Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

BÙI THỊ LAN ANH

ĐỔI MỚI QUY TRÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT SẢN PHẨM
BÁO CHÍ CỦA BÁO QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

BÙI THỊ LAN ANH

ĐỔI MỚI QUY TRÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT SẢN PHẨM
BÁO CHÍ CỦA BÁO QUẢNG NINH

Chuyên ngành: Quản lý Báo chí và Truyền thơng
Mã số: 60 32 01 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ NHÃ

HÀ NỘI - 2018


Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.

Hà Nội, ngày……tháng…..năm 2018
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
(Ký và ghi rõ họ tên)


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Lê Thị Nhã.
Tất cả những tài liệu, trích dẫn trong luận văn đều trung thực, chính
xác, tin cậy, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu là chưa
từng được công bố.

Tác giả luận văn

Bùi Thị Lan Anh


LỜI CẢM ƠN


Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cơ giáo trong khoa Báo chí - Học
viện Báo chí và Tuyên truyền đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tơi trong suốt
q trình học tập cũng như hồn thành luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Thị Nhã, người đã
trực tiếp hướng dẫn tơi trong suốt q trình hồn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Bùi Thị Lan Anh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Nxb.:

Nhà xuất bản

PGS.TS:

Phó Giáo sư. Tiến sĩ

BTV:

Biên tập viên

PT-TH:

Phát thanh - Truyền hình


VTV:

Đài Truyền hình Việt Nam


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI
QUY TRÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT SẢN PHẨM BÁO CHÍ ................. 8
1.1. Các khái niệm................................................................................ 8
1.2. Đặc điểm của sản phẩm báo chí ................................................... 16
1.3. Những yếu tố tác động đến quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm
báo chí ............................................................................................... 19
1.4. Xu hướng phát triển của báo chí và yêu cầu đổi mới quy trình
tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí hiện nay ................................... 21
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY TRÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT SẢN PHẨM
BÁO CHÍ CỦA BÁO QUẢNG NINH HIỆN NAY..................................................... 30
2.1. Giới thiệu chung về báo Quảng Ninh........................................... 30
2.2. Thực trạng quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của
báo Quảng Ninh hiện nay ................................................................ 31
2.3. Những vấn đề đặt ra trong quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm
báo chí của báo Quảng Ninh ............................................................ 38
Chương 3: GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI QUY TRÌNH TỔ CHỨC
SẢN XUẤT SẢN PHẨM BÁO CHÍ CỦA BÁO QUẢNG NINH................... 47
3.1. Các giải pháp nhằm đổi mới quy trình sản xuất sản phẩm báo chí
của báo Quảng Ninh ........................................................................... 47
3.2. Đề xuất đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của
báo Quảng Ninh ................................................................................. 61
KẾT LUẬN ................................................................................................. 73

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 76
PHỤ LỤC.................................................................................................... 79


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí nói chung và của báo
Quảng Ninh nói riêng là một trong những vấn đề cấp thiết cần nghiên cứu
trong bối cảnh đổi mới hiện nay do tác động của công nghệ 4.0. Trong lĩnh
vực báo chí, việc đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm có vai trị
quan trọng trong việc thay đổi cách thức xuất bản, điều hành nhân lực và
tác nghiệp của nhà báo. Việc nghiên cứu về đổi mới quy trình tổ chức sản
xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh là đề tài mang tính cấp thiết và
có ý nghĩa cả về lý luận lẫn thực tiễn.
Thơng qua tìm hiểu từ thực tiễn, tác giả nhận thấy, tổ chức sản xuất
sản phẩm báo chí là hoạt động quan trọng và thường xuyên đối với tất cả
các cơ quan báo chí hiện nay. Mỗi mơ hình sản xuất sản phẩm báo chí đều
địi hỏi tn theo những quy trình riêng. Tuy nhiên, tại một số cơ quan báo
chí vẫn cịn cách làm truyền thống, tồn tại sự chậm chạp, cổ điển, các sai
sót trên sản phẩm báo chí vẫn cịn thường xun xảy ra, bởi quy trình
khơng chặt chẽ, gây nhiều tốn kém, lãng phí. Chính vì thế, hiện nay, nhiều
cơ quan báo chí buộc phải tích cực đổi mới sản phẩm báo chí cả về nội
dung lẫn hình thức, cải tiến quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí
của mình.
Đối với báo Quảng Ninh, từ khi thành lập cho đến nay, quy trình tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh vẫn được đánh giá là
còn một số hạn chế nhất định. Nhược điểm lớn nhất của quy trình tổ chức sản
xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh hiện nay là cứng nhắc, nhiều

tầng, nhiều mức, nhiều bước nên làm chậm tính thời sự, tính kịp thời, tính
thời điểm của tin bài, nhất là đối với những tin bài phản ánh những sự kiện,
thời sự nóng hổi.


2

Đặc biệt, việc áp dụng công nghệ thông tin trong quy trình tổ chức sản
xuất sản phẩm báo chí của báo cũng chưa được thực hiện hiệu quả. Hiện tại,
báo Quảng Ninh đang có 3 ấn phẩm (báo giấy hàng ngày, báo giấy cuối tuần
và báo điện tử). Do tư duy làm báo vẫn chủ yếu tập trung cho báo giấy, lấy
báo giấy làm chủ đạo nên chưa tận dụng, phát huy được ưu thế cạnh tranh
trong thời đại công nghệ thông tin của báo điện tử, chưa hội tụ được sức mạnh
của truyền thông. Từ tư duy lấy báo giấy làm chủ đạo nên trước các sự kiện
xảy ra trên địa bàn, để đảm bảo định hướng, chỉ đạo của tỉnh, quy trình tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo thường kéo dài, khiến sản phẩm báo
chí của báo được đăng tải chậm hơn một nhịp so với thông tin lan tràn trên
mạng xã hội, trên các báo mạng điện tử khác. Bên cạnh đó, trình độ năng lực
của đội ngũ làm báo, trong đó có đội ngũ ban biên tập, phóng viên chưa theo
kịp với sự phát triển của báo chí trong nước, khu vực và quốc tế.
Thực tế, đối với một cơ quan báo Đảng địa phương nói chung, với báo
Quảng Ninh nói riêng, để vừa đảm bảo được tính chính xác, chính thống vừa
phải đảm bảo tính nhanh nhạy, kịp thời khơng phải là dễ. Bởi vì, đảm bảo tính
chính xác, chính thống thì đơi khi thơng tin bị chậm, thiếu tính thời sự; ngược
lại, để đảm bảo tính nhanh nhạy, kịp thời, thì thường thơng tin lại thiếu sự cẩn
trọng, chính xác. Vì thế, đảm bảo đạt cả 2 nguyên tắc này là một bài tốn khó
đối với việc xây dựng quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo
Quảng Ninh nói riêng, hệ thống báo Đảng địa phương nói riêng.
Chính vì thế, u cầu đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo
chí trên báo Quảng Ninh là rất cấp thiết. Điều này sẽ đáp ứng tốt hơn nữa

nhiệm vụ chính trị được giao là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân
tỉnh Quảng Ninh; đồng thời, phải phát huy cao độ tính chất nhanh nhạy, kịp
thời, chính xác, hiện đại, phản ánh đa chiều, đa phương tiện. Đây cũng chính
là lý do thơi thúc tác giả thực hiện nghiên cứu đề tài “Đổi mới quy trình tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh”.


3

Trên cơ sở những yêu cầu và những vấn đề đặt ra cần giải quyết nêu
trên, đề tài sẽ tập trung nghiên cứu thực trạng, những ưu, nhược điểm của quy
trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh hiện nay. Từ đó,
luận văn cũng nêu rõ một số giải pháp và đề xuất một quy trình mới về tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh theo xu hướng hiện đại,
linh hoạt, phù hợp với tình hình mới, vừa rút ngắn thời gian sản xuất sản
phẩm báo chí, vừa đảm bảo nhiệm vụ chính trị được giao, đồng thời đáp ứng
được nhu cầu của công chúng.
Việc nắm bắt các nội dung về lý luận và thực tiễn của vấn đề đổi mới quy
trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh đã mang lại giá trị
lý luận và tính thực tiễn cao của luận văn. Đây cũng là đề tài phù hợp với chuyên
ngành báo chí hiện đang đào tạo tại Học viện Báo chí và tuyên truyền.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, đã có nhiều tác giả thực hiện nghiên cứu về đề tài
liên quan đến quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí. Trong đó, phải kể
đến một số tác giả như: Năm 2014, tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đã thực hiện
đề tài “Xây dựng quy trình xuất bản hai phiên bản của báo Hải Quan”. Từ mơ
hình hoạt động, quy trình xuất bản hiện tại của báo Hải quan, đề tài tập trung
rà sốt lại tồn bộ quy trình xuất bản của từng ấn phẩm, chỉ ra những hạn chế,
bất cập và những mắt xích kiềm hãm lẫn nhau trong q trình tác nghiệp của
phóng viên nói riêng, cũng như tồn bộ quy trình xuất bản nói chung. Đề tài

tiệm cận với những khái niệm mới trong xu thế phát triển của báo chí hiện
đại, như: Tịa soạn đa phương tiện, tác phẩm báo chí đa phương tiện, mơ hình
tịa soạn hội tụ... Đồng thời, tiến hành khảo sát, nghiên cứu quy trình xuất bản
của một số tịa soạn báo tại Việt Nam để có cơ sở và đề xuất quy trình xuất
bản hai phiên bản báo Hải quan mới theo hướng hiện đại, nhưng phù hợp với
đặc thù hoạt động thực tiễn của báo Hải quan.
Năm 2014, tác giả Trần Thị Kim Miên thực hiện đề tài “Đổi mới tổ
chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp của Đài PT-TH Bình


4

Dương”. Với đề tài này, tác giả Trần Thị Kim Miên đã chỉ rõ những hạn chế
trong việc sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp của Đài thời điểm đó,
đồng thời đưa ra một số giải pháp và đề xuất được một quy trình mới về tổ
chức sản xuất chương trình truyền hình trực tiếp tại Đài PT-TH Bình Dương.
Năm 2014, tác giả Nguyễn Thanh Tân đã thực hiện đề tài “Đổi mới quy
trình sản xuất bản tin tiếng Anh của Đài PT-TH địa phương một số tỉnh phía
Nam”. Với đề tài này, tác giả Nguyễn Thanh Tân không nêu cụ thể một Đài
PT-TH nào mà gộp chung vào thành một số tỉnh phía Nam. Đề tài đổi mới
quy trình sản xuất bản tin tiếng Anh cũng là một đề tài khá hay, được nhiều
người quan tâm vì việc sản xuất bản tin tiếng Anh ở một số Đài địa phương
trong cả nước cịn hạn chế, thiếu tính hấp dẫn.
Năm 2015, tác giả Lê Thị Hồng Thu đã thực hiện đề tài “Đổi mới tổ
chức sản xuất chương trình truyền hình cho đồng bào dân tộc thiểu số trên
kênh VTV5 – Đài Truyền hình Việt Nam”. Trên cơ sở hệ thống hóa lý thuyết,
khảo sát thực trạng về tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình dành cho
đồng bào dân tộc thiểu số trên kênh VTV5 - Đài Truyền hình Việt Nam, luận
văn đề xuất giải pháp đổi mới nội dung và phương thức tổ chức sản xuất các
chương trình truyền hình dành cho đồng bào dân tộc thiểu số ở VTV5 nhằm

đáp ứng những yêu cầu thực tiễn.
Năm 2015, tác giả Lê Thăng Bạch đã thực hiện đề tài “Xây dựng quy
trình tổ chức sản xuất các sản phẩm báo chí cho Đài PT-TH Cần Thơ hiện
nay”; tác giả Trần Minh Tuấn đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu quy trình và kỹ
năng cơ bản trong sáng tạo tác phẩm bình luận báo in ở Việt Nam hiện nay”
(khảo sát một số tác giả và tác phẩm báo Nhân dân, Quân đội nhân dân, Tuổi
trẻ, Lao động từ tháng 6/2014 đến tháng 1/2015).
Tại tỉnh Quảng Ninh, năm 2015, tác giả Trần Thị Trường Giang đã
thực hiện đề tài “tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí đối ngoại ở Đài PT-TH
Quảng Ninh nhìn từ góc độ báo chí đa phương tiện” (khảo sát các sản phẩm


5

báo chí đối ngoại với Trung Quốc từ tháng 1/2014 đến tháng 12/2014). Đề tài
này cũng được tác giả Trần Thị Trường Giang nghiên cứu khá sâu.
Mặc dù đã có nhiều đề tài nghiên cứu về quy trình tổ chức sản xuất sản
phẩm báo chí, tuy nhiên, cho đến nay, chưa có đề tài nghiên cứu nào đề cập
đến vấn đề đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo
Quảng Ninh. Vì vậy, luận văn này hy vọng sẽ phần nào đề cập thực trạng và
giải quyết những nhược điểm của quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí
của báo, từ đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thông tin tuyên truyền
trên báo Quảng Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn điều tra thực
trạng quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh, đánh
giá ưu điểm, nhược điểm, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh và đề xuất
một quy trình mới về tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh

hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề nghiên cứu.
- Điều tra thực trạng, điểm mạnh, điểm yếu trong quy trình tổ chức sản
xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp và đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản
phẩm báo chí của báo Quảng Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Vấn đề đổi mới quy trình tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Luận văn nghiên cứu quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của
báo Quảng Ninh, từ tháng 1/2017 đến tháng 12/2017.


6

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về báo chí cách mạng, báo chí của giai cấp vơ sản.
- Hệ thống quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách,
pháp luật của Nhà nước ta về báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng cơ sở phương pháp
sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu đối với các công trình nghiên cứu
làm cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp quan sát, điều tra thực tế quy trình tổ chức sản xuất sản

phẩm báo chí của báo Quảng Ninh.
- Phương pháp phỏng vấn sâu đối với ban biên tập, phóng viên trong
cơ quan báo Quảng Ninh.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn đã đề cập đến thực trạng quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm
báo chí của báo Quảng Ninh hiện nay, từ đó chỉ ra những ưu, nhược điểm của
quy trình này.
Trên cơ sở đó, luận văn còn đưa ra được những giải pháp, đồng thời, đề
xuất được một quy trình mới về tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí của báo
Quảng Ninh. Trong quy trình mới này sẽ khắc phục những nhược điểm của
quy trình trước đó.
7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
7.1. Ý nghĩa lý luận
Bước đầu hình thành những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng
quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với báo Quảng
Ninh nói riêng và cơ quan báo địa phương nói chung trong việc tham khảo,


7

ứng dụng vào việc đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình tổ chức sản xuất
sản phẩm báo chí.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn bao
gồm các nội dung cơ bản sau đây:
* Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề đổi mới quy trình tổ
chức sản xuất sản phẩm báo chí
* Chương 2: Thực trạng quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí

của báo Quảng Ninh hiện nay
* Chương 3: Giải pháp và đề xuất đổi mới quy trình tổ chức sản xuất
sản phẩm báo chí của báo Quảng Ninh


8

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI QUY
TRÌNH TỔ CHỨC SẢN XUẤT SẢN PHẨM BÁO CHÍ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm báo chí
Trong cuốn báo chí truyền thơng hiện đại, PGS.TS. Nguyễn Văn Dững,
cho rằng: Nhìn từ quan điểm hệ thống, báo chí là một hiện tượng phức tạp của
đời sống xã hội. Báo chí hiện đại ra đời muộn hơn nhiều hiện tượng xã hội khác,
nhưng nó phát triển rất nhanh chóng. Vì báo chí có vai trị to lớn đáp ứng nhu
cầu thông tin phong phú, đa dạng về mọi mặt trong q trình phát triển xã hội.
Vai trị đó khơng chỉ ở năng lực cung cấp thông tin, khai sáng giải trí hay thiết
lập tạo dựng và bảo vệ thiết chế chính trị, mà cịn trực tiếp hay gián tiếp tham gia
vào tiến trình phát triển kinh tế, văn hóa, kể cả hình thành nhân cách sống của
con người. Báo chí là hiện tượng xã hội đa chức năng trong mối quan hệ với các
lĩnh vực của đời sống xã hội hiện đại [23, tr.53].
Trong cuốn cơ sở lý luận báo chí, PGS. TS. Nguyễn Văn Dững lại nhận
định: Theo nghĩa hẹp, báo chí được hiểu bao gồm báo và tạp chí; theo nghĩa
rộng, bao gồm các loại hình báo chí: Báo in, phát thanh, truyền hình, báo
mạng điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ và phương
thức truyền thơng đa dạng, báo chí gắn với truyền thơng xã hội, mạng xã hội;
giới báo chí có thể được gọi chung là giới truyền thông [12, tr.55].
Trong cuốn Lao động nhà báo và quản trị tòa soạn báo chí, TS. Trương
Thị Kiên cho rằng: Báo chí là một phạm trù rộng lớn, bao gồm nhiều loại

hình. Trong mỗi loại hình báo chí, cịn tồn tại nhiều loại sản phẩm khác nhau,
chẳng hạn: Nhật báo, tuần báo, báo thưa kỳ, bán nguyệt san, nguyệt san, tạp
chí, bản tin, bản tin thơng tin… của báo in; chương trình thời sự, chương trình
chuyên đề, chương trình đặc biệt, chương trình phụ… của phát thanh, truyền
hình; trang chủ, chuyên trang của báo điện tử [24, tr.18].


9

Nói tóm lại, báo chí là tên gọi chung đối với các loại hình báo in, báo
hình, báo nói, báo điện tử. Báo chí được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm những
loại hình khác nhau như: Báo in (cịn gọi là báo viết), báo nói (phát thanh),
báo hình (truyền hình), báo điện tử (báo trên mạng Internet) – tức là những
kênh thông tin truyền thông đại chúng sản xuất và quảng bá thông tin thường
xuyên, liên tục, trên phạm vi rộng lớn, định kỳ (và phi định kỳ) đều đặn và cập
nhật nhất, tác động đến nhiều người nhất.
Báo chí cịn là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời
sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất
bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo công chúng thơng qua các
loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử. Cịn nếu nhìn dưới góc độ
khái niệm báo chí là một hoạt động, thì hoạt động báo chí là hoạt động sáng
tạo tác phẩm báo chí, sản phẩm báo chí, sản phẩm thơng tin có tính chất báo
chí; cung cấp thơng tin và phản hồi thơng tin cho báo chí; cải chính thơng tin
trên báo chí; xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền
dẫn, phát sóng báo nói, báo hình.
Hoặc nếu hiểu báo chí theo nghĩa là một cơng cụ, một phương tiện, thì
cũng có thể hiểu rằng báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận
của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính
trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn

đàn của Nhân dân”.
Như vậy, báo chí là một hiện tượng vơ cùng phong phú, đa dạng. Để có
thể hiểu một cách hồn chỉnh, tồn diện về nó, phải tiếp cận ở đầy đủ các góc
độ: Lịch sử hình thành, phát triển; các chức năng; nguyên tắc hoạt động; hệ
thống loại hình; hệ thống thể loại; lao động báo chí… Những nội dung này đã
được bóc tách, nghiên cứu trong rất nhiều sách tham khảo, chuyên khảo, giáo
trình trong và ngoài nước.


10

1.1.2. Khái niệm sản phẩm báo chí
Trong cuốn cơ sở lý luận báo chí, PGS.TS. Nguyễn Văn Dững cho
rằng: Sản phẩm báo chí là sản phẩm tổng hợp hồn chỉnh (số báo, chương
trình phát thanh, truyền hình) để có thể phát hành, phát sóng (với báo in, phát
thanh, truyền hình). Sản phẩm đơn lẻ chủ yếu do phóng viên, biên tập viên
chịu trách nhiệm trước tổng biên tập; tổng biên tập chịu trách nhiệm trước
pháp luật và dư luận xã hội (và người đứng đầu cơ quan chủ quản cơ quan
báo chí) về sản phẩm tổng hợp – số báo, chương trình phát thanh, truyền hình
[12, tr.63].
Trong giáo trình Lao động nhà báo của TS. Lê Thị Nhã, sản phẩm báo
chí nói đến ở đây là tờ báo hoặc chương trình phát thanh, chương trình truyền
hình [25, tr129].
Nói tóm lại, sản phẩm báo chí được hiểu là ấn phẩm, phụ trương của
báo in; nội dung hoàn chỉnh của báo điện tử; bản tin thơng tấn; kênh phát
thanh, kênh truyền hình; chun trang của báo điện tử.
Sản phẩm báo chí cịn là sản phẩm hồn chỉnh về nội dung cũng như
hình thức chuyển tải như tờ báo in, tờ báo mạng, chương trình phát thanh,
truyền hình, báo chí trên điện thoại di động. Mỗi sản phẩm báo chí như tờ
báo, tờ tạp chí, chương trình phát thanh, chương trình truyền hình từ khi bắt

đầu sản xuất đến khi được công chúng tiếp nhận đều tuân thủ theo một trình
tự các bước nhất định, gọi là quy trình sản xuất sản phẩm báo chí. Ở một góc
nhìn khác, sản phẩm báo chí là tổng hợp các ấn phẩm, các tác phẩm báo chí
do đội ngũ làm báo thực hiện hồn chỉnh, đáp ứng cho độc giả về nhu cầu
thông tin trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Sản phẩm báo chí cũng là hiện tượng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có
nhiều cách tiếp cận khơng giống nhau trong các xã hội có thể chế chính trị
khác nhau. Sản phẩm báo chí được đem ra trao đổi, mua bán như bất cứ một
hàng hóa nào, tuy nhiên điểm đặc biệt của nó nằm ở quy trình sản xuất và giá


11

trị mà chúng đem lại cho người mua. Số lượng sản phẩm và độ tin cậy của
chúng ngày càng trở thành thước đo quan trọng đánh giá vị thế của cơ quan
báo chí. Do vậy, tầm quan trọng của quy trình sản xuất sản phẩm báo chí cũng
ngày một được khẳng định hơn.
Trong một sản phẩm báo chí có sự góp mặt của nhiều tác phẩm báo
chí. Tác phẩm báo chí chỉ là một bộ phận nhỏ mang tính đơn lẻ của một sản
phẩm báo chí và do nhà báo sáng tạo ra (một tờ báo, chương trình truyền
hình, chương trình phát thanh, một tờ báo mạng điện tử). Tuy nhiên không
phải tác phẩm nào được đăng tải trên sản phẩm báo chí là tác phẩm báo chí,
bởi sản phẩm báo chí cũng đăng tất cả những loại tác phẩm khác (như:
Truyện ngắn, thơ văn, sản phẩm quảng cáo, thông tin nhà đất, việc làm…).
Sáng tạo tác phẩm báo chí chỉ là một khâu nằm trong quy trình tổ chức sản
xuất sản phẩm báo chí.
1.1.3. Khái niệm quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí
Quy trình được hiểu là tập hợp những cơng đoạn, thao tác có liên quan
hoặc tác động tương tác lẫn nhau để biến đổi nguyên liệu đầu vào thành sản
phẩm đầu ra. Quy trình cũng được hiểu là trình tự phải tuân theo để tiến hành

một cơng việc nào đó.
Tổ chức là việc sắp xếp, bố trí thành các bộ phận để cùng thực hiện một
nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung. Tổ chức cịn là “làm những gì cần
thiết để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm có được hiệu quả tốt nhất”.
Hiểu theo nghĩa thông thường, tổ chức là liên kết nhiều người lại để
thực hiện một công việc nhất định. Tổ chức đặt ra để thực hiện nhiệm vụ. Mỗi
tổ chức đều có mục đích, nhiệm vụ riêng.
Sản xuất là tạo ra vật phẩm cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao động
tác động vào đối tượng lao động, là hoạt động bằng sức lao động của con
người hoặc bằng máy móc, chế biến các nguyên liệu thành của cải vật chất
cần thiết.


12

Theo quan niệm phổ biến trên thế giới thì sản xuất được hiểu là quá
trình tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Cũng có thể hiểu, sản xuất là hoạt động
tạo ra vật phẩm cho xã hội bằng cách dùng tư liệu lao động tác động lên đối
tượng lao động.
Sản xuất hay sản xuất của cải vật chất là hoạt động chủ yếu trong các
hoạt động kinh tế của con người. Sản xuất là quá trình làm ra sản phẩm để sử
dụng, hay để trao đổi trong thương mại. Quyết định sản xuất dựa vào những
yếu tố chính sau: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? Giá
thành sản xuất và làm thế nào để tối ưu hóa việc sử dụng và khai thác các
nguồn lực cần thiết làm ra sản phẩm.
Thuật ngữ sản xuất trước đây chỉ bao hàm việc tạo ra sản phẩm hữu
hình. Sau này nó được mở rộng bao hàm cả việc tạo ra các dịch vụ. Ngày nay,
nói đến sản xuất có nghĩa là khơng kể việc nó tạo ra sản phẩm hữu hình hay
dịch vụ. Hệ thống sản xuất có các đặc tính:
Một là, hệ thống sản xuất chịu trách nhiệm cung cấp sản phẩm hay dịch

vụ cho nhu cầu xã hội.
Hai là, các hình thức sản xuất khác nhau có thể có đầu vào khác nhau,
đầu ra khác nhau, các dạng chuyển hóa khác nhau, song đặc tính chung của
nó là chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành các kết quả đầu ra có tính hữu
dụng, có ích cho đời sống của con người.
Nếu coi sản xuất là một quá trình thì tổ chức sản xuất là các biện pháp,
các phương pháp, các thủ thuật để duy trì mối liên hệ và phối hợp hoạt động
của các cá nhân, các bộ phận cùng tham gia vào quá trình sản xuất đó một
cách hợp lý theo thời gian.
Nếu coi sản xuất là một trạng thái thì tổ chức sản xuất là các phương
pháp, các thủ thuật nhằm hình thành các bộ phận sản xuất có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau và phân bổ chúng một cách hợp lý về mặt không gian.
Để tổ chức sản xuất tạo ra sản phẩm, đầu tiên cần phải phân chia quá


13

trình sản xuất tạo nên sản phẩm thành các quá trình riêng. Căn cứ vào phương
pháp, kỹ năng khác nhau, dựa trên lao động máy móc sẽ hình thành nên loại
hình sản xuất, cơ cấu sản xuất, lập kế hoạch sản xuất và tổ chức công tác điều
phối sản xuất.
Như vậy có thể hiểu, tổ chức sản xuất là làm những gì cần thiết để liên
kết những người lao động, các quy trình lao động để tạo ra vật phẩm, đáp ứng
nhu cầu thiết thực cho xã hội, bằng cách dùng tư liệu lao động tác động vào
đối tượng lao động, trên cơ sở các quy tắc nghề nghiệp và theo quy trình nhất
định. Thực chất của quá trình tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình sản
xuất phức tạp thành các quá trình thành phần (tức là các bước cơng việc), trên
cơ sở đó áp dụng những hình thức cơng nghệ, các biện pháp tổ chức phân
cơng lao động và các phương tiện, công cụ lao động thích hợp. Trong q
trình đó tìm biện pháp phối hợp hài hịa giữa các bộ phận tham gia vào q

trình sản xuất nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất. Và cuối cùng, tổ chức
sản xuất có vai trị quyết định đối với hiệu quả của quá trình sản xuất.
Trong lĩnh vực truyền thơng có thể hiểu việc tổ chức sản xuất là tạo ra,
làm nên các sản phẩm truyền thơng. Ví dụ: Tổ chức sản xuất ra tờ báo in,
chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, chương trình Thời sự,
chương trình Chuyên đề.
Tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí là việc lập kế hoạch nội dung, hình
thức cho từng số báo hoặc chương trình phát thanh, chương trình truyền hình,
tùy thuộc vào mục đích của cơ quan báo chí, tùy thuộc vào tính chất, quy mơ,
ý nghĩa của thông tin đáp ứng nhu cầu của công chúng.
Quy trình sản xuất sản phẩm báo chí được hiểu là các cơng đoạn mang
tính bắt buộc để sản xuất ra một sản phẩm báo chí như một tờ báo in, tạp chí,
một chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, ấn phẩm báo mạng
điện tử...


14

Quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí có thể hiểu là sự phối hợp
nhuần nhuyễn giữa các bộ phận với nhau, bao gồm các bộ phận sản xuất nội
dung và kỹ thuật để tạo thành một chương trình truyền hình, phát thanh, tờ
báo...; là các cơng đoạn mang tính bắt buộc để sản xuất ra một sản phẩm báo
chí như một tờ báo in, tạp chí, một chương trình phát thanh, chương trình
truyền hình, ấn phẩm báo mạng điện tử...
Mỗi loại hình báo chí có những cơng đoạn và trình tự sản xuất khác
nhau, có sự tham gia của nhiều thành viên, nhiều bộ phận để sản xuất thành
một sản phẩm báo chí mang tính tập thể.
Nói tóm lại, quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí là các bước
có tính chất bắt buộc để sản xuất ra một sản phẩm báo chí. Do các sản phẩm
báo chí đa dạng về loại hình nên quy trình tổ chức sản xuất của từng loại

hình cũng khác nhau về cơng đoạn và trình tự sản xuất. Mỗi cơng đoạn có sự
tham gia của nhiều thành viên và trải qua nhiều công đoạn mới tạo thành một
sản phẩm báo chí mang tính tập thể.
- Quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí nói chung về cơ bản có
những cơng đoạn sau:
+ Cơng đoạn 1: Lập kế hoạch sản xuất sản phẩm. Việc lập kế hoạch có
thể do ban biên tập phân cơng hoặc do phóng viên phát hiện. Kế hoạch sẽ
được đưa ra họp bàn, trao đổi và đi đến quyết định thống nhất.
+ Công đoạn 2: Tổ chức thực hiện kế hoạch sản xuất sản phẩm. Sau khi
kế hoạch được duyệt, sẽ tiến hành công đoạn tổ chức thực hiện kế hoạch sản
xuất sản phẩm. Đây là giai đoạn trung tâm của việc thực hiện sản phẩm báo
chí, nó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm báo chí.
+ Cơng đoạn 3: In ấn, phát sóng, truyền dẫn phát tán sản phẩm. Mỗi
sản phẩm báo chí khác nhau sẽ được phát sóng, phát tán theo các phương thức
khác nhau.


15

Tuy nhiên, từng loại hình báo chí, từng cơ quan báo chí lại có các quy
trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí riêng biệt.
Riêng với loại hình báo in thường đi theo quy trình sau:
Xây dựng kế hoạch sản xuất sản
phẩm

Ban biên tập phân cơng các phịng,
ban chun mơn thực hiện

Phịng thư ký tổng hợp, sửa bơng,
sửa morat, thiết kế, trình bày


Ban biên tập duyệt

In ấn, phát hành

Tiếp nhận phản hồi, xây dựng kế
hoạch số báo tiếp theo

1.1.4. Khái niệm đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí
Đổi mới là q trình vận động tự nhiên của mọi hiện tượng xã hội. Đối
với xã hội, đổi mới là một phản ứng mang tính tự nhiên của xã hội để đảm
bảo sự thích nghi của nó trước những biến đổi mơi trường tự nhiên, mơi
trường quốc tế, để thích ứng với tình thế.
Ngay từ năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm đổi mới
trong sự vận dụng cụ thể vào đổi mới đất nước. Công cuộc đổi mới, xây dựng
là trách nhiệm của dân. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến
bộ cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân. Đổi


16

mới, theo Hồ Chí Minh, cịn là để thắng sức ỳ của thói quen, của tập quán cũ.
Dù đó là việc khó khăn, nhưng chẳng có việc gì là khơng thể đổi mới.
Đổi mới còn là cách để thay đổi một phương thức sống, tạo lập một
phương thức sống mới, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, đổi mới và phát triển là những khái niệm rất gần gũi, đôi khi được
hiểu như nhau.
Hiểu theo một cách khác, đổi mới là quá trình giải phóng mang ý nghĩa
tồn diện của từ đó, giải phóng về tư tưởng, giải phóng về lực lượng sản xuất,
giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của con người, giải phóng khả năng, trí tuệ

của nhân dân để phục vụ cho sự phát triển của con người, đảm bảo tự do, sáng
tạo của nhân dân.
Nói tóm lại, đổi mới quy trình tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí có thể
hiểu là thay đổi, tạo lập nên các công đoạn mới để sản xuất ra một sản phẩm
báo chí như một tờ báo in, tạp chí, một chương trình phát thanh, chương trình
truyền hình, ấn phẩm báo mạng điện tử... Hay cũng có thể hiểu là thay đổi
các cơng đoạn để sản xuất ra một sản phẩm báo chí như một tờ báo in, tạp
chí, một chương trình phát thanh, chương trình truyền hình, ấn phẩm báo
mạng điện tử... nhằm đáp ứng yêu cầu, tình hình mới, đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển.
1.2. Đặc điểm của sản phẩm báo chí
Việc nhận diện đặc điểm của sản phẩm báo chí khơng chỉ có ý nghĩa về
lý luận mà quan trọng hơn là ý nghĩa thực tiễn trong quy trình tổ chức sản
xuất sản phẩm báo chí. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và tiếp thu ý kiến của
đông đảo nhà báo giàu kinh nghiệm cũng như sự trải nghiệm của nhiều đồng
nghiệp, tác giả xin nêu ra mấy đặc điểm sau đây:
- Tính thời sự của sản phẩm báo chí: Sản phẩm báo chí chủ yếu thơng
tin những sự kiện và vấn đề thời sự đã và đang diễn ra. Thông tin thời sự
trong cách hiểu của lý luận sản phẩm báo chí được hiểu là phản ánh những
sự kiện mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra liên quan đến nhiều người và có


17

ý nghĩa thời cuộc. Sản phẩm báo chí chủ yếu thông tin cái mới và đương
nhiên không bỏ qua cái lạ vì nó đáp ứng nhu cầu nhận thức, giải trí và hấp
dẫn cơng chúng.
- Tính cơng khai của sản phẩm báo chí: Đối tượng tác động của sản
phẩm báo chí là đơng đảo cơng chúng. Cho dù mỗi sản phẩm báo chí (số báo,
chương trình phát thanh, truyền hình) được xuất bản hay phát sóng đều nhằm

vào nhóm cơng chúng, đối tượng xác định, nhưng thông tin sản phẩm báo chí
nói chung tác động đến mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, mọi vùng miền
trong cả nước và thậm chí cả các châu lục khác trên hành tinh này. Sản phẩm
báo chí tác động đến quảng đại nhân dân, tác động vào số đơng. Đó là tính
cơng khai của sản phẩm báo chí. Cơng khai tức là khơng giữ kín, mà để cho
mọi người có thể biết.
Cơng khai trên sản phẩm báo chí tức là sản phẩm báo chí thơng tin sự kiện,
xã hội hóa sự kiện. Sự kiện đó sẽ tác động vào nhận thức, thái độ, hành vi của
hàng triệu người, làm lay động, chỉ phối, thậm chí lũng đoạn hàng triệu người.
Vấn đề liên quan đến tính cơng khai trên các thơng tin của sản phẩm
báo chí có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà báo trong việc lựa chọn sự kiện
và vấn đề thơng tin.
- Tính mục đích của sản phẩm báo chí: Mục đích là cái được nêu ra,
vạch ra làm đích nhằm thực hiện cho được. Mọi hoạt động của con người
ln có mục đích, chí ít là mục đích mưu sinh, sau đó là mục đích chính trị,
nghệ thuật; có mục đích cho bản thân, cho gia đình, cho nhóm người; có mục
đích vì cộng đồng, vì tổ quốc, vì nhân loại; có mục đích trước mắt và lâu dài.
Những thơng điệp giao tiếp trên sản phẩm báo chí khơng chỉ nhằm thỏa mãn
mục đích giao tiếp cá nhân và nhóm nhỏ, mà quan trọng hơn và chủ yếu là
nhằm thỏa mãn nhu cầu và lợi ích cơng chúng, cộng đồng, xã hội. Xét cho
cùng, mục đích của sản phẩm báo chí là mục đích chính trị và nhân văn. Vì nó
lơi kéo, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, tổ chức đông đảo nhân dân tham gia
giải quyết các vấn đề kinh tế-xã hội.


18

- Tính định kỳ của sản phẩm báo chí: Định kỳ có thể được hiểu là từng
khoảng thời gian nhất định, sau đó sự việc lại xảy ra. Trong báo chí, cứ sau
một khoảng thời gian, sản phẩm báo chí được xuất bản, được truyền phát đi.

Cứ như thế, định kỳ, đều đặn, lặp đi lặp lại.
Mỗi loại hình sản phẩm báo chí thể hiện tính định kỳ theo đặc trưng
của mình. Chẳng hạn, sản phẩm báo in xuất bản cách buổi (báo buổi sáng),
cách ngày (nhật báo, báo hằng ngày), cách vài ngày (báo thưa kỳ), cách tuần
(báo tuần, hay tuần báo), cách nửa tháng (bán nguyệt san), cách tháng (báo
tháng, nguyệt san).
Với sản phẩm báo phát thanh và truyền hình, định kỳ với khoảng thời
gian ngắn hơn, có thể tính bằng giờ. Ví dụ, với sự phát triển của khoa học
công nghệ và tốc độ diễn ra của các sự kiện thơng tin, cứ sau mỗi giờ có
chương trình thời sự giờ.
Ở sản phẩm báo mạng điện tử, tính định kỳ gần như khơng cịn nữa.
Với sự hỗ trợ của cơng nghệ thơng tin hay máy tính, báo mạng điện tử có thể
xuất bản đơn lẻ, xã hội hóa từng tác phẩm tin bài mà khơng chờ hồn chỉnh
kết cấu nhiều tin bài trong một tệp mới xuất bản. Và bất cứ lúc nào, từng phút,
từng giây cũng có thể post tin bài lên báo mạng điện tử, không cần phải đợi
một khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, sản phẩm báo mạng điện tử cũng
có tính định kỳ tương đối của nó. Tính định kỳ tương đối này do chu kỳ sinh
hoạt theo múi giờ của mỗi vùng địa lý quy định.
- Tính phong phú, đa dạng: Phong phú có thể được hiểu là nhiều và lắm
màu vẻ. Cịn đa dạng là có nhiều dạng biểu hiện khác nhau. Theo đó, thơng
tin trên sản phẩm báo chí thể hiện nhiều cấp độ, nhiều chiều, nhiều lĩnh vực,
nhiều phương tiện và dạng thức biểu hiện. Tính chất phong phú, đa dạng của
sản phẩm báo chí có thể chỉ ra nhiều khía cạnh. Trong đó, đối tượng phản ánh
của sản phẩm báo chí là các sự kiện và vấn đề đã, đang diễn ra trên tất cả mọi
lĩnh vực đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa... trên bình diện chung


×