TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC- MẦM NON
------
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1
Giảng viên: Trần Dương Quốc Hòa
Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Thương
Lớp: Đại học Tiểu học B – Khóa 5
Năm học: 2017 - 2018
Yêu cầu 1: Xem xét – đánh giá việc thực hiện 03 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ở
trường tiểu học Nguyễn Khắc Hiếu, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.
Ngun tắc phát triển tư duy
Phân mơn chính tả lớp 2( nghe – viết): Cây xồi ơng em
- Giáo viên đặt học sinh vào trạng thái tư duy liên tục, bằng việc đưa ra các
câu hỏi để định hướng tư duy như:
+ Cây xồi có hình ảnh nào đẹp?
+ Đoạn viết có mấy câu?
+ Chú ý sau dấu chấm phải viết như thế nào?
Phần từ khó: giáo viên cho tự học sinh tìm từ khó, sau đó đặt câu hỏi như:
+ Từ “ lúc lỉu” khó chỗ nào? Phân tích tiếng “ lúc” và tiếng “ lỉu”?
+ So sánh tiếng “ trông” với “ tiếng “ trong”?
+ Đặt câu với từ khó?
Phần chính tả âm vần:
+ Cấu tạo của vần “ ươn” và vần “ ương”?
+ Tìm ra sự giống và khác nhau của vần “ ươn” và vần “ ương”?
Như vậy, học sinh đã được rèn luyện các thao tác phân tích, so sánh, khái
quát, tổng hợp…
- Giáo viên giải thích các từ để học sinh hiểu được ý nghĩa của các đơn vị
ngơn ngữ, ví dụ như giải thích thêm về từ “ lúc lỉu”.
- Bên cạnh đó giáo viên cịn phát triển ngơn ngữ cho học sinh, sau mỗi câu
trả lời của học sinh giáo viên điều chỉnh lời nói cho học sinh để học sinh
nắm được nội dung các vấn đề cần nói và thể hiện được nội dung đó bằng
ngơn ngữ.
Tiết dạy này đã đáp ứng đủ các tiêu chí của một tiết dạy tích cực:
Cả lớp đều tham gia:
- Viết từ khó vào bảng con ( kiểm tra bài cũ)
- Thảo luận theo nhóm đơi để tìm từ khó ( bài mới)
- Cả lớp viết chính tả
- Trao đổi vở viết cho bạn để sữa lỗi chính tả.
- Tổ chức trị chơi “ điền vàochỗ trống” ở phần chính tả âm –vần.
Học sinh tự sản sinh ra tri thức
- Học sinh tự tìm ra từ khó
- Học sinh tự nhận xét, phân tích, đặt câu với từ khó.
Khơng khí lớp học vui vẻ, sơi nổi:
- Giáo viên ln tạo khơng khí thoải mái trong lớp học.
- Tổ chức trò chơi “ điền vào chỗ trống” ở phần chính tả âm –vần.
- Học sinh tích cực phát biểu, xây dựng bài dù đúng hay sai
Tương tự, trong phân môn tập đọc giáo viên cũng đảm bảo được nguyên tắc
tư duy trong dạy học qua việc đặt hệ thống câu hỏi để học sinh tự tìm ra kiến
thức, sau đó giáo viên sẽ củng cố và chốt lại kiến thức.
Phân mơn tập viết: Bài Ơn tập chữ hoa H
Ở tiết dạy Tập viết này em cho rằng giáo viên thực hiện chưa tốt nguyên tắc
tư duy trong dạy học. Bởi các lý do sau:
+ Các thao tác của giáo viên quá nhanh như trong giảng bài, viết bóng, thời
gian thảo luận nhóm .
+ Cách đặt câu hỏi máy móc:
Chữ hoa H,V, N cao mấy li?
Chữ hoa H,(V, N ) gồm mấy nét, đó là những nét nào?
Nêu cách viết của chữ hoa H ( V,N ) ?
+ Học sinh trả lời khơng chủ động, cịn nhìn lên màn hình chiếu.
+ Mục đích chính của tiết Tập viết là học sinh phải được rèn luyện viết nhiều(
viết bóng, viết bảng con, viết vở tập viết) nhưng đa phần thời gian giáo viên
bắt học sinh nhắc lại kiến thức quá nhiều.
+ Giữa các hoạt động của giáo viên còn khá rời rạc, khơng có câu chuyển mà
là một lời thơng báo cho hoạt động tiếp theo.
Do đó, q trình tư duy của học sinh chưa được liên tục, chưa đáp đủ mục
tiêu của một tiết Tập viết.
Nguyên tắc giao tiếp
Phân môn tập đọc lớp 2( nghe – viết): Mẹ
- Giáo viên đưa ra nội dung bài tập đọc vì ở lớp 2 môn tập đọc chú trọng
vào việc luyện đọc và khả năng giao tiếp cho học sinh , việc tìm ra nội
dung bài cũng là quá sức với học sinh ở lứa tuổi này.
- Nguyên tắc giao tiếp được giáo viên thực hiện đan xen với nguyên tắc
phát triển tư duy nhằm đặt học sinh vào tình huống kích thích để phát
triển lời nói, đó là:
+ Theo hình thức hỏi – đáp: giáo viên đưa câu hỏi, học sinh trả lời và sau
mỗi câu trả lời của học sinh giáo viên có điều chỉnh cách nói cho hồn
thiện hơn.
+ Giáo rèn luyện cho học sinh cách thể hiện thái độ, tình cảm, cử chỉ và
ngữ điệu nói phù hợp với mỗi hành vi lời nói.
Ví dụ: Biết thể hiện tình cảm yêu thương, biết ơn cha mẹ. Giáo viên hỏi “
Ở nhà, ba mẹ đã chăm sóc các con như thế nào?” Sau khi học sinh trả lời,
giáo viên hỏi tiếp “ Vậy con có yêu thương ba mẹ mình khơng? Con sẽ
làm gì để tỏ lịng biết ơn với ba mẹ?”
- Ở phần luyện đọc, học sinh được rèn luyện cách phát âm, cách ngắt hơi
đúng chỗ và đọc biểu cảm.
- Giáo viên tổ chức thi đọc diễn cảm cho cả lớp giúp tạo khơng khí vui tươi,
hứng thú học tập cho học sinh đồng thời rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm ở
học sinh : Học sinh đọc diễn cảm theo cặp cho nhau nghe, sau đó mỗi
nhóm lớn sẽ tự ứng cử ra học sinh đọc trước lớp.
So sánh với tiêu chí của một tiết dạy tích cực:
Cả lớp đều tham gia:
- Hoạt động trò chơi khởi động ( kiểm tra bài cũ) chỉ có 3 học sinh tham
gia.
- Hoạt động đọc theo nhóm 4 người, cả lớp đều được tham gia
Học sinh tự sản sinh ra tri thức
- Học sinh tự tìm ra cách ngắt nhịp bài thơ dựa trên cách đọc của giáo
viên.
- Học sinh tự tìm câu trả lời cho câu hỏi của giáo viên.
Khơng khí lớp học vui vẻ, sơi nổi:
- Giáo viên ln tạo khơng khí thoải mái trong lớp học.
- Học sinh tích cực phát biểu, xây dựng bài dù đúng hay sai
- Tổ chức trò chơi khởi động đầu giờ
- Tổ chức thi đọc diễn cảm
- Tổ chức hát tập thể để thư gian trước khi qua phần tìm hiểu bài.
Học vần lớp 1: ong – ông
- Nguyên tắc giao tiếp được giáo viên thực hiện đan xen với nguyên tắc
phát triển tư duy phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh:
+ Giáo viên đặt câu hỏi:
Vần “ ong” gồm mấy âm?
So sánh vần “ ong” với vần “ on”?
Giáo viên sửa cách trả lời cho học sinh ( phải lễ phép có thưa gửi rõ
ràng)
- Phần kiểm tra bài cũ giáo viên cho học sinh mở rộng vốn từ bằng cách tự
tìm từ chứa vần “ n – ươn” viết vào bảng con. Sau đó phân tích các từ
đó.
- Trong bài mới, giáo viên xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động
hành chức: vần “ ong” trong tiếng “ võng” trong từ cái võng; vần “ ông”
trong tiếng “ song” trong từ “ dịng sơng”. Giáo viên tổ chức các hoạt
động nói năng để học sinh phân tích được các vần, tiếng khóa, từ khố
trong bài mới.
-
Học sinh được rèn luyện đọc với nhiều hình thức: cá nhân, theo bàn, theo
dãy,cả lớp.
- Phần viết vần, từ khóa giáo viên hướng dẫn rõ ràng, dễ hiểu giúp học sinh
dễ dàng thực hiện theo khi viết vào bảng con đồng thời còn rèn được kĩ
năng lắng nghe cho học sinh.
Tiết dạy này đã đáp ứng các tiêu chí của một tiết dạy tích cực:
Cả lớp đều tham gia:
- Hoạt động trò chơi khởi động ( kiểm tra bài cũ) “ Con vật em thích”
Luyện đọc
Học sinh tự sản sinh ra tri thức
- Học sinh tự so sánh được “ ong” với “ ơng”, phân tích được vần, tiếng
và từ trong bài.
Học sinh tự tìm câu trả lời cho câu hỏi của giáo viên.
Khơng khí lớp học vui vẻ, sơi nổi:
Giáo viên ln tạo khơng khí thoải mái trong lớp học.
Học sinh tích cực phát biểu, xây dựng bài dù đúng hay sai
Tổ chức trò chơi khởi động đầu giờ
- Kể chuện “ Thỏ thăm nhà bạn” gây hứng thú cho học sinh, từ đó đưa ra
được từ ứng dụng.
Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh
tiểu học
Ở hầu hết các tiết dạy giáo viên đều có tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí, trình độ
ngơn ngữ, đặc điểm vùng miền của học sinh trong lớp. Để từ đó định nội
dung, kế hoạch và phương pháp dạy học sao cho phù hợp với học sinh lớp đó
nhất.
Phân mơn chính tả lớp 2( nghe – viết): Cây xồi ông em
- Giáo viên chú ý đến trình độ từ vựng vốn có của học sinh lớp mình nói
chung và của từng học sinh nói riêng. Từ đó chọn bài tập lựa chọn ở phần
chính tả âm – vần.
Học vần lớp 1: ong – ơng
Giáo viên tổ chức trị chơi “ Con vật em thích” học sinh vừa có thể được
chơi mà con được học. Tùy vào vốn từ của mỗi học sinh, các sẽ tự tìm
được từ chứa vần đã học và còn biết thêm các từ khác của bạn.
Giáo viên dạy với nhiều hình thức mới lạ,có hình ảnh gây hứng thú cho
học sinh: kể chuện “Thỏ thăm nhà bạn” học sinh giúp thỏ vượt qua các
thử thách để đến được nhà bạn, ở mỗi thử thách sẽ đưa ra được từ ứng
dụng.Bài dạy sử dụng powerpoin với cách thiết kế đẹp, logic giúp học
sinh dễ nắm bài hơn.
Yêu cầu 2: Một số băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực tế với các tiết
dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học.
- Trong Tập làm văn học sinh cịn có sự rập khn khi viết văn. Em thấy
tất cả học sinh đều viết theo một mẫu của giáo viên, ít có sự sáng tạo, tự
do trong cách viết.
Theo em, để hạn chế được tình trạng này giáo viên không nên bắt học
sinh viết theo một dàn bài nhất định. Nên để cho các em tự do viết theo
cảm nghĩ, tình cảm của mình. Giáo viên chỉ sửa cách dùng từ sao cho
hay hơn.
- Trong một tiết dạy bình thường giáo viên chưa dạy đủ quy trình. Ví dụ
như trong Tập viết (lớp 2) giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh viết vở tập
viết. Bỏ qua các phần khác như kiểm tra bài cũ, hướng dẫn viết bảng
con.
Xảy ra tình trạng này là bởi vì giáo viên chủ nhiệm dạy hầu hết tất cả các
môn ( trừ âm nhạc, mĩ thuật, tiếng anh). Nên khơng chạy kịp chương
trình, cứ thời gian mơn này lấn qua thời gian dạy mơn khác. Vì vậy, do
hạn chế thời gian mà giáo viên đã bỏ qua một số bước trong quy trình
dạy học.
Khơng có quy định sử dụng chữ in thường hay chữ viết thường khi viết
bảng ( trừ tiết học vần). Ví dụ như trong tiết Chính tả( lớp 2): Cây xồi
ơng em: giáo viên viết chữ thường bài chính tả, bài tập âm – vần ( chữ in
thường) vào bảng phụ. Em có hỏi GVHD và cơ nói là cái này khơng bắt
buộc theo một quy định nhất định.
Tập viết ( lớp 3): Ôn tập chữ hoa: H. Giáo viên cho học sinh nhắc lại
quá nhiều lần cách ghi các chữ hoa, làm mất thời gian. Và cách trả lời
của học sinh thì rập khn, máy móc ( chắc do GV bắt các em về học
thuộc bởi đây là tiết hội giảng). Giáo viên giới thiệu về vua Hàm Nghi
q nhiều, sau đó cịn nhắc lại vào phần củng cố cuối bài.
Theo em vì đây là bài ôn tập nên chỉ cần cho học sinh nhắc lại cách viết
một lần và phải là tự các em trả lời theo trí nhớ của mình thì giáo viên
mới biết các em nắm bài như thế nào. Từ đó có điều chỉnh, sửa đổi cho
các em. Về phần câu ứng dụng, giáo viên chỉ nên giới thiệu sơ lược về
vua Hàm Nghi và không nên nhắc lại nhiều lần bởi đó khơng phải trong
tâm của bài.
Theo như giáo trình: Luyện viết từ khó: GV lựa chọn ( Lưu ý: Với HS
cuối lớp 3, có thể tập cho HS tự phát hiện ra từ khó). Nhưng thực tế
trong các tiết chính tả lớp 2 giáo viên cho HS tìm từ khó trong bài. Và
các em đều rút ra được từ khó, phần tích được các từ khó đó. Vậy thì
việc rút từ khó này là dựa trên trình độ của học sinh mà giáo viên tự rút
hay tổ chức cho học sinh rút từ khó?