Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận môn báo chí và dư luận xã hội, báo chí và cách ứng xử với dư luận xã hội trên truyền thông xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.43 KB, 23 trang )

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

Thế giới có 7 tỷ người, và hơn 1 tỷ người là cư dân tại đất nước mang
tên Facebook.
Ngày 26/9/2017, nghĩa là một ngày trước khi quyển tiểu luận này được
hồn thành, trên mạng xã hội xơn xao vụ việc phụ huynh gửi tâm thư trên
mạng xã hội cho cô hiệu trưởng của một trường danh giá THPT Lương Thế
Vinh (Hà Nội). Ngay hôm sau, tất cả báo chí đều đã có bài đánh giá và kiểm
định sự việc
Vụ việc ông Trịnh Xuân Thanh tham nhũng bị phát giác bắt nguồn từ
hình ảnh của một chiếc xe Lexus biển số đỏ lan truyền truyên mạng xã hội.
Những câu chuyện ngắn trên có khiến chúng ta suy nghĩ điều gì về nhà
báo – dư luận xã hội – mạng xã hội? Khơng ai có thể phủ định rằng mạng xã
hội đã tham gia vào mạng lưới truyền thông hiện đại một cách sâu sát và trở
thành một đại diện xuất chúng của những phương tiện truyền thông xã hội.
Không chỉ riêng công chúng, nhà báo cũng quan tâm và sử dụng mạng xã hội
một cách thường xuyên hơn trong công việc. Vấn đề đặt ra trong tiểu luận này
là trong thời đại thơng tin lan truyền nhanh chóng trên mạng xã hội, nhà báo
ứng xử như thế nào với những luồng dư luận xã hội từ công chúng trên truyền
thơng xã hội.
Nhà báo có nên tham gia mạng xã hội? Nhà báo tham gia với tư
cách gì?
Nhà báo có trách nhiệm gì khi đăng tải thơng tin lên mạng xã hội?
Nhà báo sử dụng tính năng ưu việt của dư luận trên mạng xã hội như
thế nào?
Đây là một chủ đề có giá trị với xã hội ngày nay và xứng đáng của
nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tiểu luận này hy vọng đóng góp một phần ý
kiến vào những cơng trình nghiên cứu lớn về “Báo chí và cách ứng xử với dư


luận xã hội trên truyền thông xã hội”
2


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÁCH ỨNG XỬ CỦA NHÀ BÁO VÀ
DƯ LUẬN XÃ HỘI TRÊN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
1. Các khái niệm cơ bản
1.1 Dư luận xã hội:
Donal Trump trúng cử chức Tổng thống Mỹ làm dư luận xã hội xôn xao
Hà Nội quyết định chặt 3000 cây xanh khiến dư luận xã hội dậy sóng
Dư luận xã hội phẫn nộ trước vụ bảo mẫu bạo hành trẻ em tại trường
mầm non
Nữ sinh 15 tuổi tự tử vì không chịu nổi sức ép từ dư luận xã hội
Dư luận xã hội là hiện tượng gì, mà hết xơn xao lại phẫn nộ, vừa biết dậy
sóng lại vừa có sức mạnh khiến con người ta thay đổi suy nghĩ và hành động.
Về mặt thuật ngữ: “Dư luận xã hội”, được ghép bởi 2 từ: Opinion (ý kiến) và
Public (cộng đồng) được hiểu là 1 hiện tượng xã hội đặc biệt biểu thị thái độ
đánh giá, phán xét nhận xét của 1 số đông người về những vấn đề mang tính
thời sự có liên quan đến họ (xã hội) và họ dành cho nó 1 sự quan tâm nhất định.
Hiện nay, dư luận xã hội được định nghĩa ở nhiều phương diện.
Phần đông các nhà nghiên cứu dư luận xã hội Liên Xô (cũ) định nghĩa
dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng
xã hội đối với các vấn đề mà họ quan tâm. Ví dụ, theo B. K. Paderin: “Dư
luận xã hội là tổng thể các ý kiến, trong đó chủ yếu là các ý kiến thể hiện sự
phán xét đánh giá, sự nhận định (bằng lời hoặc không bằng lời), phản ánh ý
nghĩa của các thực tế, quá trình, hiện tượng, sự kiện đối với các tập thể, giai
cấp, xã hội nói chung và thái độ cơng khai hoặc che đậy của các nhóm xã hội
lớn nhỏ đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội có động chạm đến các lợi
ích chung của họ”.

Nhiều nhà nghiên cứu Mỹ cũng nêu ra định nghĩa tương tự. Ví dụ
“Cơng luận là sự phán xét đánh giá của các cộng đồng xã hội đối với các vấn

3


đề có tầm quan trọng, được hình thành sau khi có sự tranh luận cơng khai”
(Young, 1923). Nhà nghiên cứu Mỹ khác lại định nghĩa: “Công luận là kết
quả tổng hợp các ý kiến trả lời của mọi người đối với các câu hỏi nhất định,
dưới điều kiện của cuộc phỏng vấn” (Warner, 1939). Có những định nghĩa rất
đơn giản, nhưng rất phổ biến trong giới nghiên cứu Mỹ: “Công luận là các
tập hợp ý kiến cá nhân ở bất kỳ nơi đâu mà chúng ta có thể tìm được”
(Childs, 1956).
Hầu hết những thành viên xã hội đều tham gia vào đóng góp dư luận
xã hội, vì vậy ai cũng có thể định cho nó một cái nghĩa theo ý hiểu của
mình. Tựu chung lại, dư luận xã hội trong bất kỳ định nào cũng mang
những điểm chung:



Là tổng hợp ý kiến chung của nhiều người
Thể hiện quan điểm, thái độ, cảm xúc, nhận định của nhóm xã hội với vấn đề
Xuất phát từ các sự kiện có liên quan hoặc xảy ra gần với chủ thể dư luận xã




hội
Hình thành sau quá trình đọc – hiểu – tranh luận – thống nhất
Dư luận xã hội bùng nổ có căn cứ, khơng phải là những lời đồn thổi





Nghiên cứu về dư luận xã hội đóng vai trị quan trọng đối với nhà báo
khi hoạt động báo chí. Vì nhiệm vụ của báo chí là ứng xử với dư luận xã luận.
Muốn ứng xử với ai, điều gì một cách chuẩn mực, người ta đều phải dành thời
gian tìm hiểu những đặc điểm của đối tượng đó.
1.2 Truyền thơng
Truyền thơng hiểu theo cách chiết tự là truyền đi thông tin. Truyền thơng
nói chung bao hàm rất rộng, nhưng mà cơ bản nó vẫn là sự trao đổi thơng tin
giữa con người với nhau bằng nhiều cách. Truyền thông là dùng nhiều cách
biểu hiện để mang thông điệp từ đối tượng này sang đối tượng khác nhằm nâng
cao nhận thức và hướng đến thay đổi hành động của một nhóm đối tượng cụ
thể. Truyền thơng tồn tại ở mọi ngóc nghách của cuộc sống.
Hôm qua bạn đọc 1 thông tin trên báo chí là nước mắm cơng nghiệp tốt
hơn nước mắm thủ công
4


Bạn vừa mới vuốt ngón tay trên mặt kính điện thoại để đọc những dòng
trạng thái trên Facebook
Tháng trước bạn vừa đọc quyển Nhiệt đới gió mùa của Nguyễn Minh
Châu
Sáng nay bạn thấy cô bạn đang mải mê xem bộ phim tài liệu Vietnam
War trên youtube
Tất cả đều là sự tham gia vào q trình truyền thơng của xã hội. Xét
trên tiến trình phát triển của phương tiện truyền thơng, một số nhà khoa học
chia truyền thông thành 2 loại như sau:
* Truyền thông truyền thống (Traditional Media): Đây là dạng thức

truyền thông trên các phương tiện như báo in, tạp chí, sách, băng rơn, tranh cổ
động… Tất cả đều có chung đặc điểm là khơng sử dụng mạng lưới internet.
Cách truyền thơng này có điểm mạnh là mang tính chuẩn mực thơng tin cao
và có tính định hướng dư luận xã hội mạnh mẽ. Điểm còn hạn chế là tốc độ
truyền thơng khơng nhanh và đa dạng hình thức không nổi bật. Đặc biệt, trong
thời đại mọi thứ đều kỹ thuật số, những điểm mạnh của truyền thông truyền
thống ngày càng hạn chế hơn.

* Truyền thông hiện đại (Digital Media): Đây là dạng thức truyền thông
trên các phương tiện có nền tảng là liên kết internet như báo phát thanh, báo
mạng, báo truyền hình, mạng xã hội Facebook, Twitter, các trang web blog
wordpress, mạng video toàn thế giới youtube… Truyền thông hiện đại gắn
liền với khái niệm truyền thông xã hội. Loại truyền thơng mới này mang
nhiều đặc tính ưu việt như tốc độ vơ cùng nhanh, hình thức sáng tạo và biến
đổi liên tục, người dùng tự đóng góp và thể hiện quan điểm. Nhưng chính
5


điều đó cũng tạo ra những thách thức cho những người tham gia mạng lưới
truyền thơng. Điển hình như tư do ngôn luận dẫn đến xuyên tạc sự thật, tin
đồn trôi nổi dẫn dắt dư luận xã hội đi theo chiều hướng xấu, đời tư dễ bị xâm
phạm hơn.
Trong các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội đang đóng
vai trị vơ cùng lớn. Mạng xã hội là mạng lưới internet có sự tham gia của
nhiều người dưới dạng các tài khoản. Mạng xã hội khuyến khích người dùng
chia sẻ cảm xúc và tương tác tích cực với các người dùng khác. Mạng xã hội
đã tác động đến công chúng từ phía chỉ biết tiếp cận thơng tin từ những cơ
quan truyền thông trở thành những “nhà báo công dân”, những người trực tiếp
mang thông tin và lây lan nhanh những con vi rút.


6


2. Dư luận xã hội trên truyền thông xã hội
2.1. Định nghĩa
Dư luận xã hội trên truyền thông xã hội (chủ yếu là mạng xã hội) là dư
luận xã hội được hình thành và phát triển trên mạng xã hội (Facebook,
Twitter) hoặc những dư luận xã hội được lan truyền thông qua mạng xã hội.
Việc người Mỹ dùng hashtag (#donaltrump, #USAelection…) khi chia
sẻ ý kiến trên Twitter chính là tập trung dư luận xã hội thành các chủ đề trên
mạng xã hội
Việc phụ huynh có con học trường THPT Lương Thế Vinh Hà Nội viết
tâm thư gửi phó hiệu trưởng Văn Thùy Dương đạt lượng hàng ngàn lượt chia
sẻ chính là khi dư luận xã hội hình thành trên mạng xã hội
Khi vụ việc ô nhiễm biển miền Trung lên đến đỉnh điểm khi đại diện
đối ngoại của Formosa phát ngôn: Chọn cá hay chọn thép, nhiều người lên
facebook chia sẻ quan điểm CHỌN CÁ cũng chính là cách mạng xã hội lan
truyền dư luận xã hội
2.2. Đặc điểm
- Tính tự phát cao: Khung kiểm duyệt trên mạng xã hội không giới hạn
chặt chẽ như đối với truyền thông thực tế. Chính vì khơng gian mở đó mà dư
luận xã hội dễ dàng bộc phát hơn.
- Tính phản biện mạnh mẽ: Rất dễ cho người dùng mạng xã hội được
tranh luận, phản biện, cọ xát với nhiều ý kiến chủ quan trên cùng mạng lưới
với tính năng bình luận tức thời.
- Bộc lộ cảm xúc đa dạng: Nếu ở bên ngồi, người ta thường lo sợ
người khác nghĩ gì về mình thì ở trên mạng xã hội, người dùng có thể phát
biểu và bộc lộ cảm xúc thoải mái mà có thể khơng phải lộ mình. Chính vì thế,
dư luận trên mạng xã hội mang sắc thái cảm xúc rõ rệt và mạnh liệt hơn.
- Tốc độ lan truyền vô cùng nhanh: Minh chứng hùng hồn nhất là mạng

xã hội Facebook có 1 tỷ người dùng trong khi dân số thế giới này là 7 tỷ. Với
lượng người tham gia lớn như vậy, chỉ một động lúc chia sẻ cũng khiến câu
chuyện lan xa đến hàng tỷ cây số mà khơng có biên giới nào ngăn chặn được.
7


3. 3. Ứng xử của nhà báo với dư luận trên truyền
thông xã hội
3.1 Định nghĩa
Ứng xử theo nghĩa đại chúng là thái độ, hành vi của chủ thể hành động
trong những tình huống cụ thể. Ở đây, chủ thể ứng xử là nhà báo, đối tượng
ứng xử là dư luận xã hội, còn ngữ cảnh cụ thể là trên mạng xã hội. Như vậy,
ứng xử của nhà báo với dư luận trên mạng xã hội là tư cách nhà báo tham gia
mạng xã hội, là trách nhiệm với những thông tin chia sẻ trên mạng xã hội và
là cách nhà báo tiếp cận và sử dụng những thông tin trên mạng xã hội
3.2 Tác động của nhà báo đến dư luận xã hội trên
truyền thơng xã hội
Báo chí nói chung và nhà báo nói riêng có khả năng tác động đến dư
luận xã hội, không chỉ trên truyền thông xã hội mà thôi. Trên mạng xã hội,
nhà báo cũng có khả năng thực hiện những tác động vốn có của mình đến dư
luận xã hội
- Khơi nguồn: nhà báo dùng sức mạng của mạng xã hội để lật lại những
trang hồ sơ chưa làm đến cùng
- Phản ánh và truyền dấn: nhà báo dùng mạng xã hội như một loại công
cụ để phản ánh những sự viện, vấn đề; quan trọng hơn là dùng tính năng lan
truyền đã truyền dẫn làn sóng dư luận xã hội phát triển lớn mạnh
- Định hướng: Nhà báo lắng nghe trên mạng xã hội để hiểu; dùng trí óc
của mình để phân tích; và dùng uy tín của mình, hoặc của tịa soạn để giải
thích và định hướng luồng dư luận xã hội theo chiều hướng có lợi.
- Điều hịa: Khi dư luận trên mạng xã hội trở nên hỗn tạp, mất lòng tin,

nhà báo cần sử dụng uy tín của mình để chứng minh, giải thích, điều tra và
đưa ra các bình luận, nhận định làm thỏa lòng dư luận.

8


Chương 2
Ứng XỬ CỦA NHÀ BÁO VỚI DƯ LUẬN TRÊN TRUYỀN
THƠNG XÃ HỘI
4. 1. Nhà báo có nên tham gia mạng xã hội?
Trước tiên, hãy thử nghĩ xem “Nhà báo có nên tham gia mạng xã hội
khơng?”. Những lý do mà nhà báo không nên tham gia mạng xã hội có thể là:
- Tính chất cơng việc nhà báo rất bận rộn. Nhà báo nên tập trung vào
thực hiện các cơng việc đó hơn là tốn thời gian cho mạng xã hội
- Thông tin trên mạng xã hội ngổn ngang như mỗi bãi rác khổng lồ.
Nhà báo nên tìm các nguồn tin uy tín hơn là ngụp lặn trong bãi rác đó
- Chỉ có những người thích bn chuyện mới lên mạng xã hội. Nhà
báo lên mạng xã hội chắc cũng chỉ là loại lăm le facebook người nổi tiếng,
hay trà trộn vào mấy group cộng đồng nghe ngóng “phốt” đăng bài câu vài
chục cái view.
(Theo ý kiến tại buổi hội thảo cấp lớp ngày 20/9/2017, Phòng B9.203,
Học viện Báo chí và Tun truyền)
Cũng cùng câu hỏi đó, nếu như bạn nghĩ nhà báo nên tham gia mạng xã
hội thì nhà báo được cái gì?
- Những người trên mạng xã hội rất đa dạng, ở đây nói về sự đa dạng
trong chun mơn. Có thể bạn sẽ kết bạn với một tiến sĩ y học hay một nhà
toán học lẫy lừng từng đoạt giải toán học quốc tế. Họ đều có cơng việc riêng
và họ vẫn có những chia sẻ vô cùng chuyên sâu và đắt giá trên mạng xã hội.
Nhà báo muốn mở rộng tầm hiểu biết, tại sao không kết nối với họ qua mạng
xã hội?

- Nếu như giữa một bãi rác khổng lồ ẩn giấu 1 kho tài kim cương trị
giá cả tỷ đơ, bạn có chịu ngụp lặn để tìm? Thơng tin trên mạng xã hội cũng
vậy, có thể nó rác rưởi, nhưng cũng nhiều thơng tin q giá vơ cùng. Có thể

9


ở ngồi đường chẳng ai dám nói, nhưng lên mạng xã hội, thông tin cứ im
ỉm lan truyền một cách mạnh mẽ dưới vẻ bề ngoài của những cộng đồng
chung sở thích.
- 60% bài trên một trang web điện tử được truy cập thông qua liên kết
từ mạng xã hội. Ở Việt Nam và trên thế giới, các cơ quan báo chí đều có ít
nhất 2 nền tảng cho tờ báo của mình, trong đó nhất định có 1 nền tảng
internet. Báo điện tử VTV bên cạnh đài truyền hình, Báo Lao Động online
bên cạnh tờ Lao Động hàng tuần, tờ Independence ở Anh đóng của tịa soạn
báo in chuyển sang hoạt động online…
Vậy, nhà báo có nên tham gia mạng xã hội hay khơng? Khơng ai có
quyền ép nhà báo phải làm điều gì cả. Chỉ là nếu nhà báo lựa chon từ chối
mạng xã hội, nghĩa là nhà báo lựa chọn từ chối một nguồn thông tin khổng lồ,
một nơi mà cơng chúng tự tìm đến và chia sẻ thông tin, một nơi vô cùng nhạy
cảm với mọi cảm xúc của cơng chúng. Khơng có mạng xã hội, người ta vẫn
làm báo được. Vì từ xưa đến nay, chúng ta vẫn làm báo được, làm từ trước khi
Mark Zuckerberg sáng tạo ra Facebook. Nhưng thời thế thì thay đổi rồi, nhà
báo chính là người cần đi sát với sự thay đổi đó của thời đại, của cơng chúng
và cách vận hành, sản xuất báo chí
5. 2. Tư cách của nhà báo khi tham gia truyền thông
xã hội
Vậy khi nhà báo đã tham gia mạng xã hội rồi thì họ sẽ tham gia với tư
cách nào?
Nếu như nhà báo tham gia với tư cách là một người bình thường, một

người dùng mạng xã hội đơn thuần không mang trách nhiệm gì đặc biệt, nhà
báo có quyền nói những gì mình muốn. Bởi vì đối với họ, mạng xã hội là nơi
để giải tỏa cảm xúc, suy nghĩ, nghĩ gì viết nấy, tự do với ngơn từ của mình.
Như vậy, có nghĩa là một nhà báo của tịa soạn Báo Cơng an nhân dân có thể
trở về sau một ngày dài, đặt lưng lên giường và đăng một dòng cập nhật trạng
thái: “An ninh Hà Nội bây giờ chả ra làm sao cả!” bởi vì nhà anh vừa mới bị
10


trộm bẻ khóa. Như vậy, cũng có nghĩa là một nhà báo của tòa soạn báo “Sinh
viên Việt Nam” đăng lên tường: “Sinh viên Việt Nam vừa lười vừa học dốt,
đất nước này chắc khơng có tương lai gì!” bởi vì anh vừa bị một anh sinh viên
tơng vỡ cái đèn xe.
Tự do, thoải mái, đúng! Nhưng hệ quả không ngờ đến là gì? Nó khơng
chỉ ảnh hưởng đến danh tiếng của những nhà báo đó, bởi người ta sẽ xì xào
xơn xao “anh này làm nhà báo mà thế này…mà thế nọ…”. Hơn thế, những lời
nói đi ngược lại tinh thần của tịa soạn có thể người đọc nghĩ rằng cơ quan của
anh có vấn đề, mâu thuẫn; nhân dân đọc vào mất khơng ít thì nhiều lịng tin
với tòa soạn báo; dần dà họ cũng mất niềm tin những nhà báo, vào những bài
báo mà có thể tối nay những nhà báo sẽ lại đăng lại kèm dòng ghi chú đi
ngược với điều đó.
Nếu như nhà báo tham gia với tư cách là đại diện của tòa soạn báo chí
anh đang cơng tác, nhà báo phải đặt rất nhiều trách nhiệm vào từng nói của
mình. Bởi nhà báo dù cho là hoạt động bên ngoài xã hội, hay hoạt động trên
mạng xã hội đều được công chúng ghi nhận. Họ đọc những gì nhà báo chia sẻ
với độ tin tưởng tương đương như đối với các cơ quan báo chí mà họ cơng
tác. Những lời nhận định, bình luận, chia sẻ có trách nhiệm của nhà báo trên
mạng xã hội thể hiện đạo đức của người làm báo, và nâng cao độ tín nhiệm
của nhân dân với tịa soạn báo ấy.
Với tư cách tham gia mạng xã hội là đại diện của tồn soạn báo, nhà

báo có thể bị kìm kẹp bởi những giới hạn về kiểm duyện thơng tin. Nhưng sự
kiểm duyệt đó giúp giảm thiểu nhiều hậu quả khơng đáng có như: mất niềm
tin của cơng chúng, làm xấu hình ảnh của tịa soạn, làm lũng đoạn thơng tin,
… Sẽ có những trường hợp nhà báo khơng thể nói được những điều mình
muốn vì những lý do khách qua về văn hóa, xã hội, chính trị, nhà báo phải
biết thay đổi cách thức truyền tải. Thay vì nói thẳng và gây ra nhiều hoang
mang dư luận, nhà báo có thể nói bằng phi ngơn ngữ, đa ngơn ngữ trong tác
phẩm của mình.
11


6. Trách nhiệm của nhà báo khi tham gia truyền
thông xã hội
Trong 10 điều quy định đạo đức người làm báo Việt Nam do Hội Nhà
báo Việt Nam công bố có điều 5 như sau: Chuẩn mực và trách nhiệm khi
tham gia mạng xã hội và các phương tiện truyền thơng khác.
Vậy hoạt động như thế nào thì gọi là chuẩn mực và trách nhiệm khi
tham gia mạng xã hội
Thứ nhất: Không lợi dụng mạng xã hội để xuyên tạc các thông tin quốc
gia. Trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; vì lợi ích của đất
nước, vì hạnh phúc của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam
trên trường quốc tế.
Thứ hai: Sử dụng thông tin trên mạng xã hội để hành nghề trung
thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo vệ công lý và lẽ phải.
Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật, gây chia rẽ, kích động xã
hội, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc và tình đồn kết, hữu nghị
giữa các quốc gia, dân tộc.
Thứ ba: Không sử dụng mạng xã hội để xâm phạm đời tư, làm tổn hại
danh dự, nhân phẩm, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. Nêu cao tinh

thần nhân văn, tơn trọng quyền con người.
Thứ tư: Bảo vệ bí mật quốc gia, bí một nguồn tin theo quy định của
pháp luật; khơng tiết lộ các bí mật lên mạng xã hội
Thứ năm:: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đối với những bình
luận, ý kiến được soạn thảo trên mạng xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị
văn hóa Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Trên mạng xã hội, trách nhiệm của nhà báo chẳng khác gì so với trách
nhiệm khi hành nghề ngồi cuộc sống. Trách nhiệm cao nhất vẫn là thơng tin
vì lợi ích chung của quốc gia, vì quyền được thơng tin của cơng chúng và vì
gương mặt báo chí của Việt Nam.
12


7. Nhà báo sử dụng dư luận trên truyền thông xã hội
như một nguồn tin chưa chính thống
“Mạng ảo nói chuyện thật, người thật thì nói chuyện ảo”. Chúng ta
khơng khẳng định mọi thông tin trên truyền thông xã hội là chuẩn xác, nhưng
dân gian có câu “khơng có lửa làm sao có khói” là có nguyên căn của nó. Trên
truyền thơng xã hội, người dân được tự do nói mà ít bị kiểm duyệt hơn. Nhà
báo đứng trước những tin đồn phong thanh trên mạng xã hội, vừa nên tỉnh táo
vừa nên biết tị mị để tìm hiểu nguồn cơ của những tin đồn đó. Tin đồn có thể
trở thành dư luận xã hội, chính vì thế nhà báo thực sự nên lấy dư luận xã hội
trên truyền thông xã hội là một nguồn tin CHƯA XÁC MINH. Công việc của
nhà báo chính là đi điều tra những tin đồn đó.
Trong thực tế, nhiều lần nhà báo phải nhờ đến nguồn tin mạng xã hội
để khám ra những đề tài nóng bỏng trong cuộc sống. Tháng 7/2017, sau khi
cơng dân Vũ Thanh Hoa đăng lên trang cá nhân trên Facebook câu chuyện kể
về việc cô không xin được giấy chứng tử cho bố kịp ngày, và nghe chăng là
nếu muốn nhanh phải lót tay vị phó chủ tịch phường Văn Miếu. Dịng chia sẻ
của Vũ Thanh Hoa nhanh chóng tạo làn sóng dư luận xã hội trên mạng xã hội.

Hàng chục ngàn lượt chia sẻ và bình luận. Đa số bình luận đều tỏ ra ngán
ngẩm với thực trạng đã diễn ra hàng chục năm, truyền qua tai hàng trăm
nghìn người, nhưng chỉ có chính quyền là khơng nghe thấu mà giải quyết.
Ngay lập tức, báo chí nhảy vào điều tra sự việc. Dựa trên thơng tin chưa chính
thống mà Vũ Thanh Hoa đưa ra, nhà báo đã tiến hành xác minh và xác nhận
sự việc trên thực sự xảy ra. Sau đó, phó chủ tịch phường Văn Miếu bị đình chỉ
cơng tác.

13


Dòng trạng thái trên Facebook mà chị Thanh Hoa chia sẻ về việc xin giấy khai tử

Tuy nhiên, nhà báo không nên quá ỉ lại vào nguồn tin này. Ngày nay,
công chúng phát ngán với những nhà báo tay dài chuyên đi xào xáo các tin
tức trên mạng, ngó ngang liếc dọc trang cá nhân người nổi tiếng lấy đó làm đề
tài viết báo. Hay những nhà báo salon chuyên ngồi phòng điều hòa, suốt ngày
lướt lướt mấy trang mạng xã hội chực tìm “biến” nóng đã vội vàng đăng tải,
chẳng bao giờ chịu nhấc mông khỏi cái ghế tựa êm ái đi điều tra đến cùng.
Tháng 3/2016, nước ta chịu hậu quả môi trường trầm trọng từ sau vụ
Formosa xả thải khiến cá chết trắng xóa bờ biển suốt cả tháng trời. Sau đó,
Formosa đã nhận lỗi và bồi thường thiệt hại là 500 triệu đồng. Một vài tháng
tiếp theo, trên mạng xã hội lại lan truyền video có hình ảnh của dịng nước
thải đỏ quạch thải thẳng ra biển, được cho là từ nhà máy Formosa. Dân tình
lại được nước nổi dậy, làn sóng phẫn nộ đối với Formosa và chính quyền tỉnh
Hà Nội bùng phát mạnh mẽ. May mắn thay, các nhà báo khi tiếp cận với
thông tin này ngay lập tức đi xác nhận và kết quả là đây là một thông tin bịa
đặt trên mạng xã hội. Video này thực ra quay ở cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) và đã
được quay cách đây 2 năm trước!
14



Hình ảnh cắt từ clip được cho là do Formosa xả thải

Để có cách ứng xử phù hợp nhất, nhà báo trước tiên cần có sự trung
tính trước các tin đồn trên truyền thơng xã hội. Sau đó, nhà báo cần một cái
đầu biết phân tích, tìm tịi, tị mị và máu nghề để xử lý các dư luận xã hội trơi
nổi trên truyền thơng xã hội. Bên cạnh đó, nhà báo muốn sát với dân hơn thì
càng phải có mạng lưới độc giả, cộng tác viên rộng hơn. MC Phan Anh không
phải là một nhà báo, nhưng nhà báo nên làm được như MC Phan Anh. Anh là
người liên tục được cư dạng mạng xã hội gửi những thông tin xã hội nóng
hổi. Chính nhờ cũng “nhà báo cơng dân” đó, cùng với sự ảnh hưởng lớn của
MC Phan Anh, hàng ngày dư luận xã hội vẫn liên tục hình thành và biến đổi
sâu sắc.
8. Nhà báo tận dụng khả năng lan truyền thông điệp
của mạng xã hội
Nhờ nền tảng là các dịch vụ trực tuyến, cùng với độ phổ biến rộng rãi
của người dùng mạng xã hội, các thơng điệp trên truyền thơng xã hội ln có
sức lan tỏa mạnh mẽ hơn, so với trên hình thức truyền thơng truyền thống.
Lượng tương tác lớn, khung kiểm duyệt ít gắt gao hơn chính là yếu tố hàng
đầu giúp thơng điệp của cá nhân, tổ chức hay chính quyền được lan rộng.
Câu chuyện hai bố con chú Trần Vương Thành Lâm (59 tuổi) và con
trai Trần Vương Công Thành (sinh năm 1994) tại Lạch Tray - Hải Phòng, bị
bỏng nặng do khí gas khiến nhiều người xúc động rơi nước mắt. Dù bị thương
15


nặng nhưng Công Thành vẫn cố gắng đưa bố tới bệnh viện gần nhất để cứu
chữa. Ngay sau đó, chàng trai này đã bị hôn mê sâu, phải lọc máu mỗi ngày.
Chi phí chạy chữa cho cả hai bố con thời điểm đó lên tới hơn 130.000.000

đồng.Ngay khi nghe được thơng tin này, ban chấp hành Đồn trường, Đồn
thanh niên, cùng thầy cơ trường ĐH Hàng hải Hải Phịng đã chia sẻ hồn cảnh
của gia đình Cơng Thành lên mạng xã hội và kêu gọi sự giúp đỡ của mọi
người. Cũng chính nhờ những tấm lịng hảo tâm, những nghĩa cử cao đẹp của
cư dân mạng mà gia đình Cơng Thành đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ. Chi
phí chạy chữa bệnh tật cũng như thuốc thang cho hai bố con Công Thành
cũng phần nào được san sẻ.

Câu chuyện về bố con Công Thành được chia sẻ rộng rãi trên mạng xã hội

Để tận dụng khả năng tạo dư luận xã hội trên truyền thơng xã hội, nhà
báo nói riêng và cơ quan báo chí nói chung nên có các kênh truyền thơng xã
hội riêng của mình. Như hầu hết các cơ quan báo chí hiện nay đều có trang
truyền thơng xã hội riêng. Ít thì Facebook, nhiều thì có có trên Twitter,
Instagram, Youtube… Các tin tức được đẩy lên mạng xã hội có lượng truy cập
và tương tác tốt hơn do tận dụng được mạng lưới internet để tiếp cận với đa
dạng đọc giả, thậm chí từ đa dạng các quốc gia.
16


Hãng thơng tấn BBC với trang thơng tin chính thức trên Facebook

17


Chương 3
HỆ QUẢ TỪ CÁCH NHÀ BÁO ỨNG XỬ VỚI DƯ LUẬN
XÃ HỘI TRÊN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI
1. Hệ quả tích cực
Khi nhà báo ứng xử chuẩn mực với dư luận xã hội trên truyền thông xã

hội, nhà báo mang lại những hiệu quả cho truyền thông.
- Tiếp cận thông tin vô cùng nhanh nhạy: mạng xã hội là nơi nhạy cảm
với mọi sự biến chuyển về tâm lý, đời sống của cơng chúng. Chính vì vậy, khi
nhà báo tiếp cận thông tin ở kênh truyền thông này, nhà báo đang tự mở cho
mình cơ hội để gần gũi với những câu chuyện thường ngày, những câu
chuyện khó nói của cơng chúng.
- Có cơ sở để định hướng và điều hòa dư luận: khi tham gia ý kiến trên
mạng xã hội, nhà báo được đọc và tiếp cận với rất nhiều ý kiến từ phía người
trong cuộc, người liên quan và cả những chuyên gia về vấn đề đó. Thế giới
mạng càng phẳng thì nhà báo càng có nhiều cơ sở để phân tích tâm lý, diễn
biến của cơng chúng về vấn đề. Khi nhà báo hiểu được dân tình, nhà báo biết
mình phải định hướng như thế nào và khi dư luận phát triển biến tướng, nhà
báo cần sử dụng sức mạnh báo chí tịa soạn để điều hịa.
- Đẩy mạnh tương tác giữa công chúng với đại diện của cơ quan báo
chí: ngày nay, cơng chúng khơng cần gửi một bức thư tay đến địa chỉ toàn
soạn để được tranh luận với cơ quan báo chí. Với mạng xã hội, nhà báo và
công chúng tương tác, đối chất với nhau không bị giới hạn bởi khoảng cách
địa lý.
- Thúc đẩy cơng chúng có tư duy phản biện và tranh luận văn minh:
khơng thể phủ định nhờ có mạng xã hội mà công chúng trở nên chủ động hơn
trong việc tiếp nhận và cung cấp thông tin. Khi nhà báo tham gia vào các
tranh biện trên mạng xã hội, công chúng được tiếp xúc với cách lập luận chặt

18


chẽ, dẫn chứng xác thực của những người đại diện cho cơ quan báo chí. Tuy
là tiến trình dài, nhưng dần dần, cư dân mạng sẽ hình thành thói quen phản
biện, tranh luận văn minh.
2. Hệ quả tiêu cực

Hệ quả tiêu cực xuất hiện khi nhà báo ứng xử thiếu trách nhiệm với
thông tin mà họ đăng tải trên mạng xã hội.
- Mất đi niềm tin của công chúng: Hiên tượng nhà báo viết trên báo chí
chính thống đối lập với những gì họ chia sẻ trên mạng xã hội thực sự khiến
công chúng mất đi niềm tin. Công chúng luôn xem những nhà báo khi tham
gia mạng xã hội là tiếng nói của những người khám phá sự thật. Nếu nhà báo
nói 2 lời, làm thế nào cơng chúng phân biệt được đâu là thật, đâu là giả. Công
chúng khơng tìm được điểm tựa niềm tin vào quyền lực truyền thơng ln có
độ uy tín rất cao trong lịng đọc giả.
- Làm xấu hình ảnh của tịa soạn: Khi tham gia mạng xã hội, nhà báo
tham gia với tư cách người đại diện cho cơ quan báo chí họ đang cơng tác. Vì
vậy, bất kỳ động thái nào cũng nhà báo cũng gắn liền với hình ảnh của cơ
quan đó. Khi họ ứng xử sai, ứng xử vội vã, thì đơn vị đầu tiên chịu sự đánh
giá là tịa soạn họ làm việc.
- Có thể triệt tiêu tính chính xác của thơng tin báo chí: Điều này xảy ra
khi nhà báo quá ỉ lại vào những nguồn tin trên mạng xã hội. Sức ép về tin
nhanh, tin nóng có thể khiến tính chính xác của báo chí dần dần bị triệt tiêu.
Nhà báo chỉ muốn viết được càng nhiều bài nóng càng tốt mà khơng dành đủ
thời gian nghiên cứu và điều tra sự việc.
- Khơng kiểm sốt được sức mạnh của mạng xã hội: Sức mạnh lan
truyền của mạng xã hội là không giới hạn. Đôi khi, sức mạnh đó đi q tầm
kiểm sốt. Những thơng tin mang tính chất bịa đặt thường lại thu hút sự chú ý
của người dân. Ở Việt Nam, người ta thường phao đồn tin về những vị lãnh
đạo. Nếu nhà báo ứng xử kém, hùa theo luồng ý kiến đó thì sự thổi phồng, lan
truyền cũng thông tin sẽ càng nguy hiểm và căng thẳng hơn.
19


3. Giải pháp
Thứ nhất, cơ quan báo chí nên có cơ chế quản lý hoạt động trên mạng

xã hội của nhà báo. Lưu ý, cơ quan báo chí khơng xâm phạm đến đời tư và
quyền tự do ngôn luận của nhà báo, nhưng có sự giám sát chặt chẽ và can
thiệp kịp thời.
Thứ hai, nhà báo cần nâng cao kỹ năng ứng xử với dư luận xã hội trên
mạng xã hội nói riêng. Nên tổ chức các buổi nói chuyện, chia sẻ, hội thảo
giữa các nhà báo về cách nhà báo sử dụng mạng xã hội cho cơng việc của
mình
Thứ ba, nhà báo cần được trang bị nhiều hơn là kiến thức nghiệp vụ.
Các kiến thức về truyền thông, xử lý khủng hoảng truyền thông, mạng xã hội
và sức mạnh của mạng xã hội… đều cần bổ sung vào chương trình tập huấn,
giảng dạy, chia sẻ kinh nghiệm
Thứ tư, cơ quan báo chí tạo diễn đàn để nhà báo chia sẻ những tâm tư,
nguyện vọng, những vấn đề khó nói trên các mặt báo. Diễn đàn nên được thực
hiện dưới hình thức ngoại tuyến, gặp mặt trực tiếp, cùng trao đổi và tìm cách
chọn lọc thơng tin đưa lên mặt báo
Thứ năm, công chúng cũng cần phải học cách sử dụng mạng xã hội.
Chưa có ai giảng dạy mơn học nào về cách sử dụng mạng xã hội. Thế nhưng,
thực tế công chúng cần biết cách thể hiện quan điểm trên mạng xã hội một
cách văn minh, từ tốn và sắc bén. Từ đó, nhà báo cộng hưởng với cơng chúng
trên mạng xã hội tạo nên diễn đàn tranh luận, phản biện có chiều sâu, có ý
nghĩa với xã hội

20


TỔNG KẾT
Bài tiểu luận “Nhà báo ứng xử với dư luận xã hội trên truyền thông
xã hội” vừa làm rõ những vấn đề cơ bản về mối quan hệ giữa nhà báo và dư
luận trên mạng xã hội, trong đó nhấn mạnh nhất đến cách nhà báo ứng xử
như thế nào.

Thơng qua bài tiểu luận, người đọc có cái nhìn khái quát về một số khái
niệm liên quan như dư luận xã hội, truyền thông xã hội, mạng xã hội,… Đó là
cơ sở lý luận để người nghiên cứu tìm ra những đặc điểm, thuộc tính của dư
luận xã hội trên mạng xã hội và những cách mà báo chí nên thể hiện với dư
luận đó.
Nhà báo nên sử dụng mạng xã hội là thông điệp đầu tiên mà tiểu luận
hướng đến. Bởi mạng xã hội là nơi nhạy cảm với mọi biến chuyển của công
chúng, nếu nhà báo từ chối mạng lưới thơng tin này lại chính là tự tạo ra
khoảng cách trong thời đại phẳng về thông tin. Nhà báo khi sử dụng mạng xã
hội thì phải sử dụng dưới tư cách là đại diện của một cơ quan báo chí, khơng
cịn dưới tư cách một cá nhân bình thường. Chính vì vậy, nhà báo khi đăng tải
thơng tin lên mạng xã hội, không bao giờ được phép quên đi trách nhiệm và
đạo đức làm báo của mình.
Bên cạnh đó, nhà báo tận dụng những điểm ưu việt của dư luận xã hội
trên mạng xã hội như: tiếp cận như một nguồn tin chưa chính thống, hay tận
dụng sự lan tỏa của mạng xã hội để truyền thông thương hiệu cho tòa soạn.
Song, cần lưu ý khi lựa chọn nguồn tin trên mạng xã hội, bởi nhà báo luôn
phải tỉnh táo trước mọi lời đồn. Cách truyền thống nhưng luôn luôn hiệu quả,
nhà báo phải tiến hành điều tra.
Nếu nhà báo ứng xử đúng với dư luận xã hội trên mạng xã hội, nhà báo
được tiếp cận với nguồn tin hay một cách nhanh nhạy, được tương tác với độc
giả một cách gần gũi. Từ đó, nhà báo có cơ sở để định hướng và điều hịa
những luồng dư luận xã hội. Đồng thời, gây dựng niềm tin cho công chúng.
21


Tuy nhiên, hậu quả khi nhà báo khơng làm trịn trách nhiệm khi phát
ngôn trên mạng xã hội cũng vô cùng nghiêm trọng. Cơng chúng mất lịng tin,
cơ quan báo chí mất hình ảnh, quyền lợi quốc gia và cơng chúng bị lợi dụng
và xâm hại, mất kiểm soát với sức mạnh lan truyền viral của mạng xã hội…

Nhà báo càng phải có nhiều trách nhiệm với chính mình, và với những thông
tin mà họ chia sẻ với công chúng.
Cuối cùng, để nhà báo có cách ứng xử phù hợp với dư luận xã hội trên
truyền thông xã hội, cần có những giải pháp đối với cả 3 đối tượng: nhà báo,
tịa soạn và cơng chúng. Nhà báo cần nâng cao tay nghề, kỹ năng truyền
thông và bản lĩnh nghề nghiệp, bên cạnh đó vừa cần được kiểm sốt thơng tin
trên mạng xã hội vừa cần có khơng gian để giải tỏa và trình bày với tịa soạn
về những thơng tin khó tiết lộ. Tịa soạn có vai trị quan trọng trong việc đào
tạo, kiểm tra, giám sát và tạo điều kiện để nhà báo được nói, được thơng tin
sự thật cho cơng chúng. Cịn đối với cơng chúng, truyền thông nước nhà cần
nâng cao nhận thức của công chúng về mạng xã hội, về văn hóa bình luận,
văn hóa tranh luận sao cho chặt chẽ và mang tính xây dựng hơn.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.

10 điều quy định đạo đức người làm báo Việt Nam – Hội nhà báo Việt Nam
[Sách] Báo chí và dư luận xã hội – PGS.TS Nguyễn Văn Dững
[Sách] Nghiên cứu và định hướng dư luận xã hội – Lương Khắc Hiếu (Chủ

4.

biên)
[Bài khoa học] Ảnh hưởng của truyền thơng xã hội đến mơi trường báo chí
Việt Nam – Nguyễn Khắc Giang, đăng trên Tạp chí Khoa học ĐH KHXHNV


5.

Hà Nội tập 31 số 1 (2015) 15 – 19
Cùng các bài báo trên các trang điện tử VNexpress, Vietnamnet, Laodong…

23



×