Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

THCK6NGUYENLEKHANHLINHKTGHP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.08 KB, 6 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC- MẦM NON

HỌ VÀ TÊN:
LỚP:

Năm học 2018-2019
I.Yêu cầu 1:


Thời gian vừa qua, em đã có một đợi kiến tập dưới sự hướng dẫn của cô
Đinh Thị Minh Hà chủ nhiệm lớp 3/2 trường Tiểu học Quang Vinh.
Trong 4 tuần kiến tập, tuy không phải là một thời gian dài, nhưng cũng
giúp em một phần nào nắm được các phương pháp giảng dạy ở trường
và học hỏi được một số kinh nghiệm trong những tiết dạy mẫu của cô
hướng dẫn cũng như dự giờ một số tiết của giáo viên khác trong trường.
Những điều đó giúp ích rất nhiều trong cơng tác giảng dạy của em sau
này.
Qua đó em nhận thấy thầy cô đều dã vận dụng tốt 3 nguyên tắc dạy học
Tiếng Việt ở tiểu học
1. Nguyên tắc phát triển tư duy
- Trong mọi giờ học của GVHD em thì cơ đã chú ý rèn các thao tác tư
duy cho học sinh qua các câu hỏi cô đưa ra học sinh phải suy nghĩ,
phân tích, so sánh, khái quát, tổng hợp…. thì các em mới trả lời được.
Đồng thời cô cũng cũng chú ý rèn luyện cho các học sinh phẩm chất tư
duy nhanh, chính xác và tích cực.
- Giáo viên đã giải đáp được cho học sinh hiểu được những từ ngữ, kí
hiệu,….mà các em học sinh thắc mắc.
- Giáo viên đã để cho học sinh tự làm việc cá nhân trước sau đó thảo
luận ,làm việc theo nhóm để giải quyết các yêu cầu của GV. Tạo cho tất
cả các em đều được hoạt động tránh tình trạng HS thụ động trong giờ


học.  Bảo đảm được tiêu chí của một lớp học tích cực
- Giáo viên phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong giờ học
bằng các hoạt động tìm ngữ liệu, quan sát, phân tích, khái quát tổng hợp
rút ra các định nghĩa về khái niệm và quy tắc.
- Giáo viên thường xuyên luyện tập cho học sinh khả năng diễn đạt tư
tưởng của mình bằng nhiều hình thức ngơn ngữ khác nhau. Lời nói cần
có nội dung, bảo đảm mối liên hệ giữa lời nói và tư duy trong dạy học
tiếng việt có thể đi từ tư duy đến ngơn ngữ hoặc ngược lại (giải nghĩa từ
là đi từ ngôn ngữ đến tư duy; viết câu, dựng đoạn là đi từ tư duy đến
ngôn ngữ).
- Giáo viên đã hướng dẫn và giúp đỡ cho các học sinh nắm được nội
dung các vấn đề cần nói và viết trong mơi trường giao tiếp cụ thể và
biết thể hiện nội dung này bằng các phương tiện ngôn ngữ.


2. Nguyên tắc giao tiếp ( nguyên tắc phát triển lời nói)
Em thấy GVHD đã hướng vào hoạt động giao tiếp là nguyên tắc đặc
trưng của việc dạy học Tiếng Việt.
- Giáo viên đã kết hợp chặt chẽ giữa việc lĩnh hội kiến thức lí thuyết
ngơn ngữ với việc luyện tập thực hành giao tiếp.
- Giáo viên chỉnh sửa ngay trong lúc dạy cho học sinh những lỗi phát
âm sai hoặc cách dùng từ ngữ chưa chính xác.
- Cấu tạo tình huống học tập gần gũi với tình huống giao tiếp thật trong
đời sống. Những tình huống như vậy trong giờ học sẽ giúp học sinh tiếp
thu bài nhẹ nhàng, thoải mái, giúp các em có thể sử dụng ngay cách nói,
cách viết trong giờ học vào thực tế.
- Giáo viên ln tạo mọi tình huống và lợi dụng mọi tình huống để
giảng dạy (vui vẻ, bực bội, trang nghiêm, tếu táo…người trẻ, người
già,nơng dân, trí thức…)
- Giáo viên xem xét từ hoạt động trong câu dài ngắn như thế nào để

chia sao cho phù hợp với học sinh , câu ở trong đoạn trong bài để phù
hợp với các em.
- Giáo viên đã linh động khi gọi nhiều HS phát biểu chứ không chỉ gọi
một vài em
- Giáo viên đã tổ chức hoạt động nói năng cho HS trong tiết dạy Tiếng
Việt, nghĩa là giáo viên đã sử dụng giao tiếp cho học sinh nói với nhau,
thi đua đọc bài hay trao đổi ý kiến với nhau như một phương pháp dạy
học chủ đạo ở tiểu học.
- Tất cả những nội dung do học sinh tạo ra( phát ngôn, văn bản, lời nói,
…) cần được giáo viên và các học sinh tôn trọng, lắng nghe. Khi học
sinh hỏi, giáo viên có nhiệm vụ trả lời.
3. Nguyên tắc chú ý tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh
Vốn Tiếng Việt của học sinh được hình thành từ rất nhiều nguồn, gắn
liền với môi trường sống và giao tiếp của các em. Cũng chính vì vậy, nó
vừa không đồng đều ở mọi đối tượng học sinh lại vừa phức tạp ngay
trong tự thân, khơng chỉ có những yếu tố tích cực mà cịn có cả những
yếu tố tiêu cực, khơng chỉ có những yếu tố được hình thành, được sử
dụng một cách có ý thức mà cịn có cả những yếu tố được hình thành,
được sử dụng một cách vô thức...


- Giáo viên phải điều tra, phân loại, nắm vững được đặc điểm vốn Tiếng
Việt của các em để trên cơ sở đó đề ra được những biện pháp thích hợp
nhằm ý thức hóa, tích cực hóa, bổ sung, hoàn thiện vốn kinh nghiệm
tiếng Việt đó.
- Giáo viên nắm vững khả năng trình độ, vốn kinh nghiệm ngơn ngữ
của học sinh ở từng loại đối tượng để có sự điều chỉnh nội dung,
phương pháp cho thích hợp.
- Hệ thống hóa vốn kinh nghiệm tiếng Việt của từng đối tượng học sinh
để có thể phát huy những kinh nghiệm tích cực, hạn chế và loại bó dần

những kinh nghiệm tiêu cực thông qua những uốn nắn kịp thời
- Giáo viên đã tạo điều kiện cho học sinh hình thành lời nói hoàn chỉnh
của mình trong các cuộc hội thoại giữa các em hay giữa giáo viên với
học sinh, hay trong các hình thức học khác nhau như cá nhân, lớp,
nhóm....

*Các tiêu chí của một tiết dạy tích cực:
Em nhận thấy đa số các tiết dạy của GVHD đã đáp ứng được tiêu chí
của 1tiết dạy tích cực.
- Ở phân mơn tập đọc:
+GV cho HS luyện đọc câu, luyện đọc đoạn, đọc theo nhóm với nhiều
hình thức khác nhau như đọc cá nhân, nhóm đơi, nhóm ba,…
+HS tự giúp nhau sửa những từ bạn mình đọc chưa đúng.
+GV cho HS tự giải nghĩa từ mới cho các bạn cùng hiểu, từ nào khơng
có HS biết thì GV sẽ giải nghĩa.
+GV cho HS vận dụng các từ mới để đặt câu
- Ở phân mơn chính tả:
+GV cho HS đọc bài trước nhiều lần để các em tự phát hiện từ khó, từ
mình hay viết sai, những chữ viết hoa trong bài. GV giải nghĩa các từ
mới. Sau đó cho HS viết các từ đó vào bảng con để các em nhớ từ. Hạn
chế việc HS viết sai.
- Ở phân môn luyện từ và câu:
+ ( Bài MRVT: Từ địa phương. Dấu chấm than. Dấu chấm hỏi.)
Sau khi cho HS làm bài tập trong SGK, GV cho HS kể thêm các từ mà
em biết ở miền Bắc, miền Nam và miền Trung. HS tích cực hưởng ứng
tạo bầu khơng khí sơi động cho lớp học hơn là chỉ làm bài tập trong
SGK


- Ở phân môn tập làm văn:

+( Bài: Tập viết thư và phong bì thư)Sau khi hướng dẫn HS hoàn thành
một lá thư GV cho HS địa chỉ nhà mình để HS tập gửi thư và biết qui
trình gửi thư.
+( Bài: Nói về quê hương và Nói, viết về cảnh đẹp đất nước) GV cho
HS chuẩn bị trước ở nhà tranh ảnh về cảnh đẹp đất nước và các tìm
thêm các thơng tin về q hương mình.

II. u cầu 2:
- Tuy nhiên trong quá trình tiếp cận thực tế với các tiết dạy học Tiếng
Việt ở trường tiểu học bản thân em còn gặp phải một số băn khoăn
như:
+ Ở phân môn tập viết, GV chỉ yêu cầu học sinh lấy vở tập viết ra viết
bài, chứ không hướng dẫn HS nên viết như thế nào cho đúng, không
kiểm tra tiến độ viết, chữ viết của HS thường xuyên. Điều này dẫn đến
việc có nhiều em khơng viết bài hoặc chưa viết xong nên bỏ trống rất
nhiều bài.
 GV cần hướng dẫn học sinh kĩ hơn trong mỗi bài tập viết, đốc thúc
việc viết bài của học sinh, kiểm tra vở và cho nhận xét thường xuyên để
tránh tình trạng bỏ bài, chữ học sinh lệch chuẩn.
+ Ở phần bài tập của phân mơn chính tả, đa số GV chỉ hướng dẫn cho
HS giải bài tập bằng cách nêu miệng hoặc làm vào vở.
 GV nên kết hợp tổ chức trị chơi (Ví dụ như: trị đố nhau với các bài
giải câu đố, trị bắn tên với các bài tìm từ chứa tiếng hoặc vần,…)để tạo
sự hứng thú cho HS và thay đổi khơng khí lớp học.
+ Ở phân mơn chính tả nghe viết nhiều lúc khơng kịp thời gian GV cho
học sinh mở sách ra chép cho nhanh. Và những học sinh yếu trong lớp
do không theo kịp các bạn nên GV cho mở sách chép. Theo em như vậy
những học sinh yếu sẽ càng yếu.
 Trong trường hợp này GV nên liên hệ với gia đình để phối hợp với
gia đình kèm cặp HS, để các em có thể theo kịp bạn bè. Ngoài ra, trước

khi nghe viết GV nên cho các em đọc thật nhiều lần bài viết. Trong quá
trình đọc GV nên đọc chậm hơn và bao quát lớp hơn.
-Trên đây là một số băn khoăn mà em rút ra được trong quá trình kiến
tập tại trường. Em cũng đã thử đưa ra một số cách lí giải cũng như


hướng giải quyết kính mong thầy xem xét và cho em chút ý kiến. Em
xin cảm ơn.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×