Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

1 KHOÁ LUẬN TN NÂNG CAO NĂNG lực sức CHIẾN đấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.45 KB, 41 trang )

1

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định rõ mục tiêu tổng quát là: Nâng
cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hịa bình,
ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu trên trong thời gian qua, Đảng bộ xã Tả SìnThàng
huyện Tủa Chùa luôn chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
trong sạch vững mạnh, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phịng, an ninh.
Nhờ đó, đời sống người dân từng bước được nâng cao, diện mạo nông thôn ngày càng
được khởi sắc. Nhờ vậy, Đảng bộ xã thường xuyên đạt danh hiệu “Trong sạch, vững
mạnh xuất sắc”, đội ngũ đảng viên phát triển cả về số lượng và chất lượng, năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của các Chi, Đảng bộ cơ sở và toàn Đảng bộ ngày càng được nâng
cao. Các tổ chức cơ sở đảng luôn giữ vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo nhân dân thực
hiện đường lối Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Chủ động quán
triệt và cụ thể hóa đường lối của Đảng, từng bước thực hiện hóa trong đời sống nhân dân,
đảm bảo giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển, củng cố khối đoàn kết
toàn dân làm cho bộ mặt của Xã từng khởi sắc rõ nét. Tuy vậy, trong công tác xây dựng
đảng của Đảng bộ đang bộc lộ tồn tại, khuyết điểm đó là: năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Do đó, việc tập trung củng cố, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ và của toàn Đảng bộ là một nhiệm quan
trọng hiện nay.
Là một Đảng viên-Giáo viên công tác trên địa bàn, sau khi được học tập và nghiên



2

cứu chương trình lý luận Chính trị tại trường Chính trị tỉnh Điện Biên, bản thân được
trang bị lý luận một cách cơ bản, kết hợp với thực tiễn công tác tại địa phương Tôi chọn
đề tài :"Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở xã Tả
Sìn Thàng huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên trong giai đoạn hiện nay" làm khoá luận
tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Qua khảo sát thực tế vấn đề nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng tại Đảng ủy Tả Sìn Thàng hiện nay, nhằm đánh giá những ưu, khuyết điểm, rút ra
bài học kinh nghiệm. Qua đó đề xuất các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nhằm tham mưu cho các cấp lãnh đạo xem xét vận
dụng để đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới.
Xuất phát từ thực tiễn trên tôi chọn đề tài: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng ở xã Tả Sìn Thàng huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện
Biên trong giai đoạn hiện nay” làm khoá luận tốt nghiệp lớp Trung cấp LLCT-HC khóa
IX huyện Tủa Chùa.
2.2. Nhiệm vụ:
- Phân tích những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về tổ chức cơ sở đảng.
- Đánh giá thực trạng năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng
bộ xã Tả Sìn Thàng, nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng bộ xã Tả Sìn Thàng cho ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ mới.
3. Phạm vi nghiên cứu :
Trên cơ sở lý luận cơ bản về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Tổ chức cơ sở
đảng nói chung luận văn đi sâu nghiên cứu một tổ chức cơ sở đảng cụ thể là Đảng bộ xã
Tả Sìn Thàng năm 2021 và đề ra các giải pháp cho những năm tới.

4. Phương pháp nghiên cứu:


3

- Phương pháp luận: Đề tài triển khai dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về nội dung nghiên cứu.
Phương pháp cụ thể: Đề tài sử dụng phương pháp phân tích tài liệu tổng hợp, so
sánh, phân tích làm nổi bật vấn đề cần nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung chính của
luận văn được thể hiện trong 3 chương :
Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong tình hình hiện nay.
Chương II: Thực trạng về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng ở Đảng bộ xã Tả Sìn Thàng.
Chương III:Một số giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ xã Tả Sìn Thàng trong những năm tới.


4

B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I
Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng trong tình hình hiện nay
1. Khái niệm
1.1. Tổ chức cơ sở Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng được quy định tai Điều 21(Điều Lệ Đảng) như sau:

1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt
nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở
đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp, hợp tác xã, đơn vị sự
nghiệp, đơn vị quân đội, cơng an và các đơn vị khác có từ ba đảng viên chính thức trở lên,
lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp
trên trực tiếp xem xét, quyết định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho
phù hợp; nếu chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng
viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng
trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ sở, có các
chi bộ trực thuộc đảng uỷ.
5. Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp
trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.


5

- Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
Khái niệm trên chỉ rõ tổ chức cơ sở đảng được gọi chung cho cả chi bộ cơ sở và
đảng bộ cơ sở tùy thuộc vào số lượng đảng viên và yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của từng cơ
sở. Theo đó, hình thức tổ chức cơ sở Đảng cũng được phân ra nhiều loại khác nhau,
nhưng có 3 hình thức cơ bản sau:
- Cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức đến dưới 30 đảng viên thành lập chi bộ cơ sở,
dưới chi bộ có thể lập các tổ Đảng.
- Cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên thành lập Đảng bộ cơ sở và có các chi bộ trực
thuộc Đảng ủy cơ sở.

- Đảng bộ có số lượng đảng viên đơng, có thể thành lập Đảng bộ, bộ phận trực
thuộc Đảng uỷ cơ sở, dưới Đảng bộ, bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
- Những nơi do đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ muốn thành lập Đảng bộ cơ sở có
dưới 30 đảng viên, chi bộ cơ sở có trên 30 đảng viên hoặc thành lập Đảng bộ, bộ phận thì
phải được cấp uỷ cấp trên đồng ý mới thực hiện.
Nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII:
Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị tồn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương
thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, "lợi ích nhóm", những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hoá" trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp
chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố
lịng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin Covid-19 cho
cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mơ hình tăng trưởng,
cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền
kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa
các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; có


6

chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nơng nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu,
chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia,
phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển
kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở
hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự

phát triển của đất nước.
Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối
ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phịng, an ninh, xây dựng Qn đội
nhân dân, Cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số
lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng
Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên
quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo, vùng trời; giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định để phát triển đất nước.
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn
hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội
nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện
tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh
mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh
mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng
cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp
luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ
Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại
đoàn kết toàn dân tộc.


7

Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện
môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu,
thiên tai khắc nghiệt.
Cơng tác xây dựng chỉnh đốn Đảng: (Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII năm 2021)

Đại hội XIII khẳng định: “Công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ này đã đạt
được kết quả tồn diện, trong đó nổi bật là: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phịng, chống tham nhũng, tiêu cực; sắp xếp tổ chức
bộ máy, sáp nhập đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và tinh giản biên chế của hệ
thống chính trị; đổi mới cơng tác cán bộ và ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền;
tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ,
đảng viên vi phạm, khơng có vùng cấm, khơng có ngoại lệ. Kết quả của công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần rất quan
trọng để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay; Đảng ta đoàn
kết, thống nhất và trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được
củng cố, tăng cường hơn, tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước phát triển nhanh, bền
vững trong những năm tới”.
Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình trong nước, khu vực, thế giới và dự báo xu thế
phát triển của thời đại, Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng công tác xây
dựng Đảng trong nhiệm kỳ là: “Tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân. Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng,
đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến
đấu của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương thức lãnh đạo của Đảng. Phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết
là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Nâng cao hiệu quả cơng tác tư
tưởng, tạo sự thống nhất trong Đảng, đồng thuận trong xã hội; coi trọng hơn nữa công tác


8

đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tiếp tục đổi

mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội
ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu
dân, học dân của cán bộ, đảng viên. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa
Đảng với nhân dân, củng cố và không ngừng nâng cao niềm tin của nhân dân đối với
Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng
đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng, hồn thiện chính
sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; có cơ chế bảo vệ những cán bộ năng động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn,
thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, đồng thời xử lý nghiêm các trường
hợp vi phạm. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng và
kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Đẩy mạnh đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng
phí” .
(2)

Đại hội XIII thực hiện đánh giá kết quả việc thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp
về xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đại hội XIII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ,
giải pháp đồng bộ về công tác xây dựng Đảng để thực hiện, trong đó có nhiều nội dung
được bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
cơng tác xây dựng Đảng trong tình hình mới. Cụ thể như sau:
1- Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị
Đại hội tiếp tục nhấn mạnh phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; kiên định đường
lối đổi mới và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng; chỉ rõ định hướng vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đồng thời, Đại hội XIII bổ sung,
phát triển các nội dung mới là: Thực hiện nghiêm các nguyên tắc, cơ chế, quy định và
thực hành dân chủ gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng. Coi trọng nâng


9


cao năng lực dự báo và ứng phó với các thách thức, biến động của tình hình. Khi hoạch
định chủ trương, giải pháp phải đánh giá tác động và cân đối, bố trí nguồn lực để tổ chức
thực hiện có hiệu quả; hình thành cơ chế tổ chức thực hiện nghị quyết bài bản, nghiêm
túc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ, xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân.
2- Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng
Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng; tuyên truyền sâu
rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nước, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của các
cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân; khơng ngừng nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, tệ quan liêu, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, nói khơng đi đơi với làm trong cán
bộ, đảng viên. Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường
xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động cung cấp thơng tin
kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phịng, chống “diễn biến hịa bình”,
các thông tin xấu, độc trên Internet và mạng xã hội.
Thực hiện tốt việc quy hoạch các cơ quan báo chí phù hợp với tình hình mới; tập
trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có bản
lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực, nghiệp vụ giỏi để nâng cao hiệu quả công
tác tuyên truyền; phát huy hơn nữa vai trò của văn học - nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng;
đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ để phục vụ cho công tác tuyên
truyền, bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng.
Nâng tầm tư duy lý luận của Đảng. Tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận mới,
khó, phức tạp, nhạy cảm phát sinh từ thực tiễn hoặc tồn tại trong thời gian dài; những vấn
đề chưa rõ về cơ sở lý luận, cịn ý kiến khác nhau thì mạnh dạn thí điểm, tổng kết kịp thời
để có kết luận nhằm thống nhất nhận thức trong Đảng; tạo cơ chế, mơi trường thuận lợi và
bố trí nguồn lực cần thiết cho nghiên cứu lý luận. Có cơ chế, chính sách thu hút, sử dụng,
đãi ngộ các chuyên gia đầu ngành.
Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo



10

hướng khoa học, sáng tạo và hiện đại. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa học tập lý luận với
rèn luyện, thử thách cán bộ trong thực tiễn; khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận
chính trị trong cán bộ, đảng viên. Quan tâm chăm lo xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống các trường chính trị; thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất,
năng lực của đội ngũ giảng viên chính trị, báo cáo viên.
3- Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức
Kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI và Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng bằng các giải pháp
mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ. Thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương
đến chi bộ; cấp ủy cấp trên chủ động gợi ý kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân ở những
nơi có vấn đề phức tạp, có biểu hiện suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; coi trọng
kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với
điều kiện mới và truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để làm cơ sở cho cán bộ, đảng
viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, tự điều chỉnh hành vi ứng xử trong công việc hằng ngày.
Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận
và trách nhiệm của mình, ln vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị
cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng. Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và nêu cao danh dự, lòng tự trọng
của người đảng viên. Kịp thời biểu dương những điển hình tiên tiến, những tấm gương
sáng về đạo đức, lối sống; đấu tranh mạnh mẽ với các biểu hiện lệch lạc và xử lý nghiêm
những hành vi vi phạm đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Thực hiện nghiêm các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo và người đứng đầu các cấp; cán bộ có chức vụ càng cao càng phải
gương mẫu. Nêu gương phải trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh
đạo của Đảng. Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với phát huy vai
trò giám sát của báo chí và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của

cán bộ, đảng viên.


11

Kết hợp giữa giữ vững kỷ luật, kỷ cương của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà
nước với giáo dục, bồi dưỡng nhân cách, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Thực
hiện có hiệu quả việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã
hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu và cán bộ chủ chốt.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục chỉ rõ về việc “Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên” Đại hội đưa ra: “Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng tồn diện; tăng cường
bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt cơng tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng,
bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường cơng tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh
phịng, chống tham nhũng và cơng tác dân vận của Đảng”.
Những nghị quyết của Đảng về xây dựng tổ chức cơ sở đảng đó thể hiện rõ quan
điểm của Đảng ta về vị trí, vai trị và tầm quan trọng của việc xây dựng, củng cố, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Đây là vấn đề then chốt
của nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định đến sự sống cịn của Đảng và sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết Đại hội Đảng đã đề ra
và đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, Đảng phải
có những biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục
củng cố, chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của mình để
ngày càng vững mạnh về mọi mặt, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng trong giai

đoạn hiện nay. Lãnh đạo kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, coi
trọng tổng kết cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, tăng cường
bản chất giai cấp cơng nhân và tính tiên phong của Đảng, ngăn chặn khuynh hướng hạ


12

thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao trình độ hiệu
quả lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và tồn xã hội.
1.2. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
Là tổng hợp các thuộc tính cơ bản của người lãnh đạo, nhằm đáp ứng những yêu
cầu và hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động đạt hiệu quả cao. Đó là khả
năng đề ra chủ trương, đường lối và nhiệm vụ chính trị sát thực với thực tế ở địa phương
và là khả năng thực hiện chủ trương thực hiện công tác kiểm tra. Năng lực lãnh đạo gồm
hai yếu tố: năng lực hiểu biết và năng lực tổ chức thực hiện.
Năng lực hiểu biết. là tri thức toàn diện, khả năng nhận thức quan điểm, đường lối
chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để vận dụng sáng
tạo, khoa học, phù hợp thực tiễn, có hiệu quả cao.
Năng lực tổ chức. là khả năng đề ra chủ trương, phương hướng công tác đúng của
Đảng bộ, tổ chức thực hiện chủ trương, phương hướng đó tại cơ sở đạt hiệu quả cao: kiểm
tra, tổng kết, rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện các chủ trương cơng tác của Đảng
bộ.
Để có được năng lực lãnh đạo, người cán bộ, đảng viên phải có trình độ chun
mơn kỹ thuật nghiệp vụ tốt, phải nắm vững, quán triệt chủ trương đường lối, nghị quyết
của Đảng, Nhà nước và cấp trên. Hiểu biết sâu sắc về công nghệ tiến tiến để áp dụng vào
công việc của mình. Đồng thời, nắm vững tình hình đặc điểm của đơn vị, khai thác thế
mạnh, tiềm năng và tổ chức vận dụng sáng tạo, biết tổ chức, vận động quần chúng thực
hiện nghị quyết của Đảng.
Biết tổ chức bộ máy hoạt động có hiệu quả, tích cực áp dụng các tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào công tác và đời sống. Năng lực lãnh đạo còn thể hiện ở năng lực kiểm tra các

tổ chức, đoàn thể và mỗi người thực hiện nghị quyết trên cơ sở đó, rút ra kinh nghiệm,
phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm để tổ chức thực hiện nghị quyết sau tốt hơn.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng thể hiện trước hết ở năng lực ban hành
nghị quyết; năng lực tuyên truyền cổ động, đưa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước vào thực tiễn cuộc sống; ở năng lực tổ chức, tập hợp, vận động quần chúng thực


13

hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và ở năng lực kiểm tra, giám sát và xử
lý các tình huống trong thực tế lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động ở cơ sở. Đây là 4 nội dung cơ
bản, quan trọng thể hiện năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng nói chung.
Biểu hiện về năng lực lãnh đạo của Đảng, Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khái quát như sau:
- Năng lực cụ thể hố đường lối, chính sách của Đảng các cấp.
- Năng lực tổ chức và chỉ đạo thực hiện nghị quyết, nhiệm vụ chính trị.
- Năng lực tổng kết lý luận-thực tiễn.
- Năng lực lãnh đạo hệ thống chính trị ở cơ sở và sự gắn bó với nhân dân.
Thước đo năng lực lãnh đạo là hiệu quả thực tế được thể hiện ở hiệu quả phát triển
kinh tế - văn hố - xã hội, an ninh - quốc phịng. Cho nên khơng thể nói tổ chức cơ sở
đảng đạt trong sạch vững mạnh khi địa bàn đó xảy ra khiếu kiện tràn lan, tệ nạn xã hội,
tình trạng quan liêu, tham nhũng,...
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng được thể hiện ở sự đoàn kết thống nhất ý
chí và hành động; ở chất lượng đội ngũ, đảng viên trong đảng bộ; ở việc cụ thể hoá các
nghị quyết của cấp trên thành nhiệm vụ chính trị của đơn vị; ở việc xây dựng đảng bộ, chi
bộ trong sạch vững mạnh và ở khả năng lãnh đạo quần chúng thực hiện nghị quyết của
Đảng.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng không phải tự nhiên
mà có, nó phải được phấn đấu, rèn luyện và xây dựng thông qua chất lượng đội ngũ cán
bộ, đảng viên và của từng tổ chức đảng. Phải từ hiệu quả công tác lãnh đạo thực hiện các

nhiệm vụ chính trị để tạo dựng uy tín, lịng tin. Vị trí, vai trị lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng chỉ có thể được khẳng định trên cơ sở kết quả cụ thể đó đạt được và qua thực tiễn
kiểm nghiệm. Nghị quyết của Đảng chỉ đi vào cuộc sống và được cuộc sống đón nhận,
nếu nó phù hợp với điều kiện thực tế của đơn vị và đáp ứng được những nguyện vọng, lợi
ích hợp pháp, chính đáng của đông đảo quần chúng.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được thể hiện ở việc thực hiện các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; ở kết quả xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch


14

vững mạnh và chất lượng đội ngũ đảng viên.
Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
khái quát như sau:
- Ý chí phấn đấu quyết tâm hồn thành nhiệm vụ chính trị;
- Phẩm chất đạo đức, tác phong lối sống của cán bộ, đảng viên;
- Tinh thần tự phê bình và phê bình, sự đồn kết thống nhất nội bộ.
* Mối quan hệ giữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng:
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là hai yếu tố tạo nên sự lãnh đạo của Đảng.
Nếu thiếu một trong hai yếu tố đó thì Đảng khơng giữ được vai trị lãnh đạo cách mạng và
Đảng không thể tồn tại được. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là mối liên hệ
hữu cơ chặt chẽ, chúng thâm nhập vào nhau, tác động thúc đẩy nhau, làm tiền đề để tồn
tại và phát triển của nhau. Đó là mối liên hệ nhân quả trong sự lãnh đạo cách mạng của
Đảng. Năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên bao nhiêu thì sức chiến đấu của
Đảng càng được củng cố bấy nhiêu, ngược lại sức chiến đấu càng được củng cố, nâng cao
thì năng lực lãnh đạo của Đảng càng được nâng lên.
Khi năng lực lãnh đạo của đảng được nâng lên, đảng có nhận thức lý luận sâu
rộng, có tư duy khoa học, nắm bắt được quy luật vận động của sự vật, đủ kiều kiện vận
dụng tri thức khoa học và tổ chức thực tiễn, đưa ra chủ trương, chính sách đúng đắn, phù

hợp với nguyện vọng của quần chúng, cổ vũ phong trào cách mạng, thì khối đoàn kết
trong đảng được củng cố, sức chiến đấu trong đảng được tăng cường.
Việc nâng cao năng lực lãnh đạo luôn gắn với việc nâng cao sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị là yêu cầu quan trọng trong giai đoạn
hiện nay. Sự kiện sụp đổ Liên Xô và các nước Đông Âu là một thực tế chứng minh cho
sự thành công hay thất bại của cách mạng là tùy thuộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Khi Đảng giảm sút ý chí chiến đấu thì sẽ đưa sự nghiệp cách
mạng đến những sai lầm và tổn thất nghiêm trọng.
2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của


15

Đảng về tổ chức cơ sở đảng.
2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng cộng sản, mỗi cấp có vị trí, chức năng,
nhiệm vụ khác nhau. Cấp cơ sở được xác định là cấp nền tảng của đảng, của hệ thống
chính trị, là nơi trực tiếp triển khai và tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng và
của cấp trên, biến đường lối, nghị quyết của đảng các cấp thành hiện thực; đồng thời là
nơi mà mọi hoạt động xây dựng nội bộ Đảng được tiến hành.
C.Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập đến khái niệm tổ chức cơ sở Đảng, nhưng các
ông là những người đầu tiên đưa ra những tư tưởng, quan điểm về vị trí, vai trị quan
trọng của các tổ chức đảng ở cơ sở (chi bộ). Mác và Ănghen cũng là những người đầu
tiên xây dựng những chi bộ của “Đồng minh những người cộng sản” - Đảng Cộng sản
đầu tiên trên thế giới. Những tư tưởng cơ bản của Mác và Ăngghen về tổ chức đảng ở cơ
sở trong hệ thống tổ chức đảng bước đầu hình thành với những quy định trong Điều lệ
của “Hội liên hiệp công nhân quốc tế” do hai ông khởi thảo, trong đó đã xác định: Nhiều
chi bộ hợp thành một công xã gồm từ ba đến hai mươi thành viên, đó là “hạt nhân” của
cơng tác chính trị của Đảng trong quần chúng lao động. Đảng phải “Biến mỗi chi bộ của
mình thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội cơng nhân, trong đó, lập trường và

lợi ích của giai cấp vơ sản có thể đưa ra thảo luận độc lập với những ảnh hưởng tư
sản”1. Đó là những quan niệm đầu tiên của Mác và Ăng ghen về vị trí, vai trị của tổ chức
cơ sở đảng.
Nhận thức ra vị trí, vai trị quan trọng của các tổ chức Đảng ở cơ sở, trong suốt
cuộc đời hoạt động của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen ln chăm lo xây dựng Đảng, xây
dựng các chi bộ đảng ở cơ sở, gắn với các hoạt động của quần chúng ở cơ sở. Những
quan điểm lý luận của các ơng đó trở thành lý luận quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng ở các giai đoạn sau này.
Sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, V.I.Lênin là người kế tục sứ mệnh của hai
ông. Lênin khẳng định: Đảng phải là tổ chức chính trị cao nhất, có tổ chức chặt chẽ của
1

C.Mác và Ph.Ănghen: Tồn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr.348.


16

giai cấp công nhân. Trong việc xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng, Lênin đặc biệt chú ý
đến xây dựng các “nhóm” các “tiểu tổ” cơng tác ở các công xưởng, nhà máy, hầm mỏ
(các tổ chức đảng ở cơ sở). Người coi đó là nhiệm vụ đầu tiên và cấp thiết của Đảng, để
Đảng thật sự là cơ thể sống bám chắc vào cơ sở, vào quần chúng lao động từ Trung ương
đến địa phương.
Trong cuộc đấu tranh để xây dựng “Đảng kiểu mới” của giai cấp công nhân,
V.I.Lênin hết sức coi trọng chăm lo xây dựng các tiểu tổ công nhân dân chủ-xã hội, phát
triển những tiểu tổ đó trở thành những chi bộ cơ sở trong các nhà máy, cơng xưởng, khu
dân cư của Đảng Bơnsêvích Nga.
Khi Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga giành
thắng lợi, đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của đảng cầm quyền, các tổ
chức đảng ở các địa phương, nhà máy, công xưởng... không ngừng tăng lên về số lượng
và đa dạng về nội dung hoạt động,V.I.Lênin xác định rõ hơn vai trò của các tổ chức cơ sở

Đảng. Người nhấn mạnh: "Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương
Đảng, phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền,
công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại
và mọi tầng lớp quần chúng lao động. Những chi bộ ấy phải thơng qua cơng tác mn
hình mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện Đảng, giai cấp, quần chúng lao
động một cách có hệ thống để lãnh đạo và qua đó rèn luyện bản thân Đảng”2.
Bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của mỗi tổ chức đảng ở cơ sở là hai mặt của một vấn đề. Một mặt, Lênin phê
phán gay gắt những biểu hiện tự do, cục bộ, tuỳ tiện ở từng tổ chức Đảng địa phương và
cơ sở, là nguy cơ phá vỡ tính tập trung thống nhất của tổ chức Đảng và Nhà nước Xôviết. Khi cách mạng chuyển từ thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính
sách kinh tế mới” là một bước đột phá lớn trong tư duy nhận thức của Đảng cầm quyền
lãnh đạo kinh tế, V.I.Lênin cho rằng, trách nhiệm đó khơng chỉ của Ban Chấp hành Trung
ương, mà của từng tổ chức cơ sở Đảng và mỗi Đảng viên. Chỉ trên cơ sở tăng cường vai
2

V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.232-233.


17

trị lãnh đạo, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì những nhiệm vụ của Đảng
bơnsêvích và chính quyền Xơ-viết mới thành cơng.
Từ những quan điểm nêu trên cho thấy, ngay từ khi có tổ chức Đảng Cộng sản đầu
tiên và trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng của các Đảng cộng sản, C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, đều khẳng định: Tổ chức cơ sở Đảng giữ vị trí, vai trị quan
trọng trong q trình hình thành, phát triển và trong sự lãnh đạo cách mạng của đảng.
Đảng mạnh là nhờ các tổ chức cơ sở đảng mạnh. Những luận điểm và tư tưởng đó đã soi
sáng cho công tác xây dựng Đảng trong mọi thời kỳ và ngày nay đó trở thành cơ sở lý
luận cho quá trình xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng của
Đảng ta.

2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
Vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về chính Đảng vơ sản, Hồ
Chí Minh đó có nhiều đóng góp quan trọng trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong hành trình tìm đường cứu nước, mối quan tâm lớn của Hồ Chí Minh là bằng cách
nào để tập hợp được lực lượng dân tộc thành một khối đoàn kết, thống nhất. Câu hỏi đó
đã được giải đáp khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa
Mác-Lênin khơng những đã chỉ ra mục tiêu, lý tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, mà cịn cung cấp một khoa học về tổ chức lực lượng giai cấp
và dân tộc để thực hiện cuộc cách mạng. Người viết: Muốn làm cách mệnh thì "Trước
hết phải có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”3.
Trên những định hướng ấy, ngay từ Điều lệ vắn tắt của Đảng do Hồ Chí Minh
soạn thảo được thơng qua tại Hội nghị thành lập Đảng 3-2-1930 đó chỉ rõ cách thức tổ
chức Đảng từ Trung ương đến chi bộ. Trong đó, "Chi bộ gồm tất cả đảng viên trong một
nhà máy, một công xưởng, một hầm mỏ, một sở xe lửa, một chiếc tàu, một đồn điền, một
đường phố...”.
3

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.5.


18

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề xây dựng chi bộ trong nhà
máy, xí nghiệp, khu dân cư,... được Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và có những chỉ đạo
kịp thời. Nhờ sự chăm lo đó, Đảng ta khơng ngừng vững mạnh từ Trung ương đến cơ sở,
bảo đảm đủ sức lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945, giữ vững chính quyền
nhân dân trong những năm 1945-1946, lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ thành công, đưa cả nước q độ lên chủ nghĩa xã hội.

Khi hồ bình lập lại trên miền Bắc, mỗi lúc đến thăm đơn vị cơ quan, trường học,
bệnh viện, đơn vị sản xuất,... Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh yêu cầu củng cố vai trị lãnh
đạo của chi bộ. Từ thực tế cơng tác xây dựng Đảng, Người đó rút ra nhận xét: "chi bộ là
nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc đều tốt". Từ đó, Người theo dõi sát sao diễn
biến từng chi bộ điển hình cũng như chi bộ yếu kém, viết báo và gửi thư khen ngợi những
chi bộ tốt, phê bình những chi bộ yếu kém và gợi ý phương pháp sửa chữa.
Trong bài nói tại Hội nghị tổng kết 3 năm xây dựng chi bộ và Đảng bộ "bốn tốt"
(4-1966), Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Xây dựng chi bộ cho tốt, cho vững mạnh là một
việc vô cùng quan trọng”4. Người đã đưa ra các tiêu chí đánh giá chi bộ "bốn tốt" là:
Đảng viên gương mẫu trong mọi công việc, liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nội bộ thật
sự đoàn kết; chấp hành tốt đường lối, chính sách của Đảng, lãnh đạo tốt sản xuất và
chiến đấu; một lòng một dạ phục vụ nhân dân, thiết thực chăm lo đến đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân; đối với Đảng thì củng cố tốt và phát triển tốt 5. Để các chi bộ
ngày càng vững mạnh, Người yêu cầu phải phát huy tinh thần tự phê bình và phê bình,
phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng; "Huyện uỷ, Thành uỷ, Tỉnh uỷ cần phải đi sâu ,đi
sát đến các chi bộ, cần phải giúp đỡ các chi bộ một cách thiết thực và thường xuyên. Các
tỉnh uỷ, thành uỷ, huyện uỷ cần chỉ đạo riêng chi bộ để rút kinh nghiệm về xây dựng chi
bộ "bốn tốt”6. Trong Di chúc, điều đầu tiên mà Người căn dặn cũng là "nói về Đảng":
"Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí như
giữ gìn con ngươi của mắt mình"7. “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo
4

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.77.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79.
6
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79.
7
Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.510.
5



19

quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được
trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”8.
2.3. Quan điểm của Đảng về tổ chức cơ sở đảng
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng,
củng cố tổ chức cơ sở đảng là cơ sở lý luận đó được Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo
trong thực tiễn xây dựng Đảng ta trong hơn 80 năm qua.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định tổ chức
cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Trong cách mạng dân tộc
dân chủ, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần
chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức đảng. Nhưng mặt khác, sự yếu kém của nhiều tổ
chức cơ sở đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng. Bởi vì:
- Tổ chức cơ sở đảng là cầu nối liền các cơ quan lãnh đạo của Đảng với quần
chúng nhân dân, trực tiếp gắn bó Đảng với dân. Mọi tâm tư, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân được phản ánh kịp thời lên tổ chức đảng cấp trên trước hết và chủ yếu là thông
qua chi bộ, đảng bộ ở cơ sở.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước vào quần chúng và tổ chức cho quần chúng thực hiện thắng
lợi trong thực tiễn.
- Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, kết nạp và sàng lọc đảng
viên; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng, của Nhà nước và các tổ
chức khác; là cửa ngõ quan trọng bảo đảm tính tiên phong, tính trong sạch của Đảng.
3. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
3.1. Về mặt lý luận
Trong hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng cộng sản, mỗi cấp có vị trí, chức năng,
nhiệm vụ khác nhau. Cấp cơ sở được xác định là cấp nền tảng của Đảng, của hệ thống
chính trị, là nơi trực tiếp triển khai và tổ chức thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng và
của cấp trên, biến đường lối, nghị quyết của Đảng các cấp thành hiện thực; đồng thời là

8

Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.23.


20

nơi mà mọi hoạt động xây dựng nội bộ Đảng được tiến hành.
Trong các tác phẩm của mình, C. Mác và Ph.Ăngghen chưa đề cập đến khái niệm
tổ chức cơ sở (TCCS) Đảng, nhưng các ông là những người đầu tiên đưa ra những tư
tưởng, quan điểm về vị trí, vai trò quan trọng của các tổ chức đảng ở cơ sở (chi bộ). Mác
và Ănghen cũng là những người đầu tiên xây dựng những chi bộ của “Đồng minh những
người cộng sản”. Những tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ăngghen về tổ chức đảng ở cơ
sở trong hệ thống tổ chức đảng bước đầu hình thành với những quy định trong Điều lệ
của“Hội liên hiệp công nhân quốc tế” do hai ơng khởi thảo, trong đó đã xác định: Nhiều
chi bộ hợp thành một công xã gồm từ ba đến hai mươi thành viên, đó là “hạt nhân” của
cơng tác chính trị của Đảng trong quần chúng lao động. Đảng phải “Biến mỗi chi bộ của
mình thành trung tâm và hạt nhân của các hiệp hội công nhân, trong đó, lập trường và
lợi ích của giai cấp vơ sản có thể đưa ra thảo luận độc lập với những ảnh hưởng tư
sản”9. Đó là những quan niệm đầu tiên của Mác và Ăng ghen về vị trí, vai trị của TCCS
Đảng.
Nhận thức rõ vị trí, vai trị quan trọng của các tổ chức đảng ở cơ sở, trong suốt
cuộc đời hoạt động của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen ln chăm lo xây dựng Đảng, xây
dựng các chi bộ đảng ở cơ sở, gắn với các hoạt động của quần chúng ở cơ sở. Những
quan điểm lý luận của các ông đã trở thành lý luận quan trọng trong công tác xây dựng
Đảng ở các giai đoạn sau này.
Khi Đảng lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga giành
thắng lợi, đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của đảng cầm quyền, các tổ
chức đảng ở các địa phương, nhà máy, công xưởng... không ngừng tăng lên về số lượng
và đa dạng về nội dung hoạt động, V.I. Lênin xác định rõ hơn vai trò của các TCCS Đảng.

Người nhấn mạnh: "Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng,
phải trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền, công
tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất cả mọi loại và
mọi tầng lớp quần chúng lao động. Những chi bộ ấy phải thông qua cơng tác mn hình
9

C.Mác và Ph.Ănghen: Tồn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr.348.


21

mn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng lao động
một cách có hệ thống để lãnh đạo và qua đó rèn luyện bản thân Đảng”10.
Khi cách mạng chuyển từ thực hiện “Chính sách cộng sản thời chiến” sang
“Chính sách kinh tế mới” là một bước đột phá lớn trong tư duy nhận thức của đảng cầm
quyền lãnh đạo kinh tế, V.I. Lênin cho rằng, trách nhiệm đó khơng chỉ của Ban Chấp
hành Trung ương, mà của từng TCCS Đảng và mỗi đảng viên. Chỉ trên cơ sở tăng cường
vai trò lãnh đạo, phát huy tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì những nhiệm vụ của Đảng
Bơnsêvích và chính quyền Xơ - viết mới thành công.
Từ những quan điểm nêu trên cho thấy, ngay từ khi có tổ chức Đảng Cộng sản đầu
tiên và trong suốt quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng của các Đảng cộng sản, C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I. Lênin, đều khẳng định: TCCS Đảng giữ vị trí, vai trị quan trọng
trong q trình hình thành, phát triển và trong sự lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đảng
mạnh là nhờ các tổ chức cơ sở Đảng mạnh. Những luận điểm và tư tưởng đó đã soi sáng
cho cơng tác xây dựng Đảng trong mọi thời kỳ và ngày nay đã trở thành cơ sở lý luận cho
quá trình xây dựng Đảng và nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở Đảng.
Đảng ta cũng rất quan tâm đến việc xây dựng TCCSĐ, coi các TCCSĐ là cấp tổ
chức nền tảng, là những đơn vị chiến đấu cơ bản, những tế bào của Đảng; chất lượng của
các đảng bộ, chi bộ cơ sở là nhân tố cơ bản tạo nên chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với
quá trình cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, những thành tựu đã đạt

được, những tiềm năng được khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ nỗ
lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở, mà hạt nhân là tổ chức đảng. Tại Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở”. Tổ chức cơ sở đảng có vị trí, vai trị đặc biệt
quan trọng trong cơng tác xây dựng Đảng, trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước.
Những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng, củng cố TCCS Đảng là cơ sở lý luận được Đảng ta vận dụng đúng đắn, sáng tạo
10

V.I. Lênin: Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tr.232-233.


22

trong thực tiễn xây dựng Đảng ta hơn 80 năm qua. Về vấn đề này hiện nay, chúng ta cần
nhận thức sâu sắc một số quan điểm xuất phát của Đảng ta để xây dựng, củng cố TCCS
Đảng:
3.2. Về mặt thực tiễn
Đảng Cộng sản Việt Nam là một cấu trúc chỉnh thể gồm 4 cấp, được thiết lập
tương ứng với các đơn vị hành chính, mà tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) là cấp cuối cùng.
Trong công tác xây dựng đảng, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy, Đảng ta luôn coi trọng
xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng.
Mỗi loại hình cơ sở Đảng có những đặc trưng riêng, trong đó tổ chức cơ sở Đảng
được thiết lập theo địa bàn dân cư nhằm bảo đảm vai trị lãnh đạo của Đảng ở xã Tả Sìn
Thàng.
Về cơ bản, trong những năm qua các TCCSĐ ở Tả Sìn Thàng đã thể hiện được vai
trị là hạt nhân chính trị, vai trị lãnh đạo tồn diện các mặt hoạt động ở cơ sở: hoàn thành
tốt năm nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở; năng động trong việc cụ thể hóa các chủ
trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào điều kiện cụ thể

của địa phương; chăm lo phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống của
nhân dân, đảm bảo quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội...
Tuy nhiên, trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới, các TCCSĐ, đặc biệt là ở Tả
Sìn Thàng cịn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế. Đó là cấp ủy còn bao biện, làm thay một số
nhiệm vụ của chính quyền và đồn thể; nhiều nơi cấp ủy chưa thực sự quan tâm đến công
tác đào tạo, bồi dưỡng và kiểm tra cán bộ đảng viên, chưa ngăn chặn kịp thời, có kết quả
đối với những hiện tượng tiêu cực, cửa quyền, tham nhũng; năng lực lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ chính trị, nhất là lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội cịn yếu; tình trạng mất đồn
kết nội bộ và những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ còn khá phổ biến.
Trong những năm qua, tổ chức cơ sở Đảng của Đảng ủy Tả Sìn Thàng huyện Tủa
Chùa, tỉnh Điện Biên cũng khơng nằm ngồi tình hình chung đó. Bên cạnh những tổ chức
cơ sở Đảng khơng ngừng vươn lên thì vẫn cịn một số tổ chức cơ sở Đảng chưa chỉnh đốn
triệt để, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới,


23

tự phê bình và phê bình chưa tự giác, chất lượng của tổ chức Đảng và đảng viên đạt kết
quả chưa cao, sinh hoạt đảng cịn hình thức, quản lý cán bộ đảng viên chưa chặt
chẽ….Tất cả những hạn chế đó nếu khơng chấn chỉnh kịp thời sẽ ảnh hưởng đến vai trò
lãnh đạo của Đảng bộ huyện trong thời gian tới - một giai đoạn rất nhạy cảm với nhiều
thời cơ song cũng khơng ít nguy cơ thách thức.
3.3. Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị. Ban Bí thư đã có
nhiều chủ trương, giải pháp về xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng sinh hoạt
chi bộ. Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, đảng các cấp, tổ chức đảng đã tập trung
lãnh đạo, tạo được một số chuyển biến tích cực về cơng tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Đa số cán bộ, đảng viên phát huy vai trò tiên phong, năng động sáng tạo, giữ gìn

phẩm chất đạo đức…
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trị của tổ chức cơ sở đảng trong những năm qua công
tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Xã Tả Sìn Thàng đã có nhiều chuyển biến tích cực trên
nhiều lãnh vực: Đã lãnh đạo các đơn vị hồn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình; tính
tiên phong gương mẫu của đảng viên được phát huy; mối quan hệ giữa Đảng, chính
quyền và Mặt trận các đồn thể với quần chúng nhân dân đã có sự gắn bó chặt chẽ, nội bộ
đồn kết thống nhất, cấp ủy thực sự là hạt nhân lãnh đạo ở đơn vị.
Tuy nhiên, vẫn cịn khơng ít tổ chức cơ sở đảng và chi bộ yếu kém; một bộ phận
cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đảng viên cán bộ lãnh đạo, quản lý, suy thối về phẩm
chất chính trị và đạo đức, lối sống; cấp ủy, chi bộ chưa thực hiện nghiêm túc chế độ sinh
hoạt đảng, buông lỏng công tác quản lý, giáo dục đảng viên; nội dung sinh hoạt cịn
nghèo nàn, thiếu nội dung chính trị, tư tưởng cụ thể; tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính
chiến đấu, tinh thần tự phê bình, phê bình yếu, ý thức tổ chức, kỷ luật yếu kém; tình thần
đồn kết và tình thương u đồng chí bị giảm sút; chi bộ chưa thực sự là nơi sinh hoạt tư
tưởng để cấp ủy nắm và hiểu tâm tư, nguyện vọng của đảng viên; chi bộ chưa thể hiện tốt


24

vai trò là nơi lãnh đạo, giáo dục, quản lý, giám sát và rèn luyện đội ngũ đảng viên. Tình
hình đó làm suy giảm lịng tin của nhân dân đối với Đảng, giảm năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng uỷ.
4. Tiểu kết chương I
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cho cơ sở đảng là một trong những
nhiệm vụ thường xuyên trong công tác xây dựng Đảng. Đây là nhân tố quan trọng có ý
nghĩa tăng cường sức mạnh củng cố và đảm bảo cho sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn
xã hội đối với Đảng uỷ xã Tả Sìn Thàng nói riêng và của tồn xã hội nói chung. Thơng
qua việc khảo sát, nắm bắt tình hình thực tế tại Đảng uỷ xã vấn đề nâng cao năng lực và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng tại Đảng ủy Tả Sìn Thàng hiện nay chưa thực sự
đáp ứng với yêu cầu thời đại mới. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số đồng chí

trong các vị trí chủ chốt chưa cao, chưa mạnh bạo, trong công tác xây dựng đảng của
Đảng bộ đang bộc lộ nhiều tồn tại, khiếm khuyết chưa ngang tầm với nhiệm vụ thời đại.

Chương II
Thực trạng về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở Đảng bộ
xã Tả Sìn Thàng.
1. Khái quát những đặc điểm tình hình
Đặc điểm tự nhiên: Xã Tả Sìn Thàng là một xã trung tâm trong cụm 5 xã phía bắc
của huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên, tiếp giáp với các xã Sín Chải, xã Lao Xả Phình và
xã Tả Phìn. Tả Sìn Thàng là xã vùng sâu, vùng xa của huyện Tủa Chùa.
Xã Tả Sìn Thàng có diện tích tự nhiên 5.014,10 ha và được chia làm 7 thôn bản
với tổng số hộ 681 hộ; số khẩu 3.705 khẩu gồm 2 dân tộc cùng chung sống, trong đó:
Dân tộc Mông chiếm 80%; dân tộc Hoa và dân tộc khác chiếm 20%. Dân cư sống tập
trung, chủ yếu là làm nơng nghiệp. Nhân dân các dân tộc có truyền thống đoàn kết, tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của


25

Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Tỷ lệ hộ nghèo cao chiếm 48,8 % (theo tiêu chí mới). Cận nghèo 102 hộ chiếm
14,3%.
Đặc điểm tình hình của Đảng Ủy Tả Sìn Thàng
Đảng bộ xã Tả Sìn Thàng có 11 chi bộ trực thuộc, trong đó có 7 chi bộ thôn bản, 3
chi bộ nhà trường, một chi bộ cơ quan, có tổng số 141 đảng viên; Đảng viên chính thức
131 đồng chí, Đảng viên dự bị 10 đồng chí.
Đảng bộ xã Tả Sìn Thàng được thành lập và đi vào hoạt động dưới sự lãnh chỉ đạo
trực tiếp của Đảng bộ huyện Tủa Chùa. Tả Sìn Thàng là xã vùng sâu, vùng xa, ở đây vẫn
cịn gặp nhiều khó khăn với nhiều lí do: đa số người dân ở là người dân tộc trên địa bàn,
người dân tộc Mông chiếm đa số, mặt bằng đời sống kinh tế còn thấp. Đội ngũ cán bộ,

đảng viên của Đảng uỷ cuộc sống cịn nhiều khó khăn. Tuy vậy trong những năm gần
đây, tập thể cán bộ, đảng viên của toàn Đảng uỷ đã nỗ lực phấn đấu để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao.
Trong nững năm qua được sự quan tâm đặc biệt của các cấp các ngành, xã Tả Sìn
Thàng đã được đầu tư mở rộng chợ phiên; xây dựng các cơ sở giáo dục, y tế ngày một
khang trang.
Về nguồn nhân lực của Đảng uỷ: Xã có 141 đảng viên trong đó chính thức 131
đảng viên, dự bị 10 đảng viên.
Chất lượng đội ngũ: Đội ngũ có trình độ chun mơn Trung cấp chiếm 20,7%; Trình
độ chun mơn Cao đẳng 13,4%. Qua số liệu thống kê trên cho thấy phần đông đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ về chun mơn nghiệp vụ và trình độ chính trị được đào
tạo cơ bản nên trình độ kiến thức, năng lực của đội ngũ đảng viên cao. Đây là thuận lợi rất
cơ bản trong công tác lãnh chỉ đạo của Đảng bộ.
Về kinh tế - xã hội:
Tả Sìn Thàng là trung tâm kinh tế với tiềm năng là trung tâm mua bán trao đổi của
các xã phía Bắc thuận lợi cho phát triển kinh tế đó là: Cơng nghiệp, thương mại, du lịch,
dịch vụ,....


×