Cơ điện tử - ngành mũi nhọn phát 
triển KHCN 
Tại Hội nghị quốc tế về cơ điện tử lần thứ 8 vừa diễn ra tại Hà Nội (từ 
9/11-12/11/2004), Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm khẳng định : 
"Chính phủ Việt Nam, giới khoa học Việt Nam coi cơ điện tử là một 
trong những ngành khoa học công nghệ cần được ưu tiên phát triển 
phục vụ kinh tế xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế."
Vậy cơ điện tử là gì và có vai trò như thế nào trong việc thúc đẩy phát 
triển khoa học công nghệ cũng như nền kinh tế Việt Nam phát triển và hội 
nhập? Tại sao người ta lại nói cơ điện tử - "cơ hội vàng" cho những nước 
chậm phát triển trong đó có Việt Nam trong đó có Việt Nam? 
CƠ ĐIỆN TỬ
-MỘT CÔNG NGHỆ MỚI
Thuật ngữ cơ điện tử được hình thành vào năm 1969 do ông Tesuro Mori 
người Nhật Bản, Tổng giám đốc của Công ty Seibu Electric and 
Machinery nêu ra, khi ông đề xuất một công nghệ mới sản xuất các máy 
công cụ tiên tiến với sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ khí và điện tử. Ban 
đầu,Cơ điện tử dùng để chỉ các hệ thống chỉ có th
ành phần cơ khí và điện 
tử-không yêu cầu sự tính toán. Ví dụ như cửa trượt tự động, máy bán 
hàng tự động, hệ thống mở cửa gara Đến những năm 90 của thập niên 
trước, khi công nghệ truyền thông được đưa vào các sản phẩm CƠ ĐIỆN 
TỬ đã làm cho CƠ ĐIỆN TỬ có khả năng kết nối trong mạng rộng. Sự 
phát triển này mang đến những chức năng mới như điều khiển từ xa. 
Trong thời gian này, các công nghệ cảm biến và cơ cấu chấp hành mới, 
nhỏ hơn- thậm chí cấp độ micro-được dùng ngày càng nhiều trong các sản 
phẩm mới. Hệ thống Vi CƠ ĐIỆN TỬ như gia tốc kế silicon dùng để khởi 
động túi khí 
ô tô là ví dụ mới nhất. Sự phát triển của CƠ ĐIỆN TỬ đến 
giai đoạn này tạo nên một hệ nhất quán-phát triển về chất chứ không đơn 
thuần chỉ là sự phát triển rầm rộ về số lượng. Máy tính và các chíp vi xử 
lý đ
ã mạnh và rẻ để có thể nhúng vào các sản phẩm cùng với các công 
nghệ cao khác như cảm biến, cơ cấu chấp hành, công nghệ phần mềm, 
công nghệ điều khiển số hiện đại cho ra những sản phẩm thông minh. 
Các chức năng của máy móc và hệ thống kỹ thuật hiện nay phụ thuộc chủ 
yếu vào phần mềm có thể là một thuật tóan, mạng nơron, hệ mờ trong 
máy tính của sản phẩm. CƠ ĐIỆN TỬ là một công nghệ tổng hợp ngày 
càng nhi
ều các công nghệ khác để có thể có được các sản phẩm hoàn hảo 
hơn. Hay nói cách khác CƠ ĐIỆN TỬ li
ên kết các yếu tố cấu thành của 
ngành Cơ học, Điện tử và Điều khiển để tạo n
ên một CÔNG NGHỆ MỚI, 
trong đó có sự chuyển biến về chất của tư duy công nghiệp m
à trọng điểm 
là TƯ DUY CÔNG NGHỆ. Bằng tư duy công nghệ mới v
à sự phối hợp 
liên ngành, con người sẽ đổi mới, xúc tiến các phương pháp giải quyết 
những vấn đề kỹ thuật tổng hợp và đưa ra các sẩn phẩm CƠ ĐIỆN TỬ 
tiên tiến phục vụ nền công nghiệp hiện đại. Nhưng cũng phải hiểu rằng 
CƠ ĐIỆN TỬ l
à một thể thống nhất chứ không phải là sự gộp đơn thuần 
của nhiều công nghệ khác nhau như cơ khí, điện tử, máy tính, cảm biến 
Cấu trúc của các công nghệ này phải thay đổi để trở thành một cấu trúc 
thống nhất trong một sản phẩm CƠ ĐIỆN TỬ. Các sản phẩm cơ điện tử 
có một hàm lượng "thông minh" riêng tạo nên tính năng của thiết bị trong 
các lĩnh vực giao thông, robot, hệ thống sản xuất, năng lượng mới, thiết bị 
y tế, hàng không vũ trụ 
CƠ ĐIỆN TỬ
-"CƠ HỘI VÀNG" CHO NHỮNG NƯỚC CHẬM PHÁT 
TRIỂN
Để hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam đang phải tìm lời giải cho 
bài tóan c
ạnh tranh về giá cả lẫn chất lượng sản phẩm trên thị trường 
trong nước và nước ngo
ài. Theo các chuyên gia kinh tế một trong những 
điểm yếu m
à sản phẩm của Việt Nam khó có thể cạnh tranh, thậm chí 
thua ngay trên sân nhà là thiếu những sản phẩm có tính "thông minh". Ví 
d
ụ trong hoàn cảnh hàng hóa cơ khí xuất khẩu của Việt Nam hiện nay 
mới chủ yếu là phần cứng thô sơ, phi tiêu chuẩn có hàm lượng "thông 
minh" thấp, giá cả thường tính trên khối lượng sản phẩm. Bên cạnh đó, 
nền công nghiệp Việt Nam còn tụt hậu đòi hỏi phải đầu tư nhiều nên đã 
làm tăng giá thành sản phẩm, do đó khó có khả năng cạnh tranh ngay tại 
Việt Nam cũng như trong khu vực. Để có khả năng tiếp cận công nghệ 
hiện đại của thế giới, từng bước có thể tự thiết kế, chế tạo các thiết bị, 
máy móc điều khiển thông minh trong những năm đầu thế kỷ 21, Nghị 
quyết Trung ương 2 khóa VIII và kết luận của Hội nghị Trung ương 6 
khóa IX khẳng định: việc nghiên cứu và ứng dụng CƠ ĐIỆN TỬ là một 
bước đi rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa
 và hiện đại hóa 
đất nước. CƠ ĐIỆN TỬ cho phép những nước ngh
èo, chậm phát triển 
không nhất thiết phải đi theo trình tự phát triển của những nước công 
nghiệp đã đi qua-phương pháp cổ điển và cách thức tiếp cận truyền thống-
n
ữa mà có thể "đi tắt đón đầu". Đó là các nước chậm phát triển có thể tạo 
ra những đột phá trong tư duy CÔNG NGHỆ TỔNG HỢP, tạo ra những 
sản phẩm mới có tính cạnh tranh trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm 
ngoài quy luật này nếu chúng ta biết tận dụng truyền thống THÔNG 
MINH-SÁNG TẠO-CẦN CÙ của dân tộc. Điều này sẽ giúp cho hàng hóa 
c
ủa Việt Nam đứng vững trên thị trường quốc tế trong bối cảnh toàn cầu 
hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Để thực hiện được điều n
ày, theo Tiến sĩ 
Phạm Anh Tuấn, Viện Cơ học: Việt Nam phải có đội ngũ cán bộ khoa 
học công nghệ có tính sáng tạo cao, đặc biệt là trong việc sử dụng và phát 
tri
ển các phần mềm ứng dụng trong thiết kế và chế tạo. Điều này quyết 
định sự th
ành bại của sản phẩm CƠ ĐIỆN TỬ vì nó là phần "hồn" trong 
việc phát triển "trí tuệ" của các sản phẩm. Bên cạnh đó, Việt Nam có thể 
bỏ qua một số giai đoạn đầu tư tốn kém trong phát triển công nghiệp, đặc 
biệt là cơ khí, điện tử để đi thẳng vào ứng dụng công nghệ cao tạo ra 
sản phẩm mới. Trong những năm qua trên con đường hội nhập và sự gia 
tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, các trang thiết bị của công nghệ cơ 
điện tử từ nước ngoài đang thâm nhập vào nước ta ng
ày một nhiều như 
robot, máy công cụ, máy cắt laser điều khiển số, máy in, máy ảnh Vấn 
đề này đặt ra nhu cầu bức thiết cho cá
c doanh nghiệp về nguồn nhân lực 
tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Hãy thử tính xem phần trí tuệ của sản phẩm 
CƠ ĐIỆN TỬ sẽ l
à phầm chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong giá cả của 
máy móc và thiết bị. Mười lăm năm trước đây, tỷ lệ giữa cơ khí/phần 
cứng/phần mềm là 60/25/15. Vào những năm 1998, tỷ lệ này còn 
30/15/55 và hi
ện nay tỷ lệ phần mềm còn cao hơn nhiều. Do vậy với khả 
năng sáng tạo của người Việt Nam cần phải chú trọng đến giải pháp sáng 
tạo trong thiết kế, tích hợp tổng thể liên ngành, các phương pháp điều 
khi
ển và công nghệ lập trình để tạo dựng được phần "trí tuệ" gắn bó hữu 
cơ với "phần cứng" của máy móc để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh. 
Đây chính là "cơ hội vàng" cho các nước chậm phát triển như Việt Nam 
có thể "đi tắt đón đầu", đi thẳng vào nền kinh tế tri thức, phát huy tài năng 
trí tuệ để tạo ra những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trong quá trình hội 
nhập kinh tế quốc tế. 
TƯƠNG LAI CƠ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
Hiện nay, điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam là chưa có khả năng 
thiết kế tổng hợp và có hiệu quả các sản phẩm mới nhằm đáp ứng yêu cầu 
của thị trường trong thời gian ngắn nhất. Nếu ngành chế tạo máy của Việt 
Nam chỉ tạo ra những sản phẩm cơ khí đơn thuần thì rất khó cạnh tranh 
trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu. Ứng dụng cơ điện tử để chế tạo ra 
các máy công cụ thông minh, thiết bị thông minh là giải pháp đột phá tạo 
ra sức cạnh tranh cho ngành chế tạo máy. Để chế tạo được thiết bị "phần 
cứng" của các thiết bị này như: cơ cấu chấp hành, sensor ,Việt Nam cần 
nhiều thời gian, thế nhưng các phần cứng này thường đã được chuẩn hóa 
và bán rộng rãi trên thị trường với giá cả hợp lý. Do đó, Việt Nam chỉ cần 
tập trung vào phần cứng đặc thù (phi tiêu chuẩn) và phần mềm "trí tuệ" để 
tạo ra sản phẩm mới có khả năng cạnh tranh trong khu vực và thế giới. 
Theo giáo sư
-viện sĩ Nguyễn Văn Đạo, Chủ tịch Hội cơ học Việt Nam: 
chúng ta cần phải đặt ra 2 câu hỏi lớn để giải bài toán CƠ ĐIỆN TỬ. Một 
là loại sản phẩm CƠ ĐIỆN TỬ nào cần được phát triển tại Việt Nam để từ 
đó chúng ta có thể "đi tắt đón đầu" công nghệ, không mất thời gian đi v
ào 
nh
ững sản phẩm phần cứng mà thế giới đã tiêu chuẩn hóa. Hai là vai trò 
c
ủa các kỹ sư cơ học kỹ thuật đối với sự phát triển các sản phẩm này. 
C
ũng theo giáo sư-viện sĩ Nguyễn Văn Đạo: tại thời điểm này các sản 
phẩm cần được tập trung phát triển là robot thông minh làm việc trong 
môi trường nguy hiểm v
à sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, trạm phát 
điện năng lượng gió v
à mặt trời, các cảm ứng vi cơ, máy bay siêu nhẹ, các 
tàu lặn, thiết bị vệ tinh nhỏ Còn theo tiến sĩ Phạm Anh Tuấn: Để phát 
triển CƠ ĐIỆN TỬ, Việt Nam phải bắt đầu bằng việc đào tạo kỹ sư, cao 
học và tiến sĩ chuyên ngành CƠ ĐIỆN TỬ. Hiện nay, có nhiều cán bộ 
khoa học, kỹ thuật khá giỏi ở các chuyên ngành như cơ khí, điện, điện tử, 
điều khiển Nhưng Việt Nam lại rất thiếu kỹ sư có kiến thức chuy
ên 
ngành và t
ổng hợp liên ngành (kỹ sư cơ điện tử) giữ vai trò "nhạc trưởng" 
trong tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ tạo ra sản phẩm 
mới có hiệu quả tối ưu. Chính vì vậy, việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa 
học kỹ thuật ngành cơ điện tử là việc cần làm ngay ở nước ta. Để CƠ 
ĐIỆN TỬ trở th
ành ngành công nghệ mũi nhọn của chiến lược phát triển 
khoa học công nghệ của đất nước, công tác nghiên cứu ưu tiên việc MÔ 
PH
ỎNG và THIẾT KẾ hệ cơ điện tử tích hợp bao gồm kỹ thuật phần 
cứng lẫn phần mềm để tạo ra các sản phẩm sự nghệip công nghiệp hóa 
hiện đại hóa đất nước. Cụ thể các nhà khoa học và lý thuyết tập trung 
nghiên cứu các phương pháp điều khiển hiện đại, như: lý thuyết điều 
khiển mờ, mạng noron, điều khiển thời gian thực và công nghệ điều khiển 
nhúng. Nghiên cứu chế tạo có lựa chọn một số sản phẩm cơ điện tử như: 
máy công cụ, máy động lực, thiết bị kỹ thuật điện- điện tử, cơ khí ô tô và 
các thiết bị đo lường điều khiển phù hợp với yêu cầu trong nước và có 
kh
ả năng cạnh tranh ở khu vực. Ngoài ra, Việt Nam cần tiến tới tự chế tạo 
sản phẩm công nghệ cao( phần mềm và phần cứng) phục vụ thiết kế hệ cơ 
điện tử, robot thông minh v
à các công cụ khác thay thế con người trong 
m
ột số lĩnh vực đặc biệt. Trạm phát điện gió năng lượng mặt trời tàu lặn 
phục vụ công tác nghiên cứu đại dương. Để tạo ra đột phá trong tương lai 
cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng như các lĩnh vực: vi cơ điện 
tử(MEMS) và nano cơ điện tử (NEMS) Không phải ngẫu nhiên mà Tạp 
chí công nghệ của Viện Công nghệ Massachusetts(một tạp chí khoa học 
công nghệ nổi tiếng thế giới) xếp chuyên ngành CƠ ĐIỆN TỬ là một 
trong 10 công nghệ có thể thay đổi thế giới trong thế kỷ 21. Nhận định 
này không chỉ phù hợp cho các nước trên thế giới mà hết sức phù hợp với 
tiềm năng của Việt Nam trong tương lai gần.