghiên cứu lượng giá trị hàng hóa là thật sự cần thiết. Thứ nhất là để xác định

được giá cả của hàng hóa làm ra. Thứ hai là để tìm được những nhân tố tác động đến nó, từ
đó có thể tìm ra cách giảm giá sản xuất bằng cách tăng năng suất lao động, đầu tư khoa học
công nghệ hiện đại...mà vẫn giữ nguyên được hoặc làm tăng thêm giá trị để tiến tới cạnh
tranh trên thị trường. Đây chính là điều mà các nhà làm kinh tế luôn hướng tới để đạt được
lợi nhuận cao.

19


IV. Ý NGHĨA THỰC TIỄN VIỆC ÁP DỤNG GIÁ TRỊ HÀNG HÓA VÀO SẢN
XUẤT Ở VIỆT NAM NHẰM NÂNG CAO SỨC MẠNH CẠNH TRANH

Thực tiễn sản xuất hàng hóa ở Việt Nam

1.

Nền sản xuất hàng hóa ở Việt Nam có nhiều ưu điểm để nâng cao giá trị của hàng
hóa. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn khơng ít những hạn chế làm cho sức cạnh tranh của hàng
Việt Nam còn chưa cao ở thị trường trong nước và quốc tế.
Ưu điểm


Ưu thế của nền sản xuất hàng hóa của nước ta đó là có nguồn lao động dồi dào, giá

rẻ. Năm 2005, dân số hoạt động kinh tế ở nước ta là 42,53 triệu người, chiếm 51,2% tổng
dân số (1). Với mức tăng nguồn lao động hiện nay, mỗi năm nước ta có thêm hơn 1 triệu lao
động. Người lao động nước ta cần cù, sáng tạo, có kinh nghiệm sản xuất phong phú gắn liền
với truyền thống dân tộc được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Giá nhân cơng của nước ta lại rẻ,

đây chính là điều kiện thuận lợi làm cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam rẻ
hơn so với các nước khác.


Nguyên vật liệu ở nước ta rẻ, lại rất dồi dào, (nhất là nguyên liệu cho các ngành sản

xuất thực phẩm, vật liệu xây dựng…) như vậy, nếu biết tận dụng sẽ tiết kiệm được chi phí
mua nguyên liệu. Giảm chi phí sản suất sẽ làm giảm giá cả của hàng hóa, sẽ làm cho hàng
hóa tăng thêm sức cạnh tranh về giá.
Nhược điểm


Nguồn nhân lực của nước ta tuy dồi dào nhưng chất lượng thấp, chủ yếu là lao động

thủ công, tác phong cơng nghiệp cịn hạn chế. Năm 2005, lao động đã qua đào tạo của nước
ta chỉ đạt 25%

(2)

, quá thấp so với yêu cầu của một nước đang tiến hành cơng nghiệp hố -

hiện đại hố. Phần lớn các doanh nghiệp đều phải tự đào tạo nghề cho công nhân. Công
nhân không lành nghề dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp, năng suất lao động không cao, sản
phẩm làm ra sẽ không nhiều trong cùng một đơn vị thời gian.


Tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị còn chậm, chưa đồng đều và chưa theo

một định hướng phát triển rõ rệt. Phần lớn các doanh nghiệp của nước ta đang sử dụng công
20



nghệ tụt hậu so với các nước trên thế giới từ 2-3 thế hệ. 80-90% công nghệ nước ta đang sử
dụng là cơng nghệ nhập khẩu, 76% máy móc (3) dây chuyền công nghệ nhập khẩu thuộc thập
niên 50-60, 50% là đồ tân trang… Sự lạc hậu về công nghệ và kĩ thuật sẽ tạo ra chất lượng
sản phẩm thấp, khơng ổn định. Điều này sẽ gây cho hàng hố của chúng ta rất nhiều hạn chế
trong cạnh tranh về giá.


Sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam có đặc điểm là hàm lượng tri thức và và

công nghệ trong sản phẩm khơng cao, điều đó làm giảm đi chất lượng của sản phẩm.


Chủ yếu các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất.

Ngay cả các sản phẩm là thế mạnh của nước ta vẫn thì vẫn phải nhập nguyên liệu như dệt
may, da giày, thực phẩm… Nhiều sản phẩm có giá thành khơng ổn định cũng là do phụ
thuộc vào tính chất bấp bênh của nguồn nguyên liệu.
Từ những hạn chế trên cần phải có một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và thế giới, nhất là trong thời kì hội
nhập như hiện nay.
Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay
Nâng cao năng lực cạnh tranh về giá của sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp phải tìm cách
để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong khi đó giá thành phải hạ. Để làm được điều này, các
doanh nghiệp cần có những biện pháp để tăng năng suất lao động (năng suất lao động tăng
làm cho sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian nhiều hơn, giá cả hàng hố từ đó sẽ
giảm xuống) và tăng mức độ phức tạp của lao động (lao động phức tạp tao ra nhiều sản
phẩm chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng). Ngồi ra cịn có nhiều biện pháp

khác có thể nâng cao năng lực cạnh tranh về giá cho sản phẩm.
▪ Ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình sản xuất. Bản thân các doanh nghiệp
vừa phải nỗ lực cải tiến, hồn thiện cơng nghệ hiện có, vừa phải tranh thủ tiếp thu cơng
nghệ tiên tiến của nước ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng, giảm chi phí sản xuất.
Đổi mới cơng nghệ phải căn cứ vào chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp và xu thế phát
triển của công nghệ thế giới để lựa chọn cơng nghệ thích hợp, sản xuất đáp ứng nhu cầu thị
21


trường trên cơ sở tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới đồng bộ dứt điểm từng
dây chuyền công nghệ những sản phẩm quan trọng, tránh đầu tư lan man. Dây chuyền máy
móc hiện đại sẽ làm ra nhiều sản phẩm hơn, đồng đều hơn, giảm bớt sức lao động chân tay
trong mỗi sản phẩm. Như vậy giá thành cũng có thể hạ.
▪ Đầu tư đổi mới cơng nghệ phải đi đơi với q trình tiếp thu công nghệ mới và đồng bộ,
tiến hành tổ chức lại quản lý. Chuẩn bị đội ngũ cán bộ kĩ thuật và đào tạo cơng nhân để có
khả

năng

vận

hành,

sử

dụng

cơng

nghệ


hiệu

quả

nhất.

Để đầu tư đổi mới cơng nghệ, nhà nước cần có cơ chế và chính sách khuyến khích nghiên
cứu, sản xuất, ứng dụng cơng nghệ mới, tiến bộ như: hỗ trợ kinh phí cho các chương trình,
đề tài nghiên cứu sản xuất ra máy móc thiết bị trong nước, lập quỹ dự trữ đầu tư phát triển,
đổi mới công nghệ, giảm thuế một số năm đối với những doanh nghiệp đầu tư đổi mới công
nghệ và áp dụng công nghệ mới trong sản xuất.
▪ Tận dụng hiệu quả các yếu tố về tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên để tăng năng
suất doanh nghiệp như sử dụng hợp lí các nguồn nguyên liệu sẵn có, giá rẻ ở trong nước để
đưa vào chế biến, đặt nhà máy ở nơi có vị trí địa lí thuận lợi (như gần nguồn nguyên liệu,
gần trục giao thông, gần nơi tiêu thụ…) để giảm đến mức thấp nhất chi phí sản xuất mà vẫn
đảm bảo năng suất. Chi phí sản suất giảm đồng nghĩa với việc giá thành sản phẩm cũng
giảm theo.
▪ Mở rộng quy mô sản xuất và tăng hiệu suất của tư liệu sản xuất.
ta là một trong những giải pháp cần thiết vì lao động nước ta chủ yếu là lao động thủ
công, tay nghề chưa cao. Người lao động Việt Nam cần cù, chăm chỉ, tiếp thu nhanh tiến
bộ khoa học - kĩ thuật tuy nhiên lại chưa dược đào tạo đúng mức. Nâng cao chất lượng
nguồn lao động đồng nghĩa với việc mở các trường dạy nghề, tập huấn kỹ thuật, cho
người lao động tiếp cận với những tiến bộ của khoa học cơng nghệ… Trong nền sản
xuất hàng hố hiện nay, sự phân công lao động xã hội đã tạo nên sự chun mơn hố lao
động, dẫn tới sự chun mơn hố sản xuất. Vì vậy mỗi cơng nhân phải thành thạo một
ngành nghề của mình để tạo ra một sản phẩm có chất lượng.

22



▪ Ngồi bồi dưỡng kiến thức chun mơn kĩ năng, tay nghề cịn phải nâng cao trình độ
tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất khoa học cho người lao động. Cần thơng qua các chương
trình đào tạo cụ thể để phù hợp với từng đối tượng, từng ngành nghề. Ngồi ra cịn có thể
phổ biến cho cơng nhân các kiến thức liên quan đến chất lượng sản phẩm, giá cả thị trường
và kiến thức về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ
lao động của nước ta nhằm tạo ta một lực lượng lao động có đủ khả năng tiếp thu, thích ứng
với mơi trường kinh doanh hiện nay.
Như vậy, khi trình độ của người lao động tăng cao cũng có nghĩa lao động phức tạp
kết tinh trong hàng hoá tăng lên, làm cho sản phẩm làm ra ngày càng có chất lượng, mẫu mã
phù hợp, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Đây là một trong những điều kiện để tăng
năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước và trên thế giới.

23


THAM KHẢO
1.
Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác – Lê nin (tái bản), Hội đồng Trung
ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ mơn khoa học Mác – Lê
nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
năm 2005
2.
Kinh tế
Chính trị Mác – Lênin (in lần thứ 2 có sửa chữa, bổ sung), Vũ
Anh Tuấn, Phạm Quang Phân, Tô Đức Hạnh, Nhà xuất bản Tổng hợp, thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2007
3.
100 câu hỏi và bài tập kinh tế chính trị Mác – Lênin (tái bản lần thứ 5),
An Như Hải, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2008

4.

Chính trị

, Bộ Giáo dục và Đào tạo – Chủ biên: Lê Thế Lạng, Nhà xuất

bản
5. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, năm 2004 (tái bản có bổ sung, sửa
chữa)

24



×