TRƯỜNG ĐH ĐỒNG NAI
Khoa: Sư Phạm Tiểu học – Mầm non
------
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
Môn: Phương pháp dạy học Tiếng Việt 1
Người thực hiện: Lương Thị Thúy Hằng Lớp: Tiểu học BK5
Email:
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Trần Dương Quốc Hòa
Năm học 2017 - 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: PPDH TIẾNG VIỆT 1
Yêu cầu 1: Xem xét – đánh giá việc thực hiện 03 nguyên tắc dạy học Tiếng
Việt ở trường tiểu học.
Bài: Tập đọc (Ông trạng thả diều) Lớp 4
Nguyên tắc phát triển tư duy
- Giáo viên phải ln đặt học trị tư duy liên tục, đồng thời tổ chức các hoạt động giao
tiếp: Trong tiết dạy giáo viên đi đúng trình tự các bước của bài. Các hoạt động giáo viên
luôn đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời hoặc những yêu cầu cho học sinh thực hiện. Các
hoạt động được diễn ra liên tiếp và giáo viên thường có câu chuyển sang các phần tiếp
theo. Với phần “Kiểm tra bài cũ” và “Giới thiệu bài” giáo viên đưa bức tranh bài đã học
và bài hôm nay sẽ học để khơi gợi sự hứng thú cho học sinh. Vào bài học giáo viên cho
học sinh đọc và tự tìm ra được bố cục của bài. Phần “Tìm hiểu bài” giáo viên đã có sự
khai thác sâu bài học, đặt câu hỏi khai thác nội dung ứng với từng đoạn và có chốt các ý
trọng tâm bài, cũng như mở rộng thêm kiến thức cho học sinh giáo dục kĩ năng sống, tuy
nhiên thời lượng lại tương đối dài, cần phân bố hợp lí. Tuy nhiên không phải tất cả các
hoạt động đều giúp học sinh tư duy liên tục vì trình tự các bước trong bài cịn theo một
mơ típ chung, các hoạt động diễn ra mà các học sinh đã quen thuộc. Khi học sinh trả lời
sai giáo viên cũng chỉ nói học sinh khác nhận xét rồi đưa ra những ý đúng mà chưa hiểu
rõ ý kiến của học sinh.
- Những gì đưa ra phải giúp cho học sinh hiểu tường tận: Khi đưa ra tranh ảnh và các câu
hỏi liên quan đến bài học, giáo viên phải làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị
ngôn ngữ. Giáo viên đã tạo điều kiện đưa ra những gợi ý, câu hỏi để giúp học sinh nắm
được nội dung mình sẽ nói, viết và thể hiện được bằng phương tiện ngơn ngữ. Nhưng với
bức hình giáo viên chỉ cho học sinh trả lời là nhìn thấy những gì trong bức tranh, khi đó
giáo viên nên chỉ vào bức tranh để học sinh hiểu rõ hơn là chỉ nghe học sinh nói và cả lớp
quan sát bức tranh; với phần giải thích ý nghĩa từ khó giáo viên cũng chỉ gọi 1 học sinh
đọc theo sách giáo khoa thì với nhiều học sinh vẫn không thể hiểu rõ nghĩa.
Nguyên tắc giao tiếp
- Giáo viên khi lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học đã lấy hoạt động giao tiếp làm mục
đích, để hướng vào việc hình thành kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. Các hoạt
động dạy học trong tiết Tập đọc khi lên lớp giáo viên ln giúp cho học sinh hình thành
các kĩ năng trên, chủ yếu nhiều nhất là hình thành kĩ năng đọc: Luyện đọc (học sinh đọc
cá nhân, đọc nối tiếp theo đoạn với 2 lần, đọc theo nhóm); Đọc diễn cảm (học sinh đọc
theo nhóm và được thi đua với nhau); Trong lúc giáo viên hoặc học sinh đọc bài thì cả
lớp chú ý lắng nghe theo dõi đọc bài. Bên cạnh đó kĩ năng nghe và nói cũng được phát
huy nhiều khi đó giáo viên sẽ đặt ra các yêu cầu để học sinh thực hiện, sau đó học sinh sẽ
đọc yêu cầu, trả lời, trình bày ý kiến của mình trước lớp được thể hiện rõ trong phần
“Tìm hiểu bài”. Kĩ năng viết cũng được hình thành cho học sinh khi viết các ý trọng tâm,
một số câu trả lời, nội dung chính của bài…
- Xem xét các đơn vị ngôn ngữ: Trong phân môn Tập đọc giáo viên xem xét từ hoạt động
trong câu như thế nào, câu trong đoạn trong bài nhằm giúp học sinh hiểu rõ về ý nghĩa
của từ và đọc tốt hơn, giáo viên cũng đưa ra một số câu dài để học sinh đọc, ngắt nghỉ,
đồng thời cho học sinh suy nghĩ lựa chọn đoạn khó đọc để cả lớp luyện đọc, sau đó giáo
viên là người sẽ lựa chọn lại đoạn khó và cần đọc.
- Tổ chức các hoạt động nói của học sinh để dạy Tiếng Việt, nghĩa là phải sử dụng giao
tiếp như một phương pháp dạy học chủ đạo tiểu học: Giáo viên thường tạo ra các nội
dung câu hỏi yêu cầu, tình huống giúp học sinh phát biểu trình bày ý kiến trước lớp và
cho cả lớp nhận xét câu trả lời của bạn, đồng thời khi học sinh nói chưa đúng giáo viên
chỉ ra và hướng dẫn học sinh cách sửa lại cho đúng. Hiện nay giáo viên đang dần áp dụng
phương pháp dạy học tích cực để học sinh là người chủ đạo tiếp nhận tri thức nhưng giáo
viên vẫn lo lắng học sinh sẽ không hiểu bài, chưa hiểu rõ nên vẫn thường hay nói “thay”
cho học sinh.
Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH
- Dạy Tiếng Việt phải chú ý đặc điểm tâm lí học sinh, đặc biệt là bước chuyển khó khăn
từ hoạt động chủ đạo là hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập: Thời gian cho học
sinh luyện đọc và tìm hiểu bài tương đối dài nên giáo viên khơng tổ chức các trị chơi, tuy
nhiên vẫn có những câu hỏi trắc nghiệm nhanh làm vào bảng nhằm giúp học sinh thi đua
với nhau.
- Các từ ngữ, câu hỏi sách giáo khoa và giáo viên đưa ra phù hợp với trình độ của các em.
Các câu hỏi của giáo viên và khi phát lệnh cho học sinh làm ngắn gọn, dễ hiểu.
Đánh giá các tiết dạy theo tiêu chí 1 giờ dạy tích cực
- Mọi học sinh đều được tham gia hoạt động: Các hoạt động đa số tất cả học sinh đều
tham gia bằng cách thay đổi các phương pháp như làm nhóm (nhóm 2 người, 1 bàn), làm
bảng con. Nhưng lên tiết dạy mẫu giáo viên thường gọi những em học sinh đọc tốt cho
các hoạt động về luyện đọc và đọc diễn cảm, cịn những em đọc yếu lại khơng được
luyện đọc trước lớp mà chỉ theo dõi.
- Tự học sinh sản sinh ra tri thức: Giáo viên đưa ra một loạt câu hỏi để học sinh tìm ra câu
trả lời và từ đó rút ra được ý của mỗi đoạn và nội dung của bài. Giáo viên cũng cho học
sinh suy nghĩ tư duy về hậu quả của việc viết chữ xấu để các em tự xem xét bản thân và
học tập tốt hơn. Với tiết dạy, giáo viên đã có sự hướng dẫn trước một số câu hỏi khó để
học sinh có thể trả lời, cũng như ở một số câu hỏi trắc nghiệm trong bài hay câu tục ngữ
khẳng định điều gì (giới thiệu chủ điểm) đa số học sinh đều trả lời đúng mà không nêu
lên quan điểm của học sinh.
- Khơng khí lớp học sinh động, vui vẻ, thoải mái: Trong tiết dạy thời gian tương đối dài
nhằm giúp học sinh luyện đọc và tìm hiểu bài kĩ nên các hoạt động “Kiểm tra bài cũ và
Giới thiệu bài”, đưa câu hỏi mở rộng kiến thức và kết hợp khun nhủ học sinh thì khơng
khí sinh động thoải mái hơn so với những hoạt động khác.
Bài: Chính tả (Nhớ - Viết) Nếu chúng mình có phép lạ - Lớp 4
Nguyên tắc phát triển tư duy
- Giáo viên phải ln đặt học trị phải tư duy liên tục, đồng thời tổ chức các hoạt động
giao tiếp: Trong tiết dạy giáo viên đi đúng trình tự các bước của bài. Với phần “Giới
thiệu bài” giáo viên đã đưa ra bức tranh mà học sinh đã được học trước đó và hỏi học
sinh bức tranh trong bài nào, khai thác hỏi học sinh bức tranh vẽ cảnh gì? Từ đó giúp học
sinh tư duy về bài đã học cũng như khơi gợi sự hứng thú. Các hoạt động được diễn ra liên
tiếp và giáo viên thường có câu chuyển sang các phần tiếp theo. Phần “Hướng dẫn viết
chính tả” giáo viên còn đưa ra những câu hỏi (Trong bài câu thơ nào được lặp lại nhiều
lần? Các bạn nhỏ trong đoạn thơ có ước mong gì?) Đây là bài chính tả nhớ viết thì với
cách hỏi giáo viên sẽ giúp học sinh phải nhớ lại bài thơ cũng như những chi tiết chính
trong bài. Trước khi viết bài giáo viên cũng hỏi học sinh (Những từ nào phải viết hoa?)
như vậy học sinh tự trả lời và biết cách viết hoa trong bài thơ.
- Những gì đưa ra phải giúp cho học sinh hiểu tường tận: Khi đưa ra các câu hỏi về sai
các từ khó trong bài, giáo viên đã làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn
ngữ (Hỏi học sinh thường hay sai tiếng nào trong từ đó, hay sai ở âm/vần nào); đồng thời
giáo viên cũng cho học sinh phân biệt các âm/vần dễ lần và tìm từ ghép với tiếng dễ
nhầm. Phần “Hướng dẫn làm bài tập” giáo viên cho học sinh làm với hình thức cá nhân
và làm bài theo tổ vào bảng con, sau đó cho học sinh tự giải thích ý nghĩa từng câu, sau
cùng giáo viên là người nhận xét và giải thích rõ.
Nguyên tắc giao tiếp
- Các hoạt động dạy học trong tiết chính tả khi lên lớp giáo viên ln giúp cho học sinh
hình thành các kĩ năng trên, chủ yếu nhiều nhất là hình thành kĩ năng viết: phần “Kiểm
tra bài cũ” giáo viên cho học sinh viết vào bảng con và 1 học sinh lên bảng viết (từ khác
với tập thể). Bài thơ cần viết 4 đoạn và giáo viên chia thành 4 tổ tương ứng mỗi tổ 1 đoạn
và cho học sinh viết từ khó vào bảng con, và rèn kĩ năng tốt nhất là học sinh tự nhớ bài
chính tả và viết ra, số lượng học sinh viết sai là rất ít chủ yếu sai 1 đến 2 lỗi. Bên cạnh đó
kĩ năng nghe và nói cũng được phát huy nhiều khi đó giáo viên sẽ đặt ra các yêu cầu để
học sinh thực hiện, học sinh sẽ nói lên quan điểm của mình hay sai những từ khó nào
trong bài. Kĩ năng đọc cũng được hình thành cho học sinh khi đọc các từ khó và những
yêu cầu trong phần bài tập củng cố, có đọc kĩ tốt yêu cầu bài thì học sinh mới có thể làm
bài được.
- Trong phân mơn Chính tả giáo viên xem xét từ khó, phân tích các âm/vần cũng như
phân biệt với cái từ dễ lẫn lộn và ghép tiếng khác nhằm giúp học sinh hiểu rõ về ý nghĩa
của từ và khi viết với đọc tránh sai.
- Giáo viên thường tạo ra các nội dung câu hỏi yêu cầu, để học sinh trả lời cũng như phát
biểu ý kiến, quan điểm của mình với từ khó dễ nhầm lẫn hay giải thích ý nghĩa các câu.
Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của HSTH
- Thời gian cho học sinh viết chính tả, sửa lỗi và làm bài tập tương đối dài nên giáo viên
không tổ chức các trò chơi.
- Các từ ngữ, bài tập sách giáo khoa và giáo viên đưa ra phù hợp với trình độ của các em.
Các câu hỏi của giáo viên và khi giáo viên phát lệnh cho học sinh làm ngắn gọn, dễ hiểu.
Đánh giá các tiết dạy theo tiêu chí 1 giờ dạy tích cực
- Mọi học sinh đều được tham gia hoạt động: Các hoạt động học sinh đều tham gia, có sự
kết hợp cá nhân và tập thể trong phần “Kiểm tra bài cũ” và làm bài tập 2, hoạt động theo
tổ trong việc tìm từ khó và làm bài tập 3. Tất cả học sinh đều tham gia viết bài và đổi vở
chấm chéo cho nhau dưới sự quản lí của giáo viên.
- Tự học sinh sản sinh ra tri thức: Với tiết dạy, giáo viên đã cho học sinh tự nói ra những
suy nghĩ quan điểm về bức tranh, câu hỏi mà giáo viên nêu ra trong bài. Nhưng ở phần từ
khó, giáo viên đã dặn trước học sinh mỗi nhóm là 1 từ khó, và đồng loạt học sinh đều ghi
vào bảng con như nhau.
- Khơng khí lớp học sinh động, vui vẻ, thoải mái: Tiết dạy diễn ra bình thường, học sinh
được nêu lên quan điểm mình trong phần đầu tiết học thoải mái hơn. Nhưng với thời gian
viết 1 phút 1 khổ thơ tự nhớ và ghi là tương đối nhanh khiến học sinh căng thẳng.
Yêu cầu 2: Các băn khoăn, thắc mắc của em khi tiếp cận thực tế với các tiết dạy học
Tiếng Việt ở trường tiểu học.
Băn khoăn, thắc mắc
Lí giải
Ý tưởng giải pháp
Khi dự giờ em thấy học
Em nghĩ không nên dạy
sinh đa số là trả lời được
trước và các câu trả lời
hết các câu hỏi của giáo
cũng không nên hướng
viên đưa ra mà không cần
Đa số các tiết dạy đã được
dẫn cho học sinh và chép
suy nghĩ, dù có nhiều câu
giáo viên dạy hướng dẫn
vào vở vì như vậy học sinh
tương đối khó. Với học sinh
trước. Giáo viên thường chỉ
sẽ khơng nêu lên quan
lớp 4 thì việc hồn chỉnh
gọi học sinh giỏi, đọc bài tốt,
điểm của mình với kiến
câu trả lời và cách tư duy
trả lời rõ ràng và chỉ gọi một
thức mới. Khi các câu hỏi
nếu có trả lời đúng thì cũng
vài học sinh đó. Các câu trả
khó trả lời thì giáo viên sẽ
khơng thể giống hồn tồn
lời cũng được giáo viên
đưa một vài câu hỏi gợi
đáp án của giáo viên. Đôi
hướng dẫn trước nên học
mở để các em rút ra được
khi có câu trả học sinh cầm
sinh trả lời như nhau.
câu trả lời cho câu hỏi giáo
vở của mình lên đọc ln.
viên đưa ra rước đó, cũng
Vậy kiến thức đó ở đâu khi
như tự học sinh khám phá
học sinh đang được học bài
tri thức mới
mới
Giáo viên khi viết thường
Nên chia bảng thành 3
không chia bảng
phần
Khi dạy phần chủ điểm mới,
Giáo viên có thể dành
giáo viên chỉ giới thiệu tranh
thêm thời gian để hỏi lại
và câu tục ngữ chủ điểm đó,
bài cũ mà học sinh đã học
vậy tại sao lại không kiểm
bên cạnh việc giới thiệu
tra bài cũ mà học sinh đã học
chủ điểm mới
Phần Luyện đọc sau khi giáo
Có thể giáo viên chuyển
viên đọc mẫu rồi hướng dẫn
phần đọc này sang phần
Có thể cho học sinh đọc
giọng đọc ngay sau đó lại
đọc diễn cảm. Vì phần đầu lại ngay sau khi giáo viên
không cho học sinh đọc lại
đọc diễn cảm giáo viên sẽ
đọc mẫu
(sau phần Luyện đọc là phần
gọi học sinh đọc trước
Tìm hiểu bài)
Tại sao giáo viên không
cho học sinh đọc diễn
Phần đọc diễn cảm, học sinh
Học sinh chú ý bài, lắng
cảm trước rồi tự tìm ra
nghe giáo viên đọc rồi đánh
nghe giáo viên đọc và tự
mình cần nhấn ở đâu. Sau
dấu những chỗ giáo viên
tìm ra những chỗ giáo viên
đó giáo viên chốt lại và
nhấn mạnh.
nhấn mạnh
giáo viên sẽ là người đọc
lại cuối cùng.
Nội dung kiểm tra bảng con
Cho học sinh được biết
của tập thể và cá nhân lại
thêm nhiều từ ngữ và tránh
khác nhau (ghi từ bài cũ)
ghi sai
Kiểm tra bài cũ và giới thiệu Đó là cách đơn giản và dễ
Có thể đưa ra nhiều cách
bài, giáo viên luôn chỉ đưa ra
tranh ảnh của bài học đã học gây hứng thú cho học sinh
và bài học mới
Trong việc tìm từ khó, đối
với mỗi học sinh từ khó là
Thời gian phân tích các từ
khác nhau vậy sao giáo viên khó là khơng đủ vì số lượng
chỉ đưa ra khoảng 3-5 từ
nhiều với mỗi học sinh là
khó/bài và hướng dẫn trước
khác nhau
cho học sinh
Thời gian nhớ viết cho 1 khổ
Học sinh viết 1 khổ thơ
thơ cho học sinh là 1
trong 1 phút là không kịp,
phút/khổ. Em quan sát khi
giáo viên vẫn quan sát
giáo viên cho viết khổ thơ
nhưng có thể khơng đủ thời
tiếp theo thì khổ trước đó HS
gian. Trong khi chính tả
vẫn chưa xong
nghe viết là 7-10 phút/bài
Phần bài tâp 3 (Chính tả),
Khi cho học sinh đọc cả câu
giáo viên cho học sinh đọc
sai học sinh dễ nhầm lẫn
đề và đọc cả câu sai (Bài 3:
còn với học sinh yếu có thể
Viết lại các câu cho đúng
sẽ nhớ ln những câu đó
chính tả)
khác nhau hơn là lúc nào
cũng đưa tranh dễ gây
nhàm chám cho học sinh
Giáo viên có thể cho học
sinh đọc bài tự tìm từ khó
viết vào bảng con, giáo
viên sẽ ghi lại từ khó đó
lên bảng.
Nên kéo dài thời gian viết
Chỉ cho học sinh đọc yêu
cầu đề bài
Sau 4 tuần thực tập tại trường Tiểu học Phan Chu Trinh – Lớp 4, thời gian tuy
không nhiều nhưng em đã học được thêm nhiều điều về công tác chủ nhiệm cũng như
chuyên môn giảng dạy. Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân em đã học tập được
cũng như vẫn còn một vài băn khoăn thắc mắc. Trong thời gian này bọn em chủ yếu được
dự giờ các khối các lớp là mơn Tốn nên những kinh nghiệm trong mơn Tiếng Việt cịn
chưa được nhiều cũng như có những sai sót. Mong thầy đọc và góp ý giúp em hồn thiện
hơn nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy sau này. Em xin chân thành cảm ơn!